phoenix

Đi tìm căn cước thật của Việt Nam

6 bài viết trong chủ đề này

DCVOnline – Nguồn gốc dân tộc là một đề tài khoa học, phức tạp và còn nhiều tranh cãi. Điển hình là cuộc thảo luận trực truyến ở Diễn đàn Diễn đàn Lịch sử Trung Hoa (China History Forum) về nguồn gốc của cư dân hiện nay đang sống tại hai tỉnh miền Nam nước CHND Trung Hoa (Quảng Đông và Quảng Tây) và xa gần liên hệ đến nguồn gốc người Việt Nam. Cuộc tranh luận có hai nhóm rõ rệt. Một là nhóm người Trung Hoa, đa số là ở lục địa và nhóm thứ hai, đa số là người Việt hải ngoại - kể cả những người di tản sau năm 1975, trong đó có cả người Việt gốc Hoa.

Mời bạn đọc muốn tham khảo thêm ghé thăm trang đọc thêm Diễn đàn Lịch sử Trung Hoa và đọc bài của tác giả Lê Đỗ Huy, “Ai là tổ tiên của cư dân Lưỡng Quảng?”, Tạp chí Xưa & Nay số 295, 11/2007 tr. 30-33 đăng lại trên talawas và có thêm chú thích.

Trong bài này tác giả Lê Đỗ Huy tường thuật về một nhận định chung của c hai nhóm và những nhà nghiên cứu nước ngoài là:

Nghiên cứu DNA do các trung tâm ở Thượng Hải, Côn Minh và Hoa Kỳ (Center for Genome Information, Department of Environmental Health, University of Cincinnati, Cincinnati, Ohio 45267, USA) chỉ ra rằng người Bắc Trung Hoa (Tây An và Bắc Kinh) và người Nam Trung Hoa (Quảng Châu, Thượng Hải) có cùng mẫu ADN.

Nhận định này khác với ý kiến sau đây của tác giả Nam Phan:

“Ngược lại, chỉ số sọ giữa người Trung Quốc Hoa Nam và người Trung Quốc Hoa Bắc (thuộc Hán tộc thuần chủng) lại khác nhau hoàn toàn. Và sự khác nhau này cũng đã được DNA di truyền học hiện đại xác định.”

(trích : www.dcvonline.net)

Mời ACE tham khảo tại:

Diễn đàn Lịch sử Trung Hoa

(Còn tiếp_

Share this post


Link to post
Share on other sites

Ai là tổ tiên của cư dân Lưỡng Quảng?

Lê Đỗ Huy lược thuật

Mấy năm qua, tại Diễn đàn Lịch sử Trung Hoa (China History Forum) đã diễn ra một cuộc thảo luận trực tuyến về nguồn gốc của cư dân hiện nay đang sống tại hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây [Lưỡng Quảng] của CHND Trung Hoa. Dựa vào những tranh luận trên diễn đàn này, một hoạt động sôi nổi, lôi cuốn nhiều người ở Trung Hoa lục địa và hải ngoại tham gia, chúng tôi xin lược thuật để bạn đọc tham khảo.

Cuộc thảo luận trực tuyến được thực hiện bằng tiếng Anh, có đôi chỗ chú thích bằng tiếng Hoa, gồm hàng trăm ý kiến dàn trải trên 7 chương, mỗi chương có thể in ra chừng hơn 30 trang giấy khổ A4. Chủ đề của cuộc thảo luận là quan điểm Liên-Bách Việt (Pan-baiyueism), bàn về nguồn gốc chung của người Việt Nam và người nói tiếng Quảng Đông (Cantonese). Các thành viên tham dự diễn đàn này gồm chủ yếu là người Trung Hoa ở phía Nam (nhóm thứ nhất), thường phủ định quan điểm "Liên-Bách Việt", một số người Việt Nam và Việt gốc Hoa (nhóm thứ hai, ít hơn về số người), được xem là cổ súy cho quan điểm trên, và một số ý kiến trung dung.

Các tranh luận thường khá gay gắt, nhưng các nhóm có vẻ đồng thuận với một số sử liệu, thường trích từ các công trình nghiên cứu phương Tây sau đây [1] :

Vào khoảng đời nhà Chu (1134-770 tCn) và Xuân Thu, tại khu vực phía Nam Trung Hoa giáp với biên giới Trung-Việt ngày nay đã tồn tại những bộ tộc không thuộc Hoa tộc như Bách Việt, Bộc (Pu) [2] ...

Tới thời Xuân Thu, người Việt ở khu vực núi Cối Kê (nay là Thiệu Hưng) thuộc Chiết Giang lập ra vương quốc Việt. Nước Việt vào năm 473 tCn đã chinh phục nước Ngô [3] láng giềng, đóng đô ở Tô Châu thuộc Giang Tô. Nhưng rồi Việt bị nước Sở thôn tính năm 306 tCn. Vào thời Xuân Thu, người Đông Việt được xem là cư trú ở vùng nay thuộc phía Đông nước Trung hoa hiện đại, người Dương Việt cư trú ở phía bắc của tỉnh Giang Tô hiện nay. Các bộ tộc Bách Việt khác như Âu Mân sống ở vùng Chiết Giang, Phúc Kiến; Nam Việt sống ở vùng Quảng Đông, Tây Âu ở Quảng Tây, Lạc Việt ở Phúc Kiến... Trong thời kỳ Chiến quốc (480-221 tCn), vương quốc Việt cũng chao đảo dưới những biến động chính trị, giống như các lãnh thổ thuộc Thục và Ba nay thuộc Tứ Xuyên, nhưng lộ trình văn hóa của nó vẫn khác xa văn hóa Trung Hoa “chính thống" [Hán] của lưu vực sông Hoàng Hà.

Bắt đầu thời kỳ miền bắc của Dương Tử bị Trung Hoa hóa [Hán hóa] mạnh mẽ. Bức trường thành ngăn các bộ tộc du mục từ phương bắc xuống đã được nước Tần (221-206 tCn) và Yên xây dựng. Khu vực hiện nay thuộc Phúc Kiến lần lượt bị nhà Tần và nhà Hán chinh phạt, nhưng phong kiến Trung Hoa đã không thực sự kiểm soát được vùng đất này. Vào đầu đời Hán (206 tCn - 220), Triệu Đà lập ra vương quốc Nam Việt ở khu vực Quảng Đông, độc lập với triều đình Hán. Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa năm 221 tCn, quân nhà Tần bắt đầu tiến xuống phía nam dọc theo sông Tây Giang tới vùng Quảng Đông hiện nay, và xác lập các quận dọc theo các trục đường chính. Tới năm 112 tCn. Hán Vũ Đế đã chinh phục những vùng phương Nam (Trung Hoa), cùng với vùng nay là miền bắc Việt Nam và cử người Hán cai quản các quận.

Dưới đời Hán, ngoài Nam Việt ở viễn nam chủ yếu là ở Lưỡng Quảng và Việt Nam, sử sách còn kể về tiểu quốc Mân Việt ở đông bắc tập trung ở vùng sông Mân Giang, nay thuộc Phúc Kiến (Mân là tên cũ của tỉnh Phúc Kiến).

Thời Tam Quốc, Sách Địa lý chuyển luận trong Hán thư chép: "Ở khoảng bảy hay tám ngàn dặm tính từ Giao Chỉ đến Cối Kê (nam Giang Tô hay bắc Chiết Giang), những người Bách Việt có mặt ở mọi nơi, chia thành nhiều thị tộc".

Hoạt động di cư của người Trung Hoa (Hán) càng tăng trưởng, người Việt càng bị đẩy vào các vùng đất cằn hơn, và vào rừng núi. Không giống như những người du mục Trung Á như tộc Hung Nô hoặc tộc Tiên ti, người Việt chưa từng thực sự đặt ra mối đe dọa nghiêm trọng đối với sự bành trướng hay kiềm tỏa của Trung Hoa (người Hán). Thỉnh thoảng họ dấy lên những cuộc đột kích vào khu định cư của người Hoa, mà các sử gia cổ gọi là “những cuộc nổi loạn". Người Trung Hoa (Hán) cho rằng người Việt không văn minh, và hay đánh lẫn nhau.

Sự sụp đổ của nhà Hán và giai đoạn chia tách tiếp theo đã đẩy mạnh quá trình Trung Quốc hóa. Các thời kỳ bất ổn và chiến tranh ở miền Bắc Trung Hoa giữa Bắc Triều và Nam Triều, cũng như trong đời Tống đã dẫn tới hoạt động di cư ồ ạt của người Trung Hoa (xuống phương Nam). Hôn nhân dị chủng và giao lưu giữa các nền văn hóa đã dẫn đến sự pha trộn giữa người Trung Hoa (Hán) và không Trung Hoa (không phải Hán) ở miền Nam. Cho đến đời Đường, từ “Việt” đã trở nên một định ngữ chỉ vùng hơn là chỉ một nền văn hóa. Một nhà nước từng nằm ở tỉnh Chiết Giang hiện nay trong thời kỳ Ngũ đại thập quốc chẳng hạn, đã tự xưng là Ngô Việt.

Về thời Bắc thuộc, Diễn đàn dẫn luận án phó [?] tiến sĩ của Jennifer Holmgren "Sự đô hộ của Trung Hoa đối với [bắc] Việt Nam" (Chinese Colonisation of Northern Vietnam, 1980) có đoạn viết:

Những ghi chép về hoạt động của Trung Hoa ở Bắc Bộ Việt Nam trong 6 thế kỷ đầu thời kỳ thực dân này (Việt Nam gọi là thời Bắc thuộc) cho thấy quá trình Việt Nam hóa đối với các dòng họ Trung hoa. hơn là quá trình Hán hóa đối với người Việt... Sự trêu ngươi như thế cho thấy một số thị tộc Trung Hoa xác lập quyền lợi của dòng họ mình ở Bắc Bộ: định cư dần dần, giúp đỡ mở mang và cuối cùng hoà nhập vào môi trường xã hội kinh tế và chính trị ở Bắc Việt Nam. Kết quả cuối cùng của quá trình này là sự xuất hiện của một tầng lớp thượng lưu Hoa-Việt, quá trình phi thực dân hóa ở vùng viễn nam, và những mưu toan bất thành ở thế kỷ VI để khôi phục nền độc lập, thoát ách đô hộ của phương Bắc. Ví dụ cho quá trình này là sự thăng tiến của Sĩ Nhiếp thời Hậu Hán và những nỗ lực giữ nền độc lập của người nhà ông này sau khi ông qua đời.

Từ cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng thế kỷ I đến cuộc nổi dậy của Lý Bôn thế kỷ VI, sử sách của Trung Hoa cho thấy biểu hiện của một sự phụ thuộc về chính trị trên nền nửa độc lập với Bắc triều. Theo dòng thời gian, những thời kỳ có đặc tính bán tự trị ngày càng tăng lên. Xu thế này làm nền cho cuộc nổi dậy của nhà [Tiền] Lý ở giữa thế kỷ VI và cuối cùng là sự phân liệt hoàn toàn khỏi Trung Hoa vào thế kỷ X.

Tác động của văn hóa Việt đối với văn hóa Trung Hoa đã không được xác định một cách chính thức, nhưng nó khá rõ rệt. Ngôn ngữ của các tiểu quốc cổ Ngô và Việt tạo nên ngôn ngữ Ngô, và phần nào tới ngôn ngữ Mân ở Phúc Kiến. Những nhà nghiên cứu ngôn ngữ cho rằng một số từ tiếng Trung Hoa có nguồn gốc từ tiếng Việt cổ chẳng hạn như từ jiang (giang), có nghĩa là sông. Những tàn tích về người Việt có thể quan sát được trong một số nhóm thiểu số ở Trung Hoa.

Ở Chiết Giang, nhà hát được gọi là rạp diễn Việt kịch. Tiếng Việt là một bộ phận của tiếng Trung Hoa và thường được gọi là tiếng Quảng Đông. Mẫu tự chính thức và các phương ngữ hình thành từ nó được sử dụng ở Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam, Hồng Kông, Ma Cao và tại một số cộng đồng Hoa Kiều trên thế giới.

Một số tên gọi khác của người Việt còn truyền được tới nay là Yi-Yue (hoặc Yu-Yue/ Ngải-việt), Mân-việt, Sơn-Việt, Dương-Việt (người Việt ở biển), U- Việt và Câu-Ngô. Những nhà nghiên cứu tiếng dân tộc cho rằng tên gọi người Việt có liên quan đến nghề chế biến cây gai dầu ở miền nay là Chiết Giang.

Chữ Việt cũng được xem là từ chỉ lưỡi phủ việt, một dụng cụ hay khí giới giống cái búa hay cái rìu, hình chữ nhật, biểu trưng cho quyền lực hoàng gia hay đế chế. Nhiều dụng cụ dạng rìu bằng đá đã được tìm thấy ở Hàng Châu, do vậy, nhiều học giả cho rằng lưỡi việt (búa dùng trong nghi lễ) là một sáng chế của miền Nam. Chữ Việt cũng từng được dùng để chỉ Quảng Đông và Quảng Tây [4] .

Cho dù nhiều bộ tộc Việt vẫn thấp thoáng đó đây trên lãnh thổ CHND Trung Hoa và để lại những dấu ấn trong sử sách đến cuối đời Hán, nay chỉ có thể kể tên vài nhóm dân Việt như Palyu “Lai", Bugan “Hualuo hay Huazu”, Bit, Bulang, Hu, Kemu, Khuen, Wa... Di sản lớn nhất của người Việt cổ chính là miền Bắc Việt Nam, miền đất mà họ chạy về đó định cư do sự truy bức của Trung Hoa.

Về các tộc thiểu số khác ở khu vực nay là biên giới Trung Việt, theo sách của S. Robert Ramsey. Những ngôn ngữ của Trung Hoa (The Languages of china) tr. 233, không chỉ có Hakka (Khách gia, miền nam gọi là Hẹ), Mân và người Quảng Đông, là những người ở miền Nam Trung Hoa từ đầu, mà từ lâu đời người Thái đã thấp thoáng đóng một vai trò có qui mô ngay trước khi một thiên hạ Trung Hoa lộ rõ. Từ đầu thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên, những khu vực trồng lúa đã lốm đốm xuất hiện ở lưu vực sông Dương Tử. Vẫn theo S. Robert Ramsey, trong số các tiểu quốc được điểm tên trong lịch sử Trung Hoa có Ngô, ở gần Thượng Hải hiện nay, và Việt nằm dọc theo bờ biển Nam Trung Hoa, là những quốc gia của người Thái. Các quốc gia này dần dần bị Trung Quốc nuốt dần và đa số người Thái đã trở thành người Trung Hoa, qua đồng hóa về văn hóa và ngôn ngữ. Một nhà dân tộc học đã ước tính rằng ít nhất 60% người Quảng Đông có tổ tiên là thổ dân nói tiếng Thái.

Về các vùng khác thuộc miền Nam Trung Hoa nói chung: miền Nam Trung Hoa trước thời Hán bao gồm nhiều nền văn hóa gần với Đông Nam Á như văn hóa Đông Sơn. hoặc những nền văn hóa nổi tiếng hơn như Ngải, Di hoặc Ba Thục. Trong đó, văn hóa Điền ở Vân Nam thể hiện những cư dân khác sau thời đồ đồng. Xứ Vân từng cho thấy mối liên hệ về các nhóm người phương Nam với những bức tranh trong hang vẽ pháp sư (saman) khua gươm cong, chuôi có núm tròn kiểu Hán, thể hiện quyền lực trên đầu một đám đông. Người Hán từng có tục xăm mình để trấn áp những chứng bệnh nhiệt đới cũng như những cừu thù trong thời gian chiếm đóng những vùng đất thù địch.

Ở Vân Nam, văn hóa hiện đại của địa phương này không có nhiều liên hệ với nền văn hóa thuần Hán của vùng đồng bằng trung tâm cả về tín ngưỡng, trang phục, ẩm thực. Ở Vân Nam, còn tồn tại tục ăn côn trùng.

Những nguồn và ý kiến trên thường thuộc về các nhà nghiên cứu phương Tây, ít gây tranh cãi hơn so với những ý kiến dưới đây.

Nhóm thứ nhất (người Trung Hoa, đa số là ở lục địa) cho biết một số phát hiện và khẳng định sau:

Người Quảng Đông cách đây 2.000 năm là sự pha trộn giữa người Việt tại chỗ và người Hán. Người Việt lúc đó gần với người thiểu số dân tộc Nùng hiện nay ở Việt Nam.

Vương quốc Nam Việt gồm những cư dân người Kinh (?) sống ở đó nhưng họ là người Trung Hoa. Quảng Đông và Quảng Tây cũng như quốc gia cổ Nam Việt, không có quan hệ với dân tộc hiện nay mang quốc hiệu Việt Nam. Hoặc họ (người Trung Hoa ở phương Nam) không có quan hệ gì với người Nam Việt, cho dù Triệu Đà, vua Nam Việt lúc đó là người Hán.

Trong khoảng 100 năm gần đây người Hoa di cư xuống Việt Nam là từ Lưỡng Quảng và Phúc Kiến. Người Hán phương Bắc, theo nhóm thứ nhất, hầu như không di cư xuống Việt Nam, họ chỉ chạy sang Nam Triều Tiên vào năm 1949 và định cư chủ yếu ở Pusan và Seoul.

Người Hoa di cư xuống phía Nam thường không phải là người Hán. Họ tự gọi mình là người Minh Hương, hiện ở Việt Nam còn thế hệ thứ tư của những người Minh Hương, phần nhiều không nói, viết được tiếng Hoa.

Người miền Nam Trung Hoa có ngoại hình khác với người Trung Hoa phương Bắc. Nhà Nguyên Mông chia người Trung Hoa thành các nhóm: Mông, du mục người Hán phương Bắc, người Hoa phương Nam. Một vài ý kiến cho rằng người Trung Hoa phương nam có ngoại hình phần nào giống với người Việt Nam.

Nhiều người Quảng Đông hiện đại còn giữ được gia phả theo đó tổ tiên của họ di cư từ phía bắc xuống Quảng Đông vào đời Đường (618-907) và đời Tống (960-1279). Cuộc di cư lớn nhất xảy ra vào cuối đời Tống, họ cư trú ở nơi mà người Nam Việt đã bị đẩy xuống Quảng Tây hoặc Việt Nam hiện nay, nơi mà khi đó những người Choang là thiểu số so với người Kinh chiếm đa số.

Người Trung Hoa ở phương Nam hiện nay nói chung đã bị Hán hóa.

Còn có trên 50 triệu người thuần huyết thống Nam Việt hiện ở Quảng Tây và Quế Lâm.

Những người thổ dân thuộc các bộ tộc thiểu số Lê, Tày, Đai..., được chính phủ Trung Hoa xếp vào cùng nhóm với người Choang, nhóm này có tổng dân số trên 20 triệu người.

Không có nhiều người Quảng Đông sinh ra ở Việt Nam. Cộng đồng Trung Hoa ở Việt Nam chủ yếu là những người nói tiếng Triều Châu (Tiều) hoặc Phúc Kiến [5] .

An Dương Vương (Thục Phán), Triệu Đà, cũng như anh hùng dân tộc của Việt Nam Lý Bí, đều là người phương Bắc Trung Quốc.

Nhiều ý kiến của nhóm thứ nhất thường nhấn mạnh rằng họ là những người Quảng Đông thuộc về hệ Hán, hiện chiếm đa số ở khu vực Lưỡng Quảng, và "rất tự hào về nguồn gốc Hoa Hạ và Đông Di của mình", hiện chung sống với "các dân tộc thiểu số” đáng yêu có nền văn hóa rực rỡ, danh giá thuộc về giòng dõi Nam Việt. Rằng đa số người Trung Hoa hiện đại không cho rằng nước Nam Việt lúc đó gần với Âu Lạc (được xem là nằm trong vương quốc Nam Việt) hơn là gần với Trung Hoa. Rằng những người Việt Nam hiện đại kém hiểu biết cần được dạy dỗ, rằng họ chỉ có quan hệ với Âu Lạc, nhưng không có quan hệ gì với vương quốc Nam Việt. Cổ sử Trung Hoa, theo họ chép rằng những người Hán đã tàn sát và đánh đuổi những bộ lạc Việt về phía Nam và xuống đồng bằng sông Hồng trong "các cuộc chinh phạt cướp đất". Có ý kiến khuyên người Việt không nên tự hào về dòng dõi Nam Việt vì đây chính là giống Nam Man [6] . Một số ý kiến cho rằng người Việt nhìn chung là “bội bạc", "quanh co”, đàn ông Việt Nam không chăm chỉ và không chú trọng xây dựng gia đình theo khuôn mẫu Á đông. Có ý kiến lại cho người Việt là đần độn và khờ dại. Cũng có ý kiến cho rằng người Việt hiện đại xấu hổ (?) vì dòng dõi Bách Việt và tìm cách “leo thang" để gắn mình với người Quảng Đông và người Trung Hoa. Và cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ không được người Mỹ ưa chuộng (?)

Posted Image

Xin nêu thêm một số phát hiện đến từ cả hai nhóm và các nhà nghiên cứu phương Tây:

Nhà Tần (221-206 tCn) cũng có truyền thuyết về con chim thần (tựa như Âu Cơ).

Có nhiều người Việt cổ bị đồng hóa thành Trung Hoa nhiều năm trước đây. Chẳng hạn họ Âu-dương đến từ đất Lư Lăng của vương quốc Việt cổ. Có một hoàng tử Việt mang họ này bị nhà Chu bắt. Hậu duệ của ông, một sử gia nổi tiếng nhà Tống mang họ này. Hiện nay, ở một số tỉnh miền Nam Trung Hoa còn nhiều người mang họ này. Một số người Quảng Đông cũng mang họ này. Sử gia đời Tống Âu-dương Tu cho rằng người Việt có cùng một tổ tiên với với người [Hoa?] Hạ, một quan điểm bị nhóm thứ nhất của Diễn đàn này phê phán.

Các khu vực Tứ Xuyên, Quảng Tây, Quảng Đông, Vân Nam từng có nền văn hóa riêng và dân cư khác biệt, không in dấu lên triều đình Hán hay các nghi thức đặc trưng cho đế chế Trung Hoa.

Quảng Châu được Ngô vương Tôn Hạo, vua thứ tư nhà Đông Ngô, chắt của Tôn Quyền, chia tách từ Triều [?] Châu [7] vào năm 264.

Có lượng đáng kể của dòng máu Trung Hoa trong huyết quản người Lạc Việt và U Việt. tức là người Việt hiện đại.

Những người U Việt thuộc nhóm Bách Việt, bị nhà Thanh (1644-1911) dồn đuổi xuống lãnh thổ Việt Nam. Chuyện chín chúa tranh vua" (Cẩu chúa cheng vùa) của các dân tộc Tày, Nùng… có thể là minh họa cho sử liệu này.

Khái niệm “Hán hóa” từng thuộc về những đường biên giới cổ đại thật xa lạ với hiện nay. Không thể xem là những tộc người thiểu số đang không được đãi ngộ ở CHND Trung Hoa, cho dù một số trong họ đã biến mất trong những triều đại phong kiến sau cùng. Miền Nam Trung Hoa từng thuộc những tộc người thiểu số hiện cung cấp một ít di sản phục vụ cho du lịch. Không nên nghĩ rằng tất cả công dân Trung Hoa thực thụ hiện đang cố trở nên càng giống Hán càng tốt. Những dị biệt về tính cách sắc tộc và văn hóa vẫn còn tiềm tàng ở CHND Trung Hoa, thể hiện cả ở nét mặt của những người không phải dân tộc Hán. Những khu vực như Tân Cương hay Tây Tạng về cốt lõi văn hóa vẫn cho thấy sợi chỉ mỏng manh của bản sắc văn hóa và cho thấy rõ ràng nên xem xét cư dân hoặc sở hữu đất đai (!) có thể xem là hoàn toàn Trung Hoa hay không. Sự hiện diện trước đây của những thổ dân không phải người Trung Hoa có thể thấy rõ trong những tài liệu khai quật được. Nhưng công nhận hay không công nhận điều này cũng không thể xem như lý do để chuyển sang đề tài chính trị. Càng không phải duyên cớ để các khu vực khác khoanh vùng để đòi lại… (đây là ý kiến từ phương Tây).

Nghiên cứu DNA do các trung tâm ở Thượng Hải, Côn Minh và Hoa Kỳ (Center for Genome Information, Department of Environmental Health, University of Cincinnati, Cincinnati, Ohio 45267, USA) chỉ ra rằng người Bắc Trung Hoa (Tây An và Bắc Kinh) và người Nam Trung Hoa (Quảng Châu, Thượng Hải) có cùng mẫu ADN.

Một ý kiến đáng chú ý từ nhóm thứ hai - chủ yếu gồm người Việt hải ngoại, kể cả những người di tản sau năm 1975, trong đó có cả người Việt gốc Hoa - không gặp phải phản kháng của nhóm thứ nhất: Việt là từ mà người Hoa Hạ gắn với thổ dân khu vực đông nam của Trung Hoa mà họ gặp phải. Định nghĩa khái lược này hợp với một địa bàn rất rộng ở Đông Nam Á… bao gồm ngoài đông nam Trung Hoa còn bao gồm Tây Nam nước này. Đông Nam Á xét về vị thế, Đông bắc Ấn Độ, các đảo trên Thái Bình Dương, và Madagascar. Dân này nói tiếng Austronesian, Tai-Kadai, Austroasiatic và Hmong-Mien (Mon-Khmer).

[1]Người dịch tổng hợp và chú thêm niên đại để người đọc tiện theo dõi. Chú thích trong bài là của ban biên tập Xưa & Nay. Chú thích của talawas để trong [].

[2]Theo một nguồn nữa, các bộ lạc không phải người Hán gồm: Hoa Di (thuộc bộ tộc Lô Lô) hay Xu và Việt ở phía đông, Khuyển Nhung ở phía tây, Di ở phía bắc, Pu, Khương và Man ở phía tây nam và phía nam.

[3]Theo một Website phương Tây được công nhận rộng rãi [?], nước Ngô cũng là một quốc gia của người Việt nằm ở nam Giang Tô và bắc Chiết Giang. Giới quý tộc của hai quốc gia này học tiếng Trung, thuận theo pháp luật Trung Hoa và học theo công nghệ quân sự Trung Hoa, phát triển giao thông thủy là chính, và nghề nuôi trồng thuỷ sản, chứ không chỉ làm thuần nông nghiệp. Hai nước này cũng nổi tiếng về nghề đóng tàu và tác chiến trên sông nước, cũng như nghề làm gươm. Vào thời Chiến Quốc, hai nhà nước Ngô và Việt, bắt đầu can thiệp mạnh hơn vào chính trường Trung Hoa. Năm 506 trCn, chiến tranh bùng nổ giữa Ngô và Việt, lúc ác liệt lúc lắng dịu trong suốt 30 năm sau. Tới năm 473 trCn, Việt Vương Câu Tiễn chiếm được Ngô, được các lân bang là Tề và Tấn công nhận. Năm 333 trCn, đến lượt Việt bị Sở thôn tính.

[4]Như khái niệm biên khu Việt-Quế được dùng khoảng giữa thế kỷ XX, bên kia biên giới là hai tỉnh Lạng Sơn và Quảng Ninh của Việt Nam.

[5]Được phương Tây xem là những nhánh của ở phương Nam có liên hệ với Hán tộc. Tuy nhiên, một trang Web thông dụng của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ phương Tây [?] cho rằng tiếng Phúc Kiến và Triều Châu là phương ngữ phụ trong tiếng Mân.

[6]Là một trong số các dân tộc mà người Hán coi là mọi rợ (Đông Di, Tây Nhung, Nam Man, Bắc Địch). Xin lưu ý ở trên có ý kiến của người Quảng Đông hiện đại thể hiện sự tự hào là người Đông Di.

[7][có thể ông LĐH nhầm. Sau khi Sĩ Nhiếp chết, năm 226, Đông Ngô đã chia Giao Châu ra làm hai châu: Quảng Châu gồm các quận Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô và Giao Châu gồm các quận Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam. và cử Sĩ Huy, con Sĩ Nhiếp làm thái thú Cửu Chân, nhưng Sĩ Huy không tuân lệnh mà dấy binh chiếm giữ Giao Chỉ. Thứ sử Giao Châu là Đái Lương và thứ sử Quảng Châu là Lữ Đại cùng hợp binh tiến đánh và giết chết mấy anh em Sĩ Huy. Khi đó Đông Ngô lại hợp nhất Quảng Châu với Giao Châu như cũ, phong Lữ Đại làm thứ sử Giao Châu, và đến năm 264 mới chia lại thành Quảng Châu (trị sở tại Phiên Ngung, nay là thành phố Quảng Châu) và Giao Châu (trị sở tại Long Biên). Giao Châu mới gồm có 6 quận: Giao Chỉ, Tân Xương, Vũ Bình, Cửu Chân, Cửu Đức và Nhật Nam, bao gồm miền Bắc Việt Nam cộng thêm khu vực Khâm Châu (thuộc Quảng Tây) ngày nay và bán đảo Lôi Châu thuộc tỉnh Quảng Đông) ngày nay.]

Nguồn: Tạp chí Xưa & Nay số 295, 11/2007 tr. 30-33

Nguồn: http://www.phamthihoai.org

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đi tìm căn cước thật của Việt Nam (phần 1)

Nam Phan

Gần đây, từ trong nước cũng như ngoài nước, đã có khá nhiều sách báo khảo cứu về nguồn gốc văn hóa và dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, dường như vẫn chưa có câu trả lời hoàn hảo và nhất thống về nguồn gốc xuất phát và về thời gian hình thành.

Ba ngàn năm, bốn ngàn năm, hay hơn nữa? Từ trong dòng máu Trung Hoa, hay thuộc một chủng khác, độc lập và có văn hóa riêng, hoặc pha chủng cả hai và vay mượn văn hóa của nhau? Hoặc pha chủng với nhiều chủng tộc khác nữa, như Thái, Mường, Mèo, Dao, Tày chẳng hạn, nhưng lại chịu ảnh hưởng vượt trội của Trung Hoa? Hoặc ngược lại, và nói như cố Giáo sư Kim Định: “Bách Việt làm chủ trọn vẹn nước Tàu trước người Tàu”(1).

Những điều băn khoăn như thế thật ra cũng rất dễ hiểu, nhất là đối với những người không chuyên khảo lịch sử. Bởi lẽ, nói một cách tổng quát, người Việt chúng ta xưa nay vẫn tin mình là “con cháu Lạc Hồng”, có “bốn ngàn năm văn hiến”, và rằng đất nước đã được vua Hùng dựng lên đầu tiên, với quốc hiệu Văn Lang, tại vùng châu thổ sông Hồng miền Bắc.

Tuy vậy, cũng qua sách vở học hành, chúng ta lại được biết khá nhiều chuyện kể lẫn tên gọi về các thủy tổ dân tộc, như Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, hay Âu Cơ, Hùng Vương, đều nghe ra có vẻ Tàu, hoặc nửa Tàu nửa Việt. Rồi nào, cả ở Việt Nam lẫn bên Trung Quốc đều cùng có những địa danh Hà Nội, Hà Bắc, Sơn Tây, Bình Dương... hay những họ Trần, Phạm, Trịnh, Đặng, v.v.... rất giống nhau.

Ngay cả câu ca dao “Công cha như núi Thái Sơn...”, mọi người Việt Nam chúng ta đều thuộc, nhưng ít ai biết núi Thái Sơn nằm ở tận vùng Đông bắc Trung Quốc. Còn sông Lạc, một chi nhánh của sông Hoàng Hà, cũng chảy xuyên qua vùng này. Và cũng tại nơi đây đã từng xảy ra những trận đánh đầu tiên giữa các bộ lạc của Hoàng Đế Hoa tộc với các hậu duệ của Viêm Đế Thần Nông cách nay hơn bốn ngàn năm, để mở màn việc chiếm đất và mở rộng bờ cõi xuống phía Nam của Hán tộc phương Bắc.

Hơn nữa, sông Lạc cũng là nơi vua Đại Vũ nhà Hạ đã gặp rùa và nhận “Lạc thư” chỉ giáo về cách cai trị thiên hạ, mà bấy lâu nay truyền thuyết lịch sử của Trung Quốc đã tự nhận là một triều đại lớn của họ. Nhưng ngày nay qua nghiên cứu sự mâu thuẫn nội tại từ trong nội dung lịch sử, chúng ta lại nhận thấy vua Đại Vũ không phải là người Hoa Tộc. Chẳng hạn, ông là người Cối Kê - nay gọi là Kế Châu, tỉnh Giang Tô, thuộc vùng hạ lưu sông Dương Tử. Mà vùng này trong thời kỳ ấy đang còn là đất của các tộc Bách Việt. Chính Việt Vương Câu Tiễn được kể là dòng dõi Hạ Vũ, trong thời Xuân Thu Chiến Quốc, cũng đã lên ngôi lập nghiệp tại đây.

Thành thử, có khả năng cả hai địa danh Thái Sơn và sông Lạc, cũng như nhiều địa danh và nhiều điển tích khá quen thuộc khác gọi là của Trung Quốc đều có mối liên hệ lịch sử với tổ tiên Bách Việt nói chung và tổ tiên Lạc Việt chúng ta nói riêng.

Điều này có nghĩa là có thể vì cái quá khứ lịch sử của tổ tiên dân tộc ta đã bị giấu nhẹm hoặc bị tráo trở vay mượn trong hàng ngàn năm, do quá trình “nam tiến” đồng hóa và thống nhất của Hán tộc phương Bắc, cũng như sau đó do quá trình đô hộ gần một ngàn năm nữa trên phần đất chủ quyền của Việt Nam thời bấy giờ, khiến những gì văn minh, văn hóa của kẻ bị thua Việt tộc nay đã trở thành di sản của kẻ chiến thắng Hán tộc và đã bị quên lãng.

Điển hình là hơn 70 đến 80% người Trung Quốc hiện nay còn phát âm theo giọng Việt (Kim Định, sđd, tr. 8). Đồng thời, song song với tiếng Quan Thoại có nguồn gốc ngôn ngữ Hán tộc phương Bắc và được dùng như ngôn ngữ quốc gia chính thức hầu hết các cư dân Trung Quốc ở vùng Hoa Nam đều có ngôn ngữ địa phương riêng của họ và được gọi chung là Việt ngữ.

Khoa nghiên cứu về sọ não gần đây cũng cho thấy: Giữa người Trung Quốc ở miền Hoa Nam và người Việt Nam chúng ta đều có chỉ số sọ gần giống nhau. Ngược lại, chỉ số sọ giữa người Trung Quốc Hoa Nam và người Trung Quốc Hoa Bắc (thuộc Hán tộc thuần chủng) lại khác nhau hoàn toàn(2). Và sự khác nhau này cũng đã được DNA di truyền học hiện đại xác định (chúng tôi sẽ trình bày rõ chi tiết hơn vào dịp khác).

Cho nên, nói như học giả Kim Định “Bách Việt làm chủ trọn vẹn nước Tàu trước người Tàu”, đó là điều không sai.

Hơn nữa về sau này, kể cả trong thời kỳ Việt Nam hoàn toàn tự chủ trên chính đất tổ hình chữ “S” của mình, nhưng vì không có chữ viết riêng (hoặc bị hủy mất như đã có một số tác giả gần đây nêu lên), giới sĩ phu chúng ta nói chung và các sử gia nói riêng đều đã phải học cả chữ Nho lẫn nội dung văn hóa của hệ thống tư tưởng, triết lý và chính trị của Trung Hoa, nên các biên khảo lịch sử đất nước chúng ta đã không sao tránh khỏi những điều thiếu sót, mù mờ, hoặc sai lầm. Phần nhiều những công trình nghiên cứu lịch sử này đều phải dựa vào truyền khẩu của các truyện tích, ca dao, tục ngữ, hoặc dựa vào suy đoán từ sử sách chữ Hán của Trung Hoa.

Mãi đến thế kỷ 14, những truyện kể về họ Hồng Bàng mới được một vài sử gia đương thời biên soạn và đưa vào trong hai tác phẩm Việt Điện U Linh và Lĩnh Nam Trích Quái. Sau đó, vào khoảng cuối thế kỷ 15, Ngô Sĩ Liên là sử gia đầu tiên mới chính thức đưa truyền thuyết họ Hồng Bàng vào quốc sử qua bộ Đại Việt Sử ký Toàn Thư của ông(3), mặc dù chính ông đã nghi ngờ tính xác thực nội dung của truyện kể(4).

Dĩ nhiên, những điều ngờ vực về tính xác thực như thế không phải là không có lý của nó. Đó không phải là điều vô bổ đối với những hiểu biết khai trí cho hậu duệ chúng ta trong nỗ lực tìm hiểu căn cước thật của Việt Nam bởi lẽ đã là truyền thuyết, nhất là truyền thuyết về đất nước, về dân tộc thì tự bản chất của nó ít nhiều đều chứa đựng tính chất hoang đường, thần thoại. Không những Ai Cập, Hy Lạp, hay Do Thái, Ấn Độ, mà ngay cả Trung Quốc - một đất nước có nền văn hóa rất gần gũi với văn hóa chúng ta, và có khá nhiều sử liệu được ghi chép rất sớm - cũng không sao thoát khỏi tính chất thần thoại hoang đường. Dường như đó cũng là một thứ tiền lệ tri thức của nhân loại, đặc biệt là trong thời kỳ khoa học chưa khởi sắc.

Những thiếu sót và sai lầm về lịch sử dân tộc Việt Nam như thế không chỉ từ trong nước và từ những kẻ đô hộ, mà còn do sự tin tưởng chung của thế giới trước đây. Một nhận xét trong bài viết “New Light on a Forgotten Past”(5) của Wilhelm G. Solheim II, Giáo sư Nhân chủng học Đại học Hawaii, đăng trong tạp chí National Geographic tháng 03/1971 có đoạn:

“European and American historians generally have theorized that what we call civilization first took root in the Fertile Crescent of the Near East, on its hilly flanks. There, we have long believed, primitive man developed agriculture and learned to make pottery and bronze. Archeology supported this belief, partly because it was in the region of that Fertile Crescent that archeologists did their most extensive digging”.

(Lý thuyết của các sử gia châu Âu và châu Mỹ thường cho rằng những gì gọi là văn minh đều bắt nguồn đầu tiên tại vùng Lưỡi Liềm Phì Nhiêu ở Cận Đông, trên những sườn đồi. Đã lâu rồi, chúng ta tin tưởng người cổ sơ ở đó phát triển nông nghiệp và học hỏi làm đồ gốm và đồ đồng. Khảo cổ học đã hỗ trợ niềm tin này, một phần vì các nhà khảo cổ học chỉ loanh quanh đào bới trong khu vực Lưỡi Liềm Phì Nhiêu ấy mà thôi).

Nhưng thật ra, cũng theo tác giả Solheim, những khám phá khảo cổ học gần đây ở vùng Đông bắc và Tây bắc Thái Lan, cũng như tại Đài Loan, tại miền Bắc và miền Nam Việt Nam, thậm chí cả những khám phá khảo cổ học ở Mã Lai, Phi Luật Tân và vùng Bắc Úc, cũng cho thấy nhiều dữ kiện và thông tin khả tín để khẳng định: Nền văn minh Hòa Bình cổ xưa nhất đã xuất hiện tại vùng Đông Nam Á cách nay hơn 10.000 năm và đã có nguồn gốc từ Việt Nam.

Những điều khám phá và khẳng định trên của Solheim còn tỏ ra phù hợp với công trình nghiên cứu của Stephen Oppenheimer (1998), được viết trong cuốn “Eden in the East”(6) của ông. Căn cứ vào hải dương học, địa chất học, khảo cổ học, ngôn ngữ học, thần thoại học, và một phần công trình nghiên cứu di truyền học của bản thân, Oppenheimer đã đi đến những kết luận hết sức mới mẻ mà chúng tôi xin tóm lược thành ba điểm có liên hệ nhất với bài viết này như sau:

Điểm 1: Cách nay khoảng 20.000 - 18.000 năm, Đông Nam Á là một lục điạ rộng lớn gấp đôi lần ngày nay, bao gồm Đông Dương, Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương, và kéo dài đến các vùng mà nay đã trở thành những nhóm quần đảo Sumatra, Java và Borneo. Bởi lẽ mực nước biển của thời bấy giờ thấp hơn ngày nay 120 - 130 mét, nên các khu vực ấy đều là đất liền khô ráo. (tr. 10, 17-8, 29, 80).

Điểm 2: Đông Nam Á đã là trung tâm đầu tiên của các nguồn gốc văn hóa và văn minh của thế giới trong thời kỳ tiền sử (tr. 17). Nhưng vì trải qua 3 giai đoạn băng tuyết tan rất lớn của thời kỳ cuối Băng Hà đã xảy ra cách nay khoảng từ giữa 14.000 đến 8.000 năm (tr. 24), nên các nền văn hóa và văn minh tiền sử này đã bị chôn vùi theo với thêm lục địa Đông Nam Á bị ngập sâu dưới lòng biển (tr. 18, 62-3). Đây là điều đã ám ảnh trong các câu chuyện “Đại Hồng Thủy” gần như được phổ biến rộng khắp thế giới từ Đông sang Tây (tr. 24-5).

Điểm 3: Cũng từ đó, cách nay khoảng từ 8.000 đến 7.000 năm, đã có nhiều đợt di dân từ các vùng ngập nước, phải phân tán đi vào Châu Úc, hoặc đi vào các nhóm quần đảo Pacific và Ấn Độ, hoặc theo hướng Bắc để vào sâu trong lục địa châu Á nói chung và Trung Quốc nói riêng (tr. 10). Trong khi di tản họ đã đem theo các tập tục văn hóa và văn minh tiền sử của họ, trong đó có những kinh nghiệm trồng trọt và thuần thục gia súc (tr. 71).

Dẫu vậy, ở đây chúng ta không nên nhầm lẫn vùng Đông Nam Châu Á là cái nôi xuất phát thủy tổ nhân loại như đã có một số nhà nhân chủng học tin tưởng theo thuyết tiến hóa tại nhiều địa phương (multiregionalism theory).

Thật sự, đó chỉ là một trung tâm văn minh rất sớm của thời kỳ tiền sử, mà phát khởi của nó là nông nghiệp, nhất là nông nghiệp lúa nước. Nhiều nghiên cứu di truyền học mới đây, được nhà di truyền học hàng đầu Spencer Wells(7) đúc kết và viết trong cuốn “The Journey of Man ” xuất bản năm 2002, đã cho biết: Tất cả mọi người trên khắp thế giới ngày nay đều là hậu duệ của một cặp thủy tổ quê quán tại Châu Phi.

Đặc biệt, trong cuốn sách này còn có một công trình nghiên cứu DNA lấy từ hơn 12.000 cư dân bản địa sinh sống trên khắp vùng Đông Á, do nhà di truyền học Li Jin (Lý Huỳnh) và các đồng nghiệp của ông thực hiện, đã khẳng định: Tất cả huyết tộc của 12.000 người này đều có chung nguồn gốc tổ tiên xuất phát từ Châu Phi cách nay khoảng 50.000 năm (tr. 119-20).

Như vậy, mặc dù Việt Nam ta không có hoặc không còn những di tích theo kiểu kiến trúc vĩ đại Trường Thành của Trung Quốc hay Kim Tự Tháp của Ai Cập để lại, nhưng lòng tin của người Việt mình là dòng giống Lạc Hồng, là con Rồng cháu Tiên và đã có bốn ngàn năm Văn Hiến - hay nói như học giả Kim Định “Bách Việt làm chủ trọn vẹn nước Tàu trước người Tàu” - đều đã có cơ sở. Dường như lòng tin này đã có sẵn trong “gene” di truyền của chúng ta.

Bản thân chúng tôi trước khi nghiên cứu viết những giòng lịch sử này có thể cũng giống như nhiều người Việt Nam khác, đã không sao hiểu nổi núi Thái Sơn ở đâu mà lại hiện diện trong câu ca dao “Công cha như núi Thái Sơn...”. Nhưng nhờ tìm đọc sách báo và nghiên cứu ngọn ngành như đã khái lược ở trên, nên bây giờ chúng tôi mới vỡ lẽ ra những điều như sau:

Thứ nhất, dân tộc ta thuộc một chủng tộc riêng, không những khác với Hán tộc Trung Hoa, mà còn hiện diện trên đất nước Trung Hoa trước họ. Tuy nhiên, dân tộc ta cũng không thuần chủng, mà là một hợp chủng của hai dòng tộc chính là Lạc Việt và Âu Việt, đồng thời đã có nguồn gốc xuất phát từ quê tổ Việt Nam và ngày nay đã được nhìn nhận là chủ nhân của nền văn hóa Hòa Bình.

Thứ hai, không những vua Vũ nhà Hạ, mà cả Phục Hy, Thần Nông, Nữ Oa, Đế Nghiêu, Đế Thuấn… đều là những nhân vật vừa có tính cách lịch sử và cũng vừa có tính cách huyền thoại. Tất cả các nhân vật này đều phản ánh từ nguồn gốc văn hóa phương Nam của các tộc nông nghiệp Bách Việt, tức không là Hán tộc và khác với Hán tộc.

Thứ ba, Hán tộc là nhánh chủng tộc du mục có gốc Thổ (Turk) và Mông Cổ, xuất phát từ những thảo nguyên ở miền Trung Á và Siberia đến. Họ chỉ mới có mặt ở vùng trung lưu Hoàng Hà, sớm nhất là thời Hoàng Đế (theo truyền thuyết được Sử Ký Tư Mã Thiên đề cập), tức sau thời kỳ Phục Hy và Thần Nông. Nhưng có phần rõ ràng hơn cả, có lẽ họ xuất phát từ thời nhà Chu và cũng chỉ bắt đầu bành trướng Trung Quốc xuống đến vùng Hoa Nam trong thời kỳ nhà Tần và Hán.

Thứ tư, các từ ngữ văn minh, văn hóa và văn hiến, cùng với những ý nghĩa của chúng, đều có nguồn gốc xuất phát từ một đất nước đã được mang tên là Văn Lang. Văn Lang thật sự không phải là một đất nước có biên giới rành rọt theo quan niệm quốc gia mà ngày nay chúng ta hiểu. Đó là một miền đất nước được ranh định tại những nơi đã có sự định cư, định canh của các chi tộc Bách Việt và nằm trong phạm vi lãnh thổ Đông Nam Á, phía Bắc tiếp giáp với Trung Nguyên miền Hoa Bắc và phía Nam bao gồm Thái Lan, Mã Lai và Nam Dương. Nét văn hóa độc đáo của Văn Lang là tục xâm mình và dùng rìu búa, một loại dụng cụ vừa dùng để chặt đẽo, nhưng cũng vừa dùng như là vũ khí.

Để hiểu biết rành mạch và chi tiết hơn về căn cước thật của Việt Nam, chúng tôi sẽ lần lượt tháo gỡ và trình bày những nguyên nhân nhầm lẫn lịch sử giữa Trung Quốc và Việt Nam ta trong những chương kế tiếp, nếu điều kiện cho phép. Và để đạt được những điều như thế, dĩ nhiên trong tiến trình biên khảo, chúng tôi sẽ phải mượn và trích lại thật nhiều những phần ý, hoặc văn, hoặc cả ý lẫn văn, của một số tác giả mà chúng tôi đọc được trên mạng điện toán, cũng như trong sách báo.

Mặt khác, với chủ đích không nhằm đạt chất lượng chuyên khảo, mà chỉ phổ biến kiến thức phổ thông, chúng tôi sẽ tránh tối đa những phần nghiên cứu và từ ngữ quá chuyên môn, hoặc những từ ngữ chẳng những không còn thích hợp với tri thức mới ngày nay mà còn có thể gây ngộ nhận về ý nghĩa lịch sử đích thực.

Tiện đây, chúng tôi xin cám ơn trước các tác giả có những phần trích ý, trích văn, đồng thời cũng mong được sự thông cảm về vấn đề tác quyền, nếu có. Vì thật sự đây cũng chỉ là nghĩa vụ chia xẻ tri thức chung đến với mọi người mà thôi.

© DCVOnline

(1). Kim Định: Nguồn gốc Văn hóa Việt Nam . NXB Nguồn Sáng, Sài Gòn, 1973 (tr. 1).

(2). Phạm Trần Anh: Nguồn gốc Việt tộc. NXB Việt Nam Ngày Mai, 2007 (tr. 256-8, 322-4)

(3). Đại Việt Sử ký Toàn thư. NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1993 (tr. 23)

(4). Nguyên Nguyên: Thử đọc lại truyền thuyết Hùng Vương (1): Quốc tổ mang hai giòng máu (www.dunglac.net)

(5). Xin xem http://www.mevietnam.org/NguonGoc/fv-newlight.html

(6). Oppenheimer, Stephen: Eden in the East. Weidenfeld and Nicolson, London, 1998.

(7). Wells, Spencer. The Journey of Man: A Genetic Odyssey. Random House Trade Paperbacks, New-York, 2003.

Nguồn: http://www.dcvonline.net

Share this post


Link to post
Share on other sites

Trích Những ý kiến tham luận xung quanh bài viết của tác giả Nam Phan

Re: Đi tìm căn cước thật của Việt Nam (phần 1)

2008-01-22 00:13:31

Tâm Việt

Tổ tiên ta đã sống bên sông Hoàng Hà, cạnh núi Thái Sơn - trước khi tộc Hoa Hạ xâm chiếm [chinhkhiviet.com]

Theo Thái Dịch Lý Đông A

CHU TRỊ LỤC

....

Một ít tài liệu còn lượm lặt được ngay trên lịch sử của nòi Hán. Từ đời Đại Việt, lúc tổ tiên ta còn trên sông Hoàng Hà tranh đấu lấy trung tâm của thiên hạ bấy giờ (Thái Sơn) cho mãi đến lúc xuống đến sông Dương Tử Giang, Ngũ Hồ, Ngũ Lĩnh, trong cái khoảng lịch sử Tàu từ Hoàng Đế đến Chiến Quốc, Xuân Thu cho tới Tần, Hán.

a) Trạng huống đấu tranh của Việt, Hán trong khoảng ấy?

:wacko: Thần Nông, Viêm Đế, Thuấn phải chăng là nòi Việt, hoặc bằng quân sự hay chính trị đấu tranh mà chiếm được ngôi chí tôn của thiên hạ bấy giờ.

c) Lịch sử đấu tranh lấy Thái Sơn và ngôi thiên tử giữa ba nòi Hán, Việt, Di trong khoảng bấy giờ? Sự phân bố của nòi giống ấy?

d) Trạng huống Nam thiên của nòi Việt mất trung tâm và chia ra Bách Việt.

đ) Sự liên hệ giữa các nước Sở, Ngô, Việt với Việt Đại Việt.

e) Trạng huống của sự tái kiến lại trung tâm sinh hoạt Việt bởi đời Việt Thường mà lập ra Hồng Bàng? Sự phân phong lên núi xuống bể linh lạc, thất bại thế nào?

Ngày nay sự phân chia và ly tán của Bách Việt càng xa vời đi.

1) Sự liên hệ về các mặt giữa các nòi giống có máu Việt cũ?

2) Sự tái kiến lại Đại Việt cũ trên nền tảng một văn minh Viêm mới?

3) Lý tắc Totem của Tiên Rồng và văn hóa Môn tái kiến?

Re: Đi tìm căn cước thật của Việt Nam (phần 1)

2008-01-22 06:42:19

Tâm Việt

Lý Đông A là tác giả đã cảnh cáo người Việt về họa diệt chủng, Phương Bắc Hoa Hạ là kẻ thù truyền kiếp của tộc Bách Việt.

Re: Đi tìm căn cước thật của Việt Nam (phần 1)

2008-01-22 09:18:40

Nhất Đăng

Tìm nguồn gốc bằng lối đo sọ có lẽ là phương pháp gây thích thú cho tôi nhất.

Ngày còn nhỏ, cứ nhắm mắt học thuộc lòng : dân Việt nam thuộc giống Melanesian và Indonesian hợp lại. Chẳng biết Indo là gì, Mela là gì, cứ việc học vì nhu cầu trả bài. Đến khi vớ quyển sách của Bình Nguyên Lộc, ông dùng các phương pháp : đo sọ, ngôn ngữ tỷ hiệu cùng khảo cổ học mới thấy nhân chủng học người ta đã tìm ra rất rành mạch, thế nào là chủng Mongolique, thế nào là bắc Mongolique, thế nào là nam Mongolic, thế nào là Indonesian, thế nào mà Melanesian..., rồi trong sách của ông BNL cứ đem tên Kim Định ra để đối chứng, lại đi tìm sách Kim Định để đọc. Thú thật, thoạt đầu đọc sách của thầy Kim Định nuốt không vô vì thật mông lung, nhưng sau khi nghe thầy nói chuyện, dần dần tạm chấp nhận ý kiến của thầy, bắt đầu đọc sách thầy thì thấy rằng tuy hai người dùng hai cách để chứng minh nguồn gốc của dân tộc Việt, kết luận của cả hai đều là : Hoa bắc là đất của giống Bách Việt, bị Tàu Mongolique đuổi dần về phương Nam, Tàu lai giống với dân bị chiếm thành bắc Mongolique, rồi thêm một lần lai giống phía Nam thành Nam Mongolique. Còn dân Việt chính hiệu là Indonesian, pha giống với giống dân Nam đảo Melanesian tạo ra dân Việt. Sau 1.000 năm đô hộ của Tàu, lại bị Tàu bắt đồng hoá, có lai chút Tàu, nhưng yếu tố Tàu trong sọ Việt không nhiều như ở Hoa nam, nên vẫn còn chủng chính chứ không bị thành Nam Mongolique như Hoa nam. May thay, nhờ sự bất khuất của tổ tiên ta mà ta còn giữ được nước Việt hiện nay.

Re: Đi tìm căn cước thật của Việt Nam (phần 1)

2008-01-22 11:34:56

Tiêu Phong

Chào bác Nhất Đăng,

Theo những giáo sư đã từng nghiên cứu nguồn gốc ngôn ngữ Việt (điển hình là giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Hy Vọng), ngôn ngữ Việt trước tiếng Hán có nhiều liên hệ với hệ thống ngôn ngữ của thành phần Mã Lai Đa Đảo (Malayo-Polynesean languages, còn gọi là Austronesian languages). Nếu ta Google Austronesian languages, sẽ thấy tên các nước như , Việt Nam, Mã Lai, Lào, Cam Pu Chia, và Đài Loan nắm trong các vùng nói các thứ tiếng này.

TP tin rằng ngôn ngữ học sẽ giúp ích rất nhiều trong việc truy tìm căn cước thật của VN. Còn căn cước của VN cho tương lai thì sao?

Re: Đi tìm căn cước thật của Việt Nam (phần 1)

2008-01-23 04:04:29

Nhất Đăng

Những di hài hoá thạch tìm được có thành phần Austronesians và austroasiatics. Những di hài tìm được chưa chắc là tổ tiên của dân Lạc Việt hoặc có cũng chỉ phần nào vì có nhiều giống dân cư ngụ ở miền Bắc nước Việt cổ. Không thể khẳng định được khi chưa tìm ra đích xác. Vì theo những nghiên cứu thì cư dân đầu tiên của miền Bắc nước ta là Melanesian và Australoid (thổ dân Úc). Sắc dân này da đen, môi dày, chiều cao cở 1m50-1m55. Có lẽ đây là lý do mà VC cứ rang rảng nói VN là cái nôi của loài người. Dân Việt hiện nay vóc dáng khác.

Lượng trống đồng đào được ở những vùng chung quanh chỉ là số ít. Có thể đó là những trống đồng được mua về hay do giao hiếu, quà tặng. Lượng trống đồng nằm trong khu vực miền Bắc nhiều để có thể kết luận đây là trung tâm của trống đồng.

Tuy nhiên như tôi đã nói, có dữ kiện, mỗi người tuỳ cách suy luận của mình mà viết. Chưa có gì là khẳng định cả. Thượng cổ sử của Việt nam vẫn còn nằm trong bóng tối. Tiếc là ta đã bị Mã Viện phá huỷ hết gần như tất cả nên giờ này muốn tìm hiểu lại càng khó hơn. Thật thú vị nếu tìm được gốc tích thật của dân ta.

Cám ơn bác Tiêu Phong đã trò chuyện. Tôi rất thích đề tài về thượng cổ sử Việt nam.

Re: Đi tìm căn cước thật của Việt Nam (phần 1)

2008-01-22 20:04:02

Vô Sắc

Một bài viết mang tính nghiên cứu, khoa học, lẽ ra thường khô khan, nhưng lại thật là thú vị, lôi cuốn. Tuy mang tính đại chúng cho mọi người đọc có thể hiểu nhưng vẫn giữ cân bằng, không mất đi những minh chứng, dẫn chứng rõ ràng cụ thể cho một bài viết khoa học. Tuyệt!

Tôi không dám lạm bàn về nhân chủng học, di truyền học, chỉ xin góp một chi tiết khá đặc biệt có liên quan đến nguồn gốc, quan hệ láng giềng của dân tộc Việt, cùng ảnh hưởng của chính trị, xung khắc quân sự, đến sự giải thích của lịch sử, kể cả khảo cổ học, liên quan đến bài viết trên.

Chúng ta hay nhắc đến, và thường tự hào, về nền văn minh cổ xưa của Việt Nam, qua sự phát hiện ra trống đồng Đông Sơn và Ngọc Lũ (600 BC-100AD) vào những năm 1920-30. Nhiều người Việt cho rằng đây là một nền văn minh độc đáo, riêng biệt, của chúng ta.

Tuy nhiên, rất ngạc nhiên là sau này người ta cũng đã đào được các loại trống đồng này tại các đảo của Indonesia (và họ cũng gọi là trống đồng Đông Sơn, có lẽ vì được phát hiện sau các trống đồng đào được tại Đông Sơn, Thanh Hóa), ở miền Nam Trung Hoa, ở miền Bắc Thái Lan, và cả Miến Điện. Riêng người Indonesia, theo một ghi chú bên cạnh một trống đồng của họ triển lảm tại Úc mà tôi xem được cách nay hơn 15 năm, cho rằng các điệu vũ khắc họa trên mặt trống đồng vẫn được người dân Bali (của đảo Bali, Indonesia) ngày nay múa hát.

Cách đây 5-7 năm tôi cũng có đọc một bài nghiên cứu dài, thật chi tiết (với rất nhiều hình ảnh), và rất nổi tiếng (được trích đăng lại nhiều nơi), nhan đề: Who Invented the Bronze Drum? Nationalism, Politics, and a Sino-Vietnamese Archaeological Debate of the 1970s and 1980s, của một tác giả Mỹ gốc Trung Hoa, Xiaorong Han (hiện là Ass. Prof. của ĐH Butler, Hoa Kỳ). Bài nghiên cứu nêu lên rất nhiều điều thú vị về nguồn gốc của các trống đồng được xếp loại Đông Sơn (và các loại tương cận). Ông này hình như biết đọc và viết tiếng Việt (các chú thích chữ Việt đều không sai các dấu). Tiếc rằng giờ tôi chỉ tìm thấy được abstract trên net (nên không dẫn link). Ai có thời gian xin tìm giúp cho ai cần.

Một giả thuyết trong bài viết là trống đồng (nói chung) xuất xứ từ một sắc tộc (Yoh?) ở Vân Nam, phát triển ra khắp miền Nam Trung Hoa và lan xuống khắp vùng Đông Nam Á. Một chi tiết thú vị ông đưa ra, như nhan đề bài viết đã nêu, là các cuộc tranh cải giữa các nhà khảo cổ và nghiên cứu Việt Nam - Trung Quốc thường mang dấu ấn, không chỉ về tinh thần quốc gia khác biệt (nationalism), mà còn do các thay đổi về quan điểm chính trị, cùng xung khắc quân sự với nhau, trong các thập niên 1970-80.

Re: Đi tìm căn cước thật của Việt Nam (phần 1)

2008-01-23 17:28:57

Hoàng Hoa

Cám ơn tác giả đã cho đọc một bài khá lý thú.

Trong ký ức vốn bị thòi gian bào mòn, tôi còn nhớ một bài văn vần không nhớ của ai, lâu lâu lắm rồi từ khi vừa mới đánh vần đọc được chữ. Địa giới nước tă được mô tả như sau: " Nam giáp Hồ Tôn, Tây Ba Thục, Đông biển, Bắc đến Động Đình Hồ " Như vậy VN ở trọn trong lảnh thổ TQ ngày nay.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đi tìm căn cước thật của Việt Nam (phần 2)

Nam Phan

Phần 2: Căn cước Việt Nam qua khám phá DNA và Khảo cổ học

Như chúng ta đã biết, với chủ trương Đại Hán thống trị và thống nhất của các triều đại Trung Hoa từ ngàn xưa, mọi dấu tích văn hóa và lịch sử dân tộc nguyên thủy của Việt Nam đều đã bị xóa bỏ hoặc bị tráo trở vay mượn để biến thành một phần văn hóa và dân tộc quan trọng của Trung Hoa. Rất may là máu huyết và lòng đất vẫn còn lưu giữ các quá khứ lịch sử văn hóa và dân tộc ấy một cách hết sức trung thực.

Vì thế, trước khi muốn tìm hiểu lại về căn cước thật Việt Nam qua truyền thuyết cũng như sử liệu, chúng tôi muốn đưa vào phần 2 này những khám phá về di truyền học DNA và khảo cổ học để có cơ sở khoa học xác thực hơn.

Để có một cái nhìn tổng thể trong bối cảnh tiến hóa chung của nhân loại, chúng tôi xin mạng phép lược trích từ sách The Journey of Man của tác giả Spencer Wells (1) về những dấu tích thiên di của các tổ tiên nhân loại đã để lại trong DNA của tất cả mọi người hiện nay trên thế giới. Qua đó, chúng ta sẽ dễ dàng khám phá đâu là sự khác nhau và giống nhau giữa Trung Quốc và Việt Nam, cũng như các căn cứ để cố học giả Kim Định đã khẳng định “Bách Việt làm chủ trọn vẹn nước Tàu trước người Tàu”.

Bản đồ thế giới vẽ bằng DNA:

Hành trình của nhân loại, của Spencer Wells

Nguồn: press.princeton.edu

Theo khảo sát DNA được tổng kết từ nhiều công trình nghiên cứu của các nhà di truyền học đứng hàng đầu thế giới, trong đó có tác giả Spencer Wells, thì tất cả mọi người đang sống trên khắp trái đất đều có huyết thống từ một cặp thủy tổ xuất hiện ở Châu Phi cách nay khoảng 60.000 năm (tr. 55 & 71).

Sau đó, có thể vì lý do thời tiết và môi trường sống thay đổi, cũng như sinh đẻ đông đảo (tr. 95 và 108), nên hầu hết hậu duệ của hai cụ đã lần lượt rời Châu Phi ít nhất là trong hai đợt chính như sau:

Đợt một rời cách nay khoảng 60.000 – 50.000 năm, đi dọc theo bờ biển phía nam Châu Á, ngang qua Ấn Độ, và đến định cư tại Đông Nam Á trước khi chuyển tiếp đến Châu Úc và các vùng phụ cận (tr. 69, 72, 75 và 100). Trong số này, về sau cũng có những nhóm tiếp tục men theo bờ biển phía Đông Trung Quốc để vào tiếp Bắc Mỹ (tr. 72–3).

Cũng nên nhớ là trong thời gian cuối Băng tuyết, eo biển Bering khô cạn và nối liền lục địa Châu Á với Châu Mỹ.

Đợt hai rời Châu Phi, đi ngang qua ngã Trung Đông khoảng 50.000 – 45.000 năm (tr. 109–110), sau đó di chuyển tiếp vào vùng đồng bằng Iran hoặc Nam Trung Á (tr. 111). Tại đây lại chia thành hai nhánh (tr.112). Một nhánh đi vòng lên hướng Bắc để vào Trung Á, tạo thành thị tộc Trung Á (tr. 113–4)), sau đó chuyển tiếp qua các thảo nguyên Nam Siberia (tr.118, 120). Về sau, nhánh cũng tách thành hai nhóm. Một nhóm đi về hướng Tây và vào đến Châu Âu khoảng 30.000 năm (tr. 132–3). Nhóm còn lại tiếp tục di chuyển về hướng Đông để vào Mông Cổ và vào miền Bắc Trung Quốc (tr. 110 và 120); số còn lại tiếp tục thiên cư đến Châu Mỹ qua eo biển Bering vào khoảng 20.000–15.000 năm (tr. 139).

Riêng nhánh thứ hai, sau khi tách ra khỏi đợt hai ở vùng đồng bằng Iran, đã tiếp tục di chuyển xuống hướng Nam để vào Pakistan và Bắc Ấn Độ (tr. 112–3). Tại đây nhánh này cũng tách ra làm hai nhóm hậu duệ chính. Một nhóm tiến sâu xuống tiểu lục địa Ấn Độ, hợp chủng với những di dân đường biển của đợt một Châu Phi đã đến trước, và trở thành thị tộc Ấn Độ cách nay khoảng 30.000 năm (113). Nhóm hậu duệ còn lại xuất phát từ phía đông núi Hindu Kush và Himalaya, tìm cách vượt những trở ngại của rừng núi cao, tiếp tục di chuyển về hướng đông, tạo thành thị tộc Đông Á (tr. 119).

Sau đó, trong khoảng thời gian 10.000 năm trở lại đây, các hậu duệ kế tiếp của nhóm thị tộc Đông Á này đã trở thành những nhà nông Trung Quốc đầu tiên và đã sản sinh đông đảo, tạo ra “Làn sóng Tiến bộ” lan nhanh quanh khu vực Đông Á (tr. 157).

Hiện nay các cư dân tại Đông Á có khoảng 60 – 90% huyết tộc của thị tộc Đông Á; còn các cư dân tại Đông Nam Á lại mang một hợp chủng huyết thống vừa của một chủng tộc địa phương và vừa của chủng tộc nông nghiệp Trung Quốc (tr. 119).

Mổ xẻ và nhận định.

Cũng theo các công trình khảo cứu di truyền học nói trên, cư dân Đông Á đã mang trong giòng máu của mình một sự pha chủng rất phức tạp.

“Huyết thống của đợt một di dân đường biển rời Châu Phi không những có một tần số khá cao khoảng 50% tại Mông Cổ, mà còn phổ thông xuyên suốt vùng Đông Bắc Á” (Wells, sđd, tr. 120). Để hiểu điều này hơn, Spencer Wells đã giải thích với một đoạn văn mà chúng tôi xin tóm lược ý như sau:

Có thể có những bộ phận di dân đường biển của đợt một Châu Phi, sau một thời gian định cư định canh tại Đông Nam Á, đã dần dà di chuyển tiếp lên hướng Bắc qua hàng ngàn năm để vào lục địa. Sau đó, có thể họ đã gặp và hợp chủng với hậu duệ của nhóm di dân đường bộ phương Bắc, nguyên thuộc nhánh thị tộc Trung Á xuất phát từ các thảo nguyên Nam Siberia và Mông Cổ đến.

Dầu vậy, những công trình khảo sát DNA của cư dân Đông Á do Luca Cavalli–Sforza và các cộng sự người Trung Hoa của ông thực hiện lại vẫn cho thấy có sự khác biệt huyết thống giữa người Trung Hoa miền Bắc và người Trung Hoa miền Nam. Thậm chí, tuy cùng thành phần của một nhóm chủng tộc, như người Bắc Hán và Nam Hán, họ sống bên nhau rất gần gũi về địa dư nhưng lại xa nhau về chủng tộc. Nhóm Bắc Hán quần tụ xen kẽ chung với những cư dân khác không Hán tộc, còn những người Hoa Nam (tức Nam Hán) thì tạo thành một nhóm riêng rẽ (Wells, sđd, tr. 120–1).

Đây cũng là điều phù hợp với khoa khảo sát sọ não mà trước đây trong chương Dẫn nhập chúng tôi đã có trích lược từ sách Nguồn gốc Việt tộc của tác giả Phạm Trần Anh (2) để dẫn chứng.

Theo đó, giữa người Trung Quốc ở miền Hoa Nam và người Việt Nam chúng ta đều có sọ tròn và có chỉ số sọ gần giống nhau. Ngược lại, chỉ số sọ giữa người Trung Quốc Hoa Nam (tức Nam Hán) và người Trung Quốc Hoa Bắc (tức Bắc Hán) lại khác nhau. Hơn nữa, duy nhất chỉ có người Bắc Hán là có sọ dài, giống như người Mông Cổ và Châu Âu (Phạm Trần Anh, sđd, tr. 323 và 328).

Đến đây, chúng ta nhận thấy sở dĩ đã có sự khác nhau giữa Bắc Hán và Nam Hán chắc chắn là do hệ quả của môi trường sống và lối sống khác nhau giữa du mục thảo nguyên Bắc Hán và nông nghiệp định cư định canh Nam Hán. Cho dù trước đó đều cùng thuộc đợt hai Châu Phi, nhưng từ thời điểm phân tách ra hai nhánh – một đi vòng qua các thảo nguyên Nam Siberia, Mông Cổ để vào Trung Quốc, và một vòng qua Ấn Độ, Himalaya, vào Đông Á hoặc vòng xuống Đông Nam Á để vào Trung Quốc – thời gian này đã trải qua một quá trình phân hóa hàng ngàn hoặc hàng chục ngàn năm.

Xét điểm ý của Spencer Wells trong câu: “Trong khoảng thời gian 10.000 năm trở lại đây, hậu duệ của nhóm thị tộc Đông Á đã trở thành những nhà nông Trung Quốc đầu tiên và đã sản sinh đông đảo, tạo ra Làn sóng Tiến bộ lan nhanh quanh khu vực Đông Á” (sđd, tr. 156).

Theo thiển ý chúng tôi, có thể tác giả chỉ nhằm nói đến giai đoạn trồng lúa nước đã trở thành phổ thông sau khi các hậu duệ của nhóm thị tộc Đông Á đã học hỏi kinh nghiệm trồng lúa nước dọc trên hành lang di dân từ Tây sang Đông hoặc từ Nam lên Bắc.

Vì thời gian ấy chính là thời kỳ sau các đợt hồng thủy rút đi, tại các vùng ven sông và biển, nhất là từ phía Nam sông Dương Tử trở xuống, đã hình thành nhiều vùng đầm lầy phù sa, lại có gió mùa và có thời tiết ấm áp, nên rất thuận lợi cho việc trồng lúa nước theo kiểu đại trà.

Để dẫn chứng cho lập luận trên, chúng tôi xin trích một vài khám phá khảo cổ học đáng lưu ý như sau:

Thứ nhất, nhà khảo cổ học người Thái Surin Pookajorn đã khám phá những hạt lúa với đồ gốm và những sản phẩm thủ công thời Đồ Đá Mới như rìu đá tại Hang Sakai (giáp với Mã Lai), có niên đại cách nay khoảng giữa 9260 và 7620 năm (Oppenheimer, sđd, tr.68).

Thứ hai, Joyce White, một nhà khảo cổ học Hoa Kỳ, lại khám phá một xã hội nông nghiệp (lúa nước) tại Ban Chiang ở miền Bắc Thái Lan, có niên đại khoảng 6 – 7 thiên niên kỷ TCN (Oppenheimer, sđd, tr. 69)(5).

Thứ ba, sau những công trình nghiên cứu khảo cổ học của bản thân cũng như của đồng đội tại vùng Non Nok Tha và những vùng phụ cận ở miền Bắc Thái Lan, Giáo sư Wilhelm G. Solheim II dạy tại Đại Học Hawaii (7) cũng nhận định:

Tôi (tức Solheim) đồng ý với Sauer (6) rằng chính cư dân của nền văn hóa Hòa Bình ở đâu đấy trong vùng Đông Nam Á đã biết trồng cây trong vườn nhà đầu tiên, và tôi sẽ không ngạc nhiên nếu đã xảy ra sớm hơn 15.000 năm TCN (...)

Theo truyền thuyết lâu nay, người ta cứ cho rằng chính những làn sóng di dân từ phương Bắc xuống phương Nam đã mang theo sự phát triển kỹ thuật đáng kể cho vùng Đông Nam Á. Tôi gợi ý rằng chính nền văn hóa nguyên thủy thời đồ đá mới của miền Bắc Trung Quốc, được biết đến với tên văn hóa Ngưỡng Thiều, đã phát triển từ một chi lưu văn hóa Hòa Bình ở vùng phía bắc Đông Nam Á mà trước đó nó đã di chuyển lên phương Bắc vào khoảng sáu hay bảy thiên niên kỷ TCN.

Còn nền văn hóa gọi là Long Sơn gần đây hơn mà người ta tin tưởng đã xuất phát từ văn hóa Ngưỡng Thiều ở miền Bắc Trung Quốc, sau đó bùng lên phát triển về hướng đông và đông nam. Riêng phần tôi lưu ý rằng thật sự văn hóa Long Sơn đã phát triển ở miền Nam Trung Quốc và di chuyển lên phía bắc. Tất cả hai văn hóa này đều đã phát triển từ một căn bản văn hóa Hòa Bình.

Trong tác phẩm Eden in the East của mình, Stephen Oppenheimer (4) cũng đã có một lời kết luận tương tự:

Stephen Oppenheimer, tác giả Thiên đàng ở phương Đông

Nguồn: press.princeton.edu

”Thay vì theo mô thức “lấy Trung Hoa làm trung tâm” với thành kiến cây lúa nước do người Trung Hoa khám phá và trồng, ngày nay chúng ta phát hiện chính “những kẻ mọi rợ phương Nam” gốc Đông Dương, nói ngôn ngữ Nam Á (Austro–Asiatic speaking), đã dạy cho người Trung Hoa biết cách trồng lúa nước” (tr. 71) (7).

Ngoài ra, trống đồng còn là một khám phá văn hóa khá độc đáo của tổ tiên Việt tộc chúng ta, vừa phản ánh nét văn hóa nông nghiệp và vừa phản ánh nét văn hóa sông biển.

Chúng ta sẽ bàn đến điều này trong một chương khác để đạt chiều sâu hơn.

Kết luận.

Qua các nghiên cứu nói trên, chúng ta cũng đã bắt đầu thấy được những câu trả lời khá xác thực về nguồn gốc phức tạp văn hóa, cũng như huyết tộc của tổ tiên người Trung Hoa. Họ vừa có văn hóa và huyết tộc du mục thảo nguyên gốc Thổ và Mông Cổ xuất phát từ phương Bắc đến (tức thuộc thị tộc Trung Á), vừa có văn hóa và huyết tộc gốc du mục cao nguyên Tây Tạng, xuất phát từ Himalaya – nhóm này nguyên thuộc thị tộc Đông Á.

Họ còn hợp chủng và vay mượn cả văn hóa và huyết tộc của những người bản địa có nguồn gốc văn hóa từ phương Nam và đã đến Trung Quốc trước họ. Nhóm bản địa này nguyên thuộc đợt một rời Châu Phi, đi men theo đường biển. Chính Lạc Việt chúng ta phát xuất từ nguồn gốc dân tộc và văn hóa phương Nam này.

Kế đến, họ cũng còn hợp chủng với một nhóm khác nữa, nguyên cùng nguồn gốc thị tộc Đông Á xuất phát từ Himalaya đến, nhưng nhóm này lại đi men theo các sông lớn như Dương Tử, Tây Giang, Cửu Long… Đây chính là nhóm đã đem lại kinh nghiệm trồng lúa nước đầu tiên cho vùng Đông Nam Á, tức bao gồm từ miền cực nam Đông Nam Á đến vùng đồng bằng sông Dương Tử Trung Quốc, kể cả Vân Nam và Ba Thục.

Nhóm này về sau chính là tổ tiên của Âu Việt và đã được huyền thoại hóa qua truyền thuyết mẹ Âu Cơ.

Thế nhưng, Lạc Việt và Âu Việt là một tổng thể văn hóa và dân tộc Việt Nam, đã được thuật lại qua các truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ, mà mới đây Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, Viện Văn học Quốc gia tại Hà Nội, đã gọi là “văn hóa Viêm Việt” khi ông nhận định về triết gia Kim Định trong bộ Tự điển Bách khoa Văn học ấn bản năm 2003 – 2004 tại Việt Nam.

© DCVOnline

(1) Wells, Spencer : The Journey of Man. NXB Random House Trade Paperbacks, Nöõu Öôùc (2003).

(2) Phạm Trần Anh: Nguồn gốc Việt tộc. NXB Việt Nam Ngày Mai, 2007.

(3) Xin xem http://www.mevietnam.org/NguonGoc/fv–newlight.html

(4) Oppenheimer, Stephen: Eden in the East. NXB Weidenfeld and Nicolson, London , 1998.

(5) Khảo cổ học khám phá những làng nông nghiệp lúa mì và lúa mạch xuất hiện đầu tiên tại Jericho Cận Đông, chỉ có niên đại khoảng thiên niên kỷ thứ 5 TCN mà thôi (Wells, sđd, tr. 148–9)

(6) Sauer là một nhà địa chất Hoa Kỳ, vào năm 1952 đã nêu lên một giả thuyết tương tự, nhưng các nhà khảo cổ học hồi đó chưa chấp nhận.

(7) Từ nay, trong những bài viết chúng tôi, Austro–Asiatic được dịch là Nam Á; còn Austronesian được dịch là Nam Đảo. Tức là dịch từ chữ sang chữ hơn là dịch đúng theo nghĩa. Vì nếu theo nghĩa thì chúng tôi phải dịch Austroasiatic thành Đông Nam Á: lý do là địa bàn nói ngôn ngữ này chủ yếu tại miền Đông và Đông Nam Châu Á.

Nguồn: http://www.dcvonline.net/

Share this post


Link to post
Share on other sites

Trích: Những ý kiến xung quanh bài viết của tác giả Nam Phan

Re: Đi tìm căn cước thật của Việt Nam (phần 2)

2008-02-12 01:10:02

Tâm Việt

For Reference only.

Liên hệ người Nùng với chủng tộc Đông Nam Á

Người Choang [www.gio-o.com]

Triều đại nhà Tần (năm 221-206 trước Dương Lịch) đã tiến vào vùng này, đặt tên vùng là Lĩnh Nam (Ling-nan) và đã giao tranh trong một loạt các cuộc chiến với các người dân địa phương. Những chiến dịch không mấy thành công này đã là bước khởi đầu của sự bành trướng kéo dài của Trung Hoa vào trong khu vực. Nhà Tần đã cho đào kinh Li [Lí?] tại Xing-an, nối liền các hệ thống sông ngòi miền nam với miền trung.(13) Mặc dù sự kiểm soát của Trung Hoa xem ra chỉ vươn không xa hơn trung tâm có tường thành bao quanh nhằm phục vụ cho việc xây dựng con kinh Li tại Xing-an (14), vùng Lĩnh Nam kể từ đó có thể được tiếp cận từ phía bắc và phía nam, và được ràng buộc với chính Trung Hoa.

Nguồn: http://www.dcvonline.net

(Còn tiếp)

Trong thời kỳ suy sụp của nhà Tần, khu vực trở thành nước độc lập dưới quyền của một người Hoa gốc Hán, Zhao Tuo [có kèm chữ Hán, để chỉ Triệu Đà, chú của người dịch], tự xưng là “Võ Vương của nước Nam Viêt.”(15) Zhao Tuo kiểm soát vùng Lĩnh Nam, và mở rộng nó bằng việc sáp nhập các lãnh địa của Trung Hoa nơi phía Bắc và đất đai của Việt Nam về phía Nam.(16) Vương quốc của ông ta bị tái chinh phục bởi Nhà Hán (206 Trước Dương Lịch – 220 sau Dương Lịch) trong năm 111 trước Dương Lịch.

...............

Re: Đi tìm căn cước thật của Việt Nam (phần 2)

2008-02-12 10:44:52

Nhất Đăng

Cám ơn tác gỉa.

Tôi rất thú vị được đọc những đề tài này. Không có ý kiến vì tất cả chưa có gì là khẳng định, ngay các học gỉa cũng chỉ thấy một vài dấu vết rồi suy đoán. Tôi mong có ngày tổ tiên của mình sẽ được nói một cách khẳng định như các tổ tiên của Châu Âu hay chí ít, giống của Tàu. Tuy là chính Tàu bây giờ cũng được tìm thấy là văn hoá Tàu do nhiều chủng tộc tạo nên (trong đó có chủng Việt, vì vậy mà thầy Kim Định nhắc nhở Nho (không phải Tống Nho mà là nho nguyên thuỷ) bắt nguồn từ văn hoá Việt). Biết đâu chừng. Gỉa thuyết nào cũng có thể thành sự thật cả.

Về Chủng Tộc, người thượng là VN chính gốc. Về chính trị, lại khác!

2008-02-12 11:22:12

Đào Công Khai

Xét về chủng tộc, người "Việt Nam" đúng nghĩa nhất chính là đồng bào THƯỢNG hiện nay. Còn chúng ta, đa số là lai Tàu, lai từ chủng tộc đến văn hóa và chính trị!

Bách Việt xuất phát từ bên Tàu, vùng lưu vực sông Dương Tử, và là những bộ lạc kém văn minh hơn Trung Quốc nên bị Trung Quốc đánh đuổi về phương Nam và đồng hóa dần. Dân Lưỡng Quảng bên Tàu đa số là nguồn gốc Bách Việt. Vài thế kỷ trước công nguyên, còn nhóm Âu Việt và Lạc Việt sống ở Bắc Việt cũng bị Triệu Đà sang chiếm rồi đồng hóa nốt và lập thành quốc gia Nam Việt. Tuy nhiên, vẫn còn một số bộ lạc của Bách Việt không sống như người kinh, họ chạy lên rừng sống du mục và thoát khỏi sự đồng hóa của Trung Quốc cho đến ngày nay. Người "VN" chúng ta gọi họ là người Thượng.

Dưới thời Triệu Đà thì người VN cũng còn nhiều sắc thái riêng, nhưng đến thời Bắc Thuộc, do chính sách đồng hóa của người Hán nên người kinh đã dần dần sống theo phong tục Tàu, họ quên dần những tập quán cũ thời bộ lạc của họ. Họ sống tập trung ở đồng bằng dưới sự kiểm soát của nhà Hán. Có nhiều người lấy chồng Tàu, sau nhiều đời như thế dân VN bị đồng hóa. Trong giai đoạn Bắc Thuộc, quan lại Tàu vẫn thường lấy gái VN, di dân bên Tàu sang VN làm ăn rồi định cư luôn ở VN tạo thành một khối chính trị hỗ trợ cho sự cai trị của Tàu. Cũng nhiều di dân là những kẻ tội phạm, tù vượt ngục, ... giang hồ; họ sang VN rồi cùng với quan lại Tàu được cử sang cai trị bên VN nổi dậy chống lại triều đình Trung Quốc để tự trị ở nước Âu Lạc. Cho nên việt sử mới có những anh hùng như Lý Bôn, Triệu Quang Phục... toàn là người Tàu cả.

Nhưng cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng là của người VN chính cống, vì người VN truyền thống theo mẫu hệ. Đến khi bị Tàu đồng hóa thì dân VN mới theo phụ hệ như người Tàu. Dưới thời Bắc Thuộc, vì có những người kinh bon chen lấy Tàu, làm việc cho Tàu, nịnh bợ quan Tàu, buôn bán làm ăn với người Tàu, theo phong tục, tập quán và nghề nghiệp của Tàu càng ngày càng nhiều; dần dân đa số người kinh là theo phong tục đó, họ học tiếng Hán để tiến thân trong xã hội, biết dùng trâu để cày ruộng, rồi họ thấy mình văn minh và giầu có hơn người thượng, chính họ lại là những người viết sử nữa, cho nên họ khinh rẻ xa lánh người thượng. Họ coi người thượng như không phải là người VN, nhưng chính họ mới là kẻ bị Tàu đồng hóa và người thượng mới chính là người VN chính gốc của giòng Bách Việt! Chính những người Tàu ở VN nhiều đời, họ cũng tưởng họ không phải gốc Tàu nữa; tập hợp những điều trên lại (cộng thêm sự độc lập về chính trị, tôi sẽ nói sau) thành người VN ngày nay!

Re: Về Chủng Tộc, người thượng là VN chính gốc. Về chính trị, lại khác!

2008-02-12 11:33:15

Nhất Đăng

Nói chính xác là người Mường.

Trên vùng cao có nhiều dân tộc lắm. Chỉ người Mường là một chi của Việt tách ra thời Hai Bà Trưng. Vì vậy, người ta đã tìm thấy loại chữ nòng nọc ở đây. Và người ta nghĩ đó là chữ cổ Việt. Những ông thầy có tên bằng chữ Hán Việt như phần (1) thì nên nghi ngờ là đã bị Hán hoá vì trước khi Tàu đô hộ dân ta không thể có tên bằng Hán Việt như vậy. Cũng giống như tên 18 đời Hùng Vương là tên Hán Việt. Có nên nghi nghờ chút nào không ?

Việt Sử ngày nay được viết bởi thế hệ sau, dưới thời nhà Lê, nhà Nguyễn

2008-02-12 12:00:42

Đào Công Khai

Toàn bộ việt sử chúng ta học được viết dưới thời nhà Lê và nhà Nguyễn. Sử xưa của VN đã bị quân Minh sang chiếm và mang về Kim Lăng đốt hết rồi. Nhiều pho sử rất quý của VN như Vạn Kiếp Bí Truyền và Binh Thư Yếu Lược của Đức Trần Hưng Đạo đã bị đốt thời đó! Các sử gia nhà Hậu Lê và Nguyễn cũng phải đọc sử Tàu để viết sử ta, còn nhiều phần xưa hơn thì họ phải dựa vào dã sử, thần thoại, truyền thuyết. Cho nên mới có chuyện Sơn Tinh, Thủy Tinh, cái Nỏ Thần, Phù Đổng Thiên Vương... Tất cả đó là chuyện sạo, nhưng nó dựa vào phong tục tập quán nước ta. Cũng như chuyện bà Âu Cơ đẻ ra 100 trứng thì làm sao tin được; nhưng nó cũng lý giải cho ta thấy Bách Việt (100 bộ lạc VN) chính là nguồn gốc của dân tộc VN!

Re: Việt Sử ngày nay được viết bởi thế hệ sau, dưới thời nhà Lê, nhà Nguyễn

2008-02-13 05:27:02

Lại Mạnh Cường

Thưa qúi bạn,

*** Theo nhận xét cá nhân tôi thấy bạn Đào Công Khai trình bày lại những gì chúng ta đã được học từ ngày xưa, cách nay đã nhiều thập niên qua (có thể trên dưới thế kỷ theo sự võ đoán của tôi tính là từ lúc các nhà khoa học gia phương Tây theo chân thực dân Pháp vào VN).

Chính những nhà học giả phương Tây đã đặt nền móng cho những nghiên cứu khoa học về các sắc tộc ở VN. Trong thế kỷ 20 ta thấy có nhà bác học Yersin, hoc trò cưng của Louis Pasteur và R. Koch - người tìm ra vi trùng Lao, đã có những nghiên cứu vê người Thượng ở Tây Nguyên; giáo sự cợ thể học Pierre Huard đóng góp nhiều về ngành nhân chủng học (giào sư thạc sĩ YK Trần Anh vốn là đô đệ ông Huard sau này là giáo sư môn nhân chủng học ở đại học Văn Khoa Sài Gòn cho đến khi bị VC ám sát chết vào sau tết 1970).

Trước đó các nhà khoa học khác, thưòng là các giáo sĩ (dòng Tên Jessuit) đóng góp rất nhiều cho các công trình khảo cứu các sắc dân như Chàm ở miền Trung hay các sắc tộc thiểu số khác ở miền Bắc.

*** Trong những thập niên gần đây có nhiều tiến bộ vượt bực trong ngành khảo cổ học, dân tộc học, cũng như về di truyền học qua sự nghiên cứu rất thâm sâu về cấu trúc DNA (kể từ thời hai ông bác học người Anh Watson và Creek hồi thập niên 50 nghĩ ra mô hình hai dải xoắn ốc helice nối kết vói nhau bằng cầu nối dưa trên căn bản của hình như bốn chất thì phải).

Đã có những khám phá mới về nguồn gốc con người và các sắc tộc trên thế giới. Bể học mênh mông, xem qua rồi chỉ nhớ loàng thoáng, vì không thuộc chuyên môn của mình, nên không dám làm bàn.

Dù sao con người thời đại mới đã được giải phóng rất nhiều về nhũng ràng buộc bởi những cơ cấu xã hội vô lý ngày xưa, như giáo hội hay các cấm kỵ trong kinh sách v.v.... Con người tự do bay bổng, nên dám đặt các dầu hỏi trong mọi lãnh vực, mà ko sợ coi là phạm thượng hay báng bổ thần thánh !

Chính những phim khoa học giả tưởng về thời cổ đại hay thời băng tuyết (ice tide) ... ngày một nhiều thêm và thật hấp dẫn, như về thế giới các loài khủng long (Jurassic Park năm 1993 của đạo diễn Steven Spielberg chẵng hạn) làm hấp dận người xem, kích thích trí tò mò của mọi người muốn truy nguyên về thời cổ xưa khi con người chưa xuất hiện hay đang còn ăn lông ở lỗ !

*** Dân tộc nào cũng có xây dựng ít nhiều huyền thoại về mình. Chẵng đâu xa dân Nhật tự cho mình là con cháu của Thái dương thần nữ chẵng hạn.

Đọc Việt sử thời thượng cổ ta thấy ngay sự vô lý về đời các vua Hùng tính ra ông vua nào cũng sống trên trăm năm !??? Còn ông Bàn Cổ là thuỷ tố của Tàu cũng sống dai hơn điả , hahahaaaa :-) !

Những huyền sự thực là những truyện truyến khẩu, dựa vào đời sống dân gian lúc đó pha trộn thêm phong tuc tập quán, nói khác đi cái văn minh văn hoá dân mình vào cho đậm đà hương vị thần bí linh thiêng !

Người VN khác với người Tàu về Chính Trị, không nặng về chủng tộc

2008-02-12 11:48:11

Đào Công Khai

Không phải chỉ có mình Bách Việt bị đồng hóa bởi người Tàu, vô số các chủng tộc thiểu số khác ở Trung Quốc và chung quanh đã bị Tàu đồng hóa đứt bóng luôn. Họ bị đồng hóa không còn tông tích gì nữa; trái lại VN chỉ bị Tàu đồng hóa về chủng tộc thôi, còn về chính trị thì VN vẫn còn giữ được độc lập cho đến ngày ngay. Nói về chính trị của VN thì nó hoàn toàn khác biệt với vấn đề chủng tộc của VN. Chủng tộc VN có thể bị lai Tàu, nhưng chính trị có lúc bị lai Tàu, rồi có lúc VN hoàn toàn độc lập và điều đó còn tiếp diễn cho đến ngày nay.

Cho nên khi nói tới người VN trên phương diện một nước độc lập thì phải hiểu nghĩa nó nó bao gồm đủ mọi sắc tộc thiểu số trong đó. Nói chung là Bách Việt, gồm nhiều bộ tộc khác nhau họp lại. Gồm người Thượng, người Tàu và tất cả mọi nhóm di dân từ Mã Lai, Ấn Độ sang.

Người Mỹ họ cũng đâu phải chủng tộc là Mỹ. Chủng tộc Mỹ đã bị chính người Mỹ giết hết, chỉ còn vài bộ lạc mọi da đỏ ngày nay. Người Mỹ cũng toàn là người Anh, Pháp, Tây Ban Nha, ... di cư sang đây đánh nhau rồi lập thành nước Mỹ. Họ khác là vì họ mới đánh giết người mọi da đỏ xong, cách đây nửa thế kỷ. Còn VN thì người Tàu họ đã giết người VN dài dài từ hơn 20 thế kỷ qua. Cho đến bây giờ thì người Mỹ cũng như người VN, đều lấy dân mọi da đỏ và dân Bách Việt làm nền tảng cho dân tộc mỗi nơi. Nhưng đa số nguồn gốc dân tộc thì là người Âu Châu (ở Mỹ) và người Tàu (ở VN). Bởi thế nên tất cả mọi thứ chúng ta đều giống Tàu, chỉ có ngôn ngữ mơi được thằng Tây nó xây dựng cho bộ chữ La Tinh để viết, nếu không thì VN cũng vẫn xài chữ hán trong chính quyền mà thôi.

Nhưng khác biệt giữa người VN và Tàu đó là ý thức độc lập. Ý thức độc lập về chính trị, nên dân Bách Việt và những người Tàu ở vùng Lưỡng Quảng và Bắc Việt đã hợp tác với nhau thành lập nước Nam Việt để chống lại sự bành trướng và đồng hóa của Trung Quốc. Vì thế Triệu Đà dù là người Tàu, nhưng VN đã đưa ông ta vào Việt Sử, coi ông ta là anh hùng lớn của dân tộc VN. Cái ý nghĩa dân tộc VN đó là ở nơi chí quật cường, ý thức độc lập không chịu thần phục và đồng hóa bởi Trung Quốc! Ý thức độc lập và ý thức dân tộc của người VN (chưa hẳn là khác biệt về chủng tộc với người Tàu) là ở chỗ họ muốn lập quốc, họ muốn có một quốc gia độc lập chống lại sự bành trướng và đồng hóa của Trung Quốc. Sự khác biệt về chủng tộc được Việt Sử chú trọng để nhằm nói lên những khác biệt về chí quật cường và khát vọng độc lập của "người VN".

Singapore và Đài Loan cũng tương tự như vậy, Đài Loan thì đa số họ là người Tàu; nhưng Singapore thì không hẳn như vậy, họ gồm người Mã Lai, Thái Lan và số lớn hơn là người Tàu nhưng họ (đa số gốc là tị nạn CS Tàu) muốn họ là một quốc gia độc lập, không bị ảnh hưởng chính trị bởi Trung Quốc.

Re: Người VN khác với người Tàu về Chính Trị, không nặng về chủng tộc

2008-02-12 21:30:58

Võ Bình

Thưa bạn Đào Công Khai,

Tôi nghĩ khác biệt chính giữa người VN và Tàu (Hán) là ngôn ngữ, phong tục và tập quán. Ý thức độc lập không hẳn chỉ ngưới VN mới có.

Không cần biết chúng ta là Việt chính gốc hay không chính gốc (lai Tàu, Tây, Miên, Chàm, etc.), còn người nói tiếng Việt và gìn giử phong tục và tập quán là nước Việt Nam còn cơ hội để tồn tại. Hơn 2000 năm lịch sử cùa chúng ta đã chứng minh điều đó. Những người cùng chung một tiêng nói, phong tục và tập quán có khuynh hướng sống gần nhau và lập thành một nhóm riêng biệt, hãy nhìn xem những cộng đồng người Việt ở Little Saigon (Mỹ), Cabramatta (Úc), biển hồ Tonlesap (Miên), ...

Re: Người VN khác với người Tàu về Chính Trị, không nặng về chủng tộc

2008-02-23 04:29:55

NGỌC NỮ

"Không cần biết chúng ta là Việt chính gốc hay không chính gốc (lai Tàu, Tây, Miên, Chàm, etc.), còn người nói tiếng Việt và gìn giử phong tục và tập quán là nước Việt Nam còn cơ hội để tồn tại" Võ Bình .

Tui rất đồng ý với bạn Võ Bình, "Còn người nói tiếng Việt và giữ dìn phong tục và tập quán là Nước Việt Nam còn cơ hội Để Tồn Tại." Tui nghĩ là đưa ra vụ (Nhân Chủng Học) chỉ để đồng hóa chúng ta với Tàu, NO ! Tui không chịu ! Là người Việt Nam, từ Tổ Tiên chúng ta hàng ngàn năm xây dựng nên, bây giờ gần như cả thế giới lai giống pha trộn Âu Á, nhưng nguồn gốc chánh của chúng ta, thì chúng ta giữ. Không chịu nghe những lời nói nào đồng hoá người VN với một chủng tộc nào khác cả! Nếu những người đảng viên cộng sản họ muốn như vậy, họ chỉ có thể đồng hóa tự thân họ và những người liên hệ họ hàng của họ. Nhưng không được phép ép buộc đồng hóa những người khác !

Re: Đi tìm căn cước thật của Việt Nam (phần 2)

2008-02-12 14:15:59

DSaiGon

Nói về Căn Cước VN mà không nói đến dòng VN gốc Chiêm Thành (Miền Trung) và Khmer

(Miền Nam) thì qủa là thiếu sót và không đấy đủ.

Re: Đi tìm căn cước thật của Việt Nam (phần 2)

2008-02-12 20:35:21

Nhất Đăng

Nếu có quyển "Nhìn lại sử Việt" của Lê Mạnh Hùng thì sẽ thấy ông viết : Lạc Việt và Chiêm Thành cùng chủng Lạc. Thú thật đây là điều mới lạ đối với tôi. Đến nay tất cả các luận cứ đều chưa có gì chắc chắn vậy thì cứ thâu nhận, coi như cho thêm mình một ít kiến thức vậy.

Nguồn: http://www.dcvonline.net

(Còn tiếp)

Share this post


Link to post
Share on other sites