wildlavender

Lý Công Uẩn – Đường Tới Thành Thăng Long

41 bài viết trong chủ đề này

"Phim Trung nói tiếng Việt"!

Nhà Thơ Đỗ Trung Quân có nhận xét vừa dí dỏm vừa cay đắng như vậy...

Vừa qua, Pháp Luật TP.HCM đã có bài viết đề cập đến việc hoãn phát sóng phim Lý Công Uẩn – Đường tới thành Thăng Long do 19 tập của bộ phim này mang đầy yếu tố Trung Hoa. Hội đồng Duyệt phim Quốc gia đã yêu cầu đoàn làm phim phải lược bỏ bớt những bối cảnh đậm chất Trung Hoa này và chỉ được phát sóng sau khi đã sửa chữa xong theo yêu cầu.

Sau khi báo đăng, Pháp Luật TP.HCM nhận được rất nhiều ý kiến phản hồi từ bạn đọc cũng như ý kiến đóng góp của các nhà nghiên cứu. Chúng tôi xin tiếp tục giới thiệu đến bạn đọc.

TS NGUYỄN NHÃ:

Nhận thức của nhà làm phim quá kém!

Nhận thức và ý thức về lịch sử, văn hóa Việt Nam của những nhà làm phim quá kém. Trong thời điểm khi quan hệ biển Đông và các vấn đề ngoại giao Việt-Trung đang còn nhiều thách thức mà lại dựng phim về lịch sử Việt Nam với bối cảnh, nhân vật, phục trang giống phim Trung Quốc thì nguy cơ mất gốc văn hóa và mất nước khi nào không hay.

Nhận thức của người làm phim đi ngược lại lịch sử của ông cha. Trong thời điểm hiện nay, mỗi người đều phải kiên quyết không chấp nhận cho một bộ phim như vậy được công chiếu.

Posted Image

Trên tay áo vua Lý Huệ Tông, các khúc uốn duệch doạc theo hình chữ U. Ảnh: NHK

Nhà thơ ĐỖ TRUNG QUÂN:

Không thể xúc phạm tiền nhân

Tôi không phải là người cực đoan để phủ nhận toàn bộ nền điện ảnh Trung Quốc. Tôi từng giới thiệu đến bạn bè những bộ phim hay của Trung Quốc như Aftershock (Dư chấn) của đạo diễn Phùng Tiểu Cương… Nhưng tôi không ngại gay gắt phê phán việc dựng một bộ phim lịch sử Việt Nam mà lại nhuốm màu sắc Trung Hoa. Trung Hoa từ đạo diễn, diễn viên, bối cảnh… Nên chăng chúng ta hỏi nhà sản xuất sao lại yêu Trung Hoa đến thế?

Tôi nói rằng Lý Công Uẩn – Đường tới thành Thăng Long là “phim Trung Quốc nói tiếng Việt” hoặc “phim Trung Quốc không cần phụ đề”. Dù là phim tư nhân bỏ tiền đầu tư vẫn không thể cho phép xúc phạm tiền nhân như vậy!

TS NGUYỄN HỒNG KIÊN:

Không thể làm phim lịch sử bằng bối cảnh nước khác

Tôi cực kỳ lo lắng về bản sắc dân tộc của các phim chào mừng 1.000 năm Thăng Long đã và sẽ quay ở Trung Quốc. Hoặc sẽ chẳng khác gì các phim chưởng rẻ tiền. Hoặc sẽ chẳng thể ra chất Việt

.Posted Image

Rồng thời Lý có các khúc uốn “thắt túi” như các chữ C nối tiếp nhau, vuốt nhỏ dần về đuôi.

Điện ảnh Việt Nam, những người quản lý ngành văn hóa Việt Nam đã và đang làm một việc “vô tiền khoáng hậu”: Làm phim về lịch sử dân tộc mình bằng những bối cảnh của đất nước khác. Mà quốc gia ấy, trong thời ấy và ngay cả bây giờ không bao giờ muốn chúng ta bảo tồn được bản sắc của mình.

Nguy hiểm nhất là những sự bịa đặt, vay mượn trang phục và kiến trúc Tàu này sẽ được các thế hệ sau coi là bản sắc dân tộc Việt.

Đau đớn là việc “tự chuyển hóa” này đang được thực hiện một cách chủ động.

Tôi muốn hỏi những người đã tham gia làm và muốn công chiếu bộ phim này: Các vị có bao giờ vào hùa với anh bạn hàng xóm chửi ông bà mình? Tôi chắc chắn người Trung Quốc hám tiền nhất cũng không làm điều đó.

Vậy nên đừng nói về bản sắc Việt ở bộ phim Tàu này (- trích từ blog Gốc Sậy).

QUỲNH TRANG ghi.

nguồn phapluattp.vn

4 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Không có cái nô lệ nào nguy hiểm bằng nô lệ về tư tưởng và văn hóa.

Không có cái đồng hóa nào nguy hiểm bằng đồng hóa về tư tưởng và văn hóa.

Ông cha ta đã từng nói:

"Như nước Đại Việt ta từ trước,

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,

Nước non bờ cõi đã chia,

Phong tục Bắc Nam cũng khác;

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao đời xây nền độc lập;

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên; mỗi bên hùng cứ một phương;

Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,

Song hào kiệt thời nào cũng có. "

Vậy mà con cháu thời này không khẳng định được cái "Phong tục Bắc Nam cũng khác;", dù chỉ trên điện ảnh.

Và cũng chẳng khẳng định được câu: "Song hào kiệt thời nào cũng có. " dù chỉ là "hào kiệt đạo diễn".

Hổ thẹn thay!

Thiên Đồng

5 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Thiên đồng nói hay quá, thật đáng hổ thẹn cho 1 bộ phim sử VN mà lại toàn dùng "hàng Tàu", may ra đc mấy diễn viên chính người Việt, như thế liệu có chấp nhận nổi ko?

buồn thay!

2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bình tĩnh đừng bức xúc! Đây là 'Hồn trương ba, da China" chứ có Sử Lý chi chi đâu!

3 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

TL sẽ không xem phim này!

2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Phải nói là nhục nhãTh mới đúng. Khổ cái là cái nhuc nhã này do chính những người có liên quan gây ra, tự mình làm ra.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Dốt nát, không đủ khả năng thẩm định tái tạo ý phục và kiến trúc cổ. Nội người được mời cố vấn lịch sử vào thời kỳ này phát biểu trên TV:

"Hai Bà Trưng là Vương chứ đâu phải là vua", đã cho thấy sự dốt nát thống trị. Chẳng bao giờ có một kết quả tốt từ sự dốt nát thành phá hoại này.

4 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nhà văn kiện nhà đầu tư phim về Lý Công Uẩn

Cập nhật lúc 14:43, Thứ Tư, 15/09/2010 (GMT+7)

Posted Image - Nhà văn Phạm Tường Vân, người từng được mời xây dựng kịch bản cho "Khát vọng Thăng Long" (KVTL) đang chuẩn bị hồ sơ kiện nhà đầu tư xung quanh dự án phim nhựa duy nhất về vua Lý Công Uẩn.

TIN LIÊN QUAN

Posted Image

Một cảnh trong phim "Khát vọng Thăng Long".

- Được biết chị cùng Phan Đăng Di là những biên kịch được mời tham gia viết kịch bản cho phim KVTL. Tuy nhiên khi phim ra mắt báo giới tại TP.HCM, tác giả kịch bản lại là Charlie Nguyễn. Vậy thực hư chuyện này thế nào?

Tôi tiếp cận với dự án phim này từ tháng 9/2009. Trong cuộc họp với đạo diễn Lưu Trọng Ninh và ê kíp làm phim KVTL ngày 18/9/2009, tôi đưa ra nhiều ý tưởng, trong đó có ý tưởng xây dựng một nhân vật nữ (hoàn toàn hư cấu) là hồng nhan tri kỷ của Lý Công Uẩn. Bà Tâm - đại diện phía nhà sản xuất Kỷ Nguyên Sáng (KNS) có yêu cầu tôi ở lại để bàn bạc ký kết hợp đồng nhưng chưa thống nhất được. Sau đó tôi được biết họ chuyển công việc viết kịch bản sang nhà biên kịch Phan Đăng Di.

Hơn 4 tháng sau, ngày 1/2/2010, tôi lại nhận được lời mời trở lại với dự án. Lúc đầu họ muốn tôi sửa chữa, tổng hợp 2 kịch bản của Lưu Trọng Ninh và Phan Đăng Di ra một kịch bản mới. Nhưng khi đã đọc kỹ các bản nhận xét của nhóm cố vấn với hai kịch bản trước, thấy việc pha trộn tốn nhiều thời gian lại khó đạt hiệu quả, tôi quyết định đưa ra một cốt truyện và tuyến nhân vật hoàn toàn mới.

Sau khi ý tưởng và cốt truyện của tôi được thông qua, hợp đồng được ký kết vào ngày 11/2/2010 (27 Tết). Theo bản hợp đồng này, tôi phải sáng tác một kịch bản mới, không sao chép từ ai khác, nhưng phải cam kết không đứng tên tác giả kịch bản mà chỉ đứng tên trong Hội đồng cố vấn. Kịch bản cần hoàn tất trong vòng 4 tuần (trước 17/3) để kịp bấm máy vào 26/3/2010 như dự kiến.

Khi tên Phan Đăng Di được KNS công bố trên báo chí trong vai trò đồng tác giả kịch bản với Lưu Trọng Ninh (tháng 2-3/2010) thì trên thực tế anh ấy đã rút lui khỏi dự án từ trước đó và KNS đang làm việc trên cơ sở kịch bản do tôi viết. Tôi chưa có khái niệm về vai trò của Charlie Nguyễn.

Phản ứng của chị thế nào khi kịch bản do mình viết lại đứng tên người khác? Tại sao chị lại chấp nhận điều đó?

Lúc đó, tôi nghĩ KNS là một nhà đầu tư mạo hiểm và đang gặp khó khăn, nên mình cần ủng hộ. Việc kịch bản người này viết lại đứng tên người khác có thể là một cách họ buộc phải làm để đạt một mục đích nào đó. Tôi chấp nhận không đứng tên vì tôi tìm thấy niềm vui khi góp sức vào một dự án điện ảnh lớn, nhiều ý nghĩa. Tôi xa Hà Nội lâu quá, và đây là cách để tôi trả nghĩa cho mảnh đất tôi yêu và tri ân tiền nhân đã để lại cho tôi nhiều di sản tinh thần quý giá.

Kịch bản chị được xây dựng như thế nào?

Kịch bản tôi viết theo mục tiêu ban đầu của nhà sản xuất: một bộ phim lịch sử hoành tráng, hấp dẫn nhưng ẩn chứa những thông điệp đa nghĩa: đề cao lợi ích dân tộc, đề cao tính nhân văn và giá trị văn hoá.

Lý Công Uẩn được xây dựng là một vị vua trí tuệ, nhân ái và có tầm nhìn chiến lược. Có 3 tuyến truyện chạy song song, xung đột chính của phim là xung đột nội tâm giữa Lý Công Uẩn và các hệ giá trị, các tuyến phụ là một thiên tình sử kỳ ảo mà oan trái, cùng chuỗi mưu mô của các thế lực trong triều theo dòng chính biến, để làm nổi bật tầm vóc của một nhân vật lịch sử, đặc biệt là giá trị nhân - địa - trí của Thăng Long - Hà Nội.

Về cấu trúc kịch bản: Trí tuệ và tài năng của Lý Công Uẩn là yếu tố khiến ông thích hợp để trở thành minh quân nhưng đạo lý là trở ngại chính khiến ông không thể tiếm ngôi vua của nhà Lê dù Lê Ngoạ Triều ngày càng đi ngược với lý tưởng nhân nghĩa mà ông theo đuổi. Đây là cao trào xung đột chính của truyện phim. Các xung đột này được bộc lộ qua sự đối đầu giữa: tư tưởng trung quân và ước muốn thực hành nhân đức, giữa tình yêu và vận mệnh sơn hà xã tắc.

Tư tưởng trung quân luôn thắng thế với Lý Công Uẩn và đẩy xung đột từng bước leo thang lên đến đỉnh điểm khi người tri âm của ông bị đọa đày và dân tình thống khổ. Đây là tình cảnh tác động sâu sắc, làm chuyển biến nhận thức của Lý Công Uẩn, là điểm mấu chốt khiến ông nhận thức được tính tương đối của các giá trị đạo lý và dũng cảm vượt qua để quyết định một hành động đầy ý nghĩa.

Xuất phát từ cùng một nhân vật và sự kiện lịch sử, kịch bản của chị liệu có gì mới so với sử sách và những kịch bản khác cùng đề tài?

Bên cạnh Lý Công Uẩn và các nhân vật có thật trong sử sách (như Sư Vạn Hạnh, Long Việt, Long Đĩnh, Ngân Tích, Long Kính, Long Cân, Nguyễn Đê, Đào Cam Mộc…) tôi xây dựng thêm 3 nhân vật hư cấu: Thiên Nhai - một cô gái của thành Đại La, là con quan ngự y, người bạn thuở thiếu thời, hồng nhan tri kỷ có trí tuệ trác tuyệt của Lý Công Uẩn, người đã chọn cái chết để thức tỉnh Lý Công Uẩn đi đến quyết định quan trọng vì vận nước.

Nhân vật phản diện có Vĩnh Lạc - một gian thần, và một cung phi giấu mặt, đứng đằng sau các vụ ám sát các vương tử (trong đó có Long Việt và Long Đĩnh) cũng là căn nguyên của các cuộc chiến huynh đệ tương tàn giữa các vương tử sau này. Nhân vật Long Đĩnh (vua Lê Ngoạ Triều), tôi không xây dựng quá tiêu cực như sử sách mà để ông ta có một tính cách dữ dội, thông minh, bản lĩnh, hài hước nhưng đầy bất trắc do chứng hoang tưởng ngày một trầm trọng.

Tôi cũng không để Long Đĩnh giết Long Việt như giả thuyết lịch sử mà để ông ta mắc mưu gian thần Vĩnh Lạc mà ngẫu nhiên mang tiếng giết anh ruột tiếm ngôi. Ngoài ra, kịch bản có nhiều trường đoạn bay bổng, những đối đoạn mang không khí cổ xưa nhưng hàm chứa những thông điệp thời đại. Những điều ấy đã không đến được với công chúng.

Vì sao nó lại không được chấp nhận?

Lúc đầu, tôi giao dịch với bà Tâm, và một nhóm cố vấn phía sau mà tôi không biết mặt, những nhận xét của họ với hai kịch bản trước đó tương đối nghiêm túc và xác đáng. Giai đoạn đầu của hợp tác diễn ra khá ổn thoả, đề cương chi tiết được hoàn tất đúng thời hạn (mùng 1 Tết), chính nhóm cố vấn của KNS đã gọi điện, gửi email tỏ ý rất hài lòng với đề cương tôi gửi, ngoại trừ vài chi tiết cần chỉnh sửa. Kịch bản được dịch sang tiếng Anh, tiếng Hàn để gửi đi Hàn Quốc, tóm tắt bằng tiếng Việt để gửi ra Hà Nội và sử dụng để thử vai diễn.

Trong hơn 80 email giao dịch công việc giữa hai bên, cho đến nay, chưa có một văn bản nào phía KNS gửi cho tôi có nội dung tuyên bố từ chối sử dụng kịch bản của tôi cả.

Đến cuộc họp báo gần đây mọi người mới biết dự án phim KVTL có sự tham gia của nhà sản xuất, đạo diễn, diễn viên của hãng phim Chánh Phương. Trước đó, có thông tin một nhà biên kịch nổi tiếng người Mỹ gốc Việt cũng được mời tham gia vào kịch bản?

Đầu tháng 3/2010, hợp đồng đang được hai bên thực hiện (tôi đang hoàn thiện nốt phần thoại và sắp xếp lại thứ tự các phân cảnh) thì họ mời một biên kịch người Mỹ gốc Việt gặp tôi với vai trò “bác sĩ kịch bản” và mấy người từ Chánh Phương film. Tôi đã mất nhiều thì giờ dịch kịch bản sang tiếng Anh, họp, viết email giải thích cho họ về thông điệp phim mà tôi muốn chuyển tải, các khía cạnh lịch sử, địa lý và tâm linh… nhưng không một ý kiến nào được cân nhắc và hồi đáp!

Sau buổi họp với nhóm này, các cảnh phim được sắp xếp lại, gia tăng cảnh đánh đấm chuyển hướng sang hành động giải trí. KNS không theo đuổi mục tiêu ban đầu và nhóm cố vấn cũng không thấy xuất hiện trong dự án nữa. Tôi đã nhiều lần gửi mail để hỏi rõ mục tiêu với nhà đầu tư, nhà sản xuất và cảnh báo nếu triển khai theo cách này, nhân vật chính không còn là vị vua Lý Thái Tổ của Thăng Long nữa, chưa kể đôi chỗ sai sót về lịch sử. Nhưng họ tuyệt nhiên không trả lời, đồng thời cũng không nhắc gì đến việc giải quyết hợp đồng mà hai bên đã giao kết.

Posted Image

"Khát vọng Thăng Long" là một trong những bộ phim bị dư luận xăm xoi nhiều nhất trong thời gian qua.

Sao đến bây giờ chị mới lên tiếng?

Tôi đến với dự án này không phải vì danh lẫn lợi, vì thế, khi hợp tác bị phá vỡ, tôi cảm thấy quá tổn thương nên đành quên chuyện không vui này để tập trung cho một dự án mới. 5 tháng sau, đêm 5-6/8/2010, tôi hoàn toàn ngỡ ngàng khi nhận được một cuộc điện thoại mang tính chất gây hấn và một tin nhắn vô văn hóa, xúc phạm nghiêm trọng đến cá nhân tôi từ phía KNS.

Tôi thấy mình không thể im lặng thêm nữa, nên quyết định uỷ quyền cho luật sư thay mặt tôi giải quyết những vấn đề pháp lý. Ngày 17/8 vừa qua, Luật sư Nguyễn Thành Long - Văn phòng luật sư PHẠM & LIÊN DANH đã thay mặt tôi gửi thư đến KNS yêu cầu giải quyết các quyền lợi của tôi để đi đến thanh lý hợp đồng. Nhưng cho đến nay, KNS vẫn hoàn toàn im lặng.

Được biết mới đây chị đã tìm đến văn phòng luật sư để chuẩn bị hồ sơ khởi kiện nhà đầu tư phim KVTL. Xin chị cho biết sự việc lúc này đi đến đâu?

Sự thiếu hợp tác của KNS đang đẩy mọi việc đi xa hơn mức đáng có. Tôi hy vọng kịch bản được trình chiếu không mảy may đụng đến những gì tôi đã viết, để vụ việc nếu có đưa ra tòa, chỉ dừng lại ở khiến kiện về hợp đồng, chứ không liên quan đến bản quyền tác giả kịch bản.

Sau những gì đã nếm trải, tôi có quyền lo ngại: nếu để công chúng (với nhiều kỳ vọng và mong đợi) phải thưởng thức một món ăn được chế biến vội vã, với nhiều lỗ hổng lịch sử - văn hóa, thì theo tôi, đó là một tổn thất về tinh thần khó bù đắp. Nó cũng sẽ xói mòn lòng tin của những ai đang đóng góp cho điện ảnh, một lĩnh vực đang rất cần tài, trí và cả sự can đảm dấn thân!

VietNamNet đã liên lạc với Bà Lê Minh Tâm - Chủ tịch HĐQT Kỷ Nguyên Sáng kiêm nhà điều hành sản xuất của dự án phim "Khát vọng Thăng Long" xung quanh những thông tin nhà văn Tường Vân nêu.

Bà Tâm cho biết: "Chúng tôi có ký hợp đồng với chị Tường Vân và đã ngưng hợp đồng với chị Vân từ rất lâu rồi. Thời điểm thanh lý hợp đồng với chị Vân chúng tôi rất bận rộn nên hai bên chỉ liên lạc với nhau bằng email. Trong hợp đồng có đề rất rõ là nếu hai bên không đồng ý với đề cương kịch bản thì ngưng lại. Tôi cũng đã thông báo chi chị Vân rằng kịch bản không được và tôi đã làm việc với người khác.

Khi chị Vân viết đề cương kịch bản phim chúng tôi đã trả tiền cho công việc ấy và hoàn toàn có quyền sử dụng đề cương đó. Còn chuyện đứng tên hay không đứng tên hoàn toàn do hai bên thoả thuận với nhau không ai bắt buộc hết. Trong hợp đồng cũng có những ràng buộc như tất cả những thông tin khi viết kịch bản phải được giữ bí mật và nếu như lộ ra ngoài thì phải chịu trách nhiệm. Đến ngày hôm nay (12/9), không có một luật sư nào gửi thư hay liên lạc với tôi. Tôi cũng không có trách nhiệm trả lời thư của luật sư.

Hạnh Phương

2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Mời các bác nào có thời gian thì vào đây phản biện rất nhiều ý kiến tán thành phim Đường tới thành Thăng Long, trong đó có bạn gián điệp văn hóa Tàu chuyên làm mỗi nhiệm vụ đi khắp các diễn đàn về lịch sử văn hóa Việt nam để tuyên truyền phổ biến văn hóa Tàu và phủ nhận văn hóa Việt.

httv//:................

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Theo đường linh của Viet thường, tôi đưa thẳng bài viết lên đây luôn. Lập luận của mấy tay này thuộc hạng chưa đáng quan tâm. Cái sai cốt lõi của việc cho rằng văn hóa Việt ảnh hưởng văn hóa Tàu chính là sự cắt trích lịch sử. Nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm bị một số kẻ ngu dốt xóa sổ. Họ đã lờ tịt đi rằng:Chính Khổng tử - được coi là một triết gia tạo ra nền tảng của văn hóa Trung Hoa khi nói về y phục phải thốt lên rằng: Nếu không có Quản Trọng thì người Hán phải cài vạt áo bên trái như người Man rồi. Chính nền văn hiến huy hoàng của Việt tộc đã bị Hán hóa, và một đám dốt nát ngộ nhận cho rằng văn hóa Việt ảnh hưởng văn hóa Hán - khi họ đã cắt đoạn đầu của lịch sử Việt một thời huy hoàng ở miền nam Dương Tử từ gần 5000 trước. Rất nhiều bằng chứng về nhiều phương diện chứng tỏ biểu tượng Rồng phượng, lân, qui ....và những gia trị văn hóa khác có xuất xứ từ nền văn hiến Lạc Việt.

Càng phủ nhận giá trị văn hiến Việt càng tỏ ra dốt nát.

Sự phản ứng của dư luận, trong đó có cà nhân tôi, không đơn thuần là Y phục Việt như trong phim hay không. Mà là dấu ấn Việt nhạt nhòa trong bộ phim này.

-----------------------------------------------------

Tư cách viết báo

donga1

Hôm nay tôi đọc bài báo trên tờ Pháp luật TPHCM về bộ phim Lý Công Uẩn. Điều tôi kinh nhất ở bài báo này khi trích dẫn Lịch triều hiến chương loại chí đã lờ tịt đi một chi tiết quan trọng, liên quan mật thiết tới nội dung bài báo. Lịch triều hiến chương loại chí viết: "Lê Ngọa Triều, năm Ứng Thiên thứ 13 [1006] đổi phẩm phục của các quan văn võ, đều theo như lối nhà Tống". Đây là chi tiết quan trọng mà bài báo đã lờ đi. Bài báo còn viết rằng: "phải thấy rằng vào thời Tiền Lê - Lý Công Uẩn, áo xống của người triều đình chưa thể thêu thùa lộng lẫy như thế", nhưng lại quên mất rằng chính Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Thái hậu thấy mọi người vui lòng quy phục bèn sai lấy áo long cổn khoác lên người Lê Hoàn, mời lên ngôi Hoàng đế". Chắc chỉ có báo Pháp luật TPHCM mới có thể nghĩ ra áo long cổn là áo không thêu thùa (!)

Quan phục ngày xưa may bằng vải vóc gì? Rất hay là Đại Việt sử ký toàn thư chép như sau: "Tháng 2 [1040, triều Lý Thái Tông], vua đã dạy cung nữ dệt được gấm vóc. Tháng ấy xuống chiếu phát hết gấm vóc của nước Tống ở trong kho ra để may áo ban cho các quan, từ ngũ phẩm trở lên thì áo bào bằng gấm, từ cửu phẩm trở lên thì áo bào bằng vóc, để tỏ là vua không dùng gấm vóc của nước Tống nữa". Đoạn chép trong Toàn thư đủ thể hiện, ít nhất đến tời Lý Thái Tông, vua và quan lại Việt Nam dùng vải Tàu hay vải Ta để may quần áo.

Tôi nghĩ về tư cách viết báo. Liệu có thể có thứ tư cách viết báo lờ tịt hay che dấu những chứng cứ hay luận điểm bất lợi cho bài báo mình viết hay không?

Song thực sự thì tôi cũng chẳng ngạc nhiên với tờ Pháp luật TPHCM. Nếu nhớ lại sẽ thấy tờ báo này từng tâng ông Ngô Đức Thọ với vụ cáo buộc ông Nguyễn Đình Hương "đạo văn", rồi lại vụ lùm xùm với báo Đời sống và Pháp luật. Cả hai vụ này đều thấy tuyên bố trên báo chí sẽ đưa vụ việc ra tòa. Cho đến nay tôi chẳng nghe thấy gì nữa. Không rõ là đã đưa ra tòa chưa. Trong khi đấy với vụ đạo văn của Nguyễn Ngọc Thơ với bằng chứng rõ ràng thì tờ báo này lại có ý bênh vực. Do vậy, báo Pháp luật TPHCM có đăng những bài viết chỉ có một nửa sự thật hay lờ tịt đi hay che dấu những chứng cứ hay luận điểm bất lợi thì cũng chẳng có gì đáng phải ngạc nhiên. Đó là loại báo như vậy.

Trang phục quan lại triều Nguyễn

Posted Image

Bức ảnh trên đây chụp quan lại triều Nguyễn ở thế kỷ 19. Có thể nhận thấy về cơ bản trang phục của quan lại triều Nguyễn giống như của nhà Minh Trung Quốc (so với hai bức ảnh ở dưới). Điểm khác biệt chỉ là các chi tiết nhỏ như cổ áo trong, họa tiết trang trí và có thể là màu sắc. Nhà Nguyễn không sử dụng trang phục của nhà Thanh cùng thời, mà lại sử dụng trang phục của nhà Minh có phần hơi cổ. Có thể nghĩ trang phục quan lại thời Lê - Nguyễn sao chép trang phục triều Minh. Câu thơ "Y quan Đường chế độ" là có thể tin được cho thời Lý - Trần. Phải thấy rằng những người làm bộ phim Lý Công Uẩn - Đường tới thành Thăng Long đã rất cố gắng trong thiết kế trang phục. Chỉ cần xem một đoạn giới thiệu tôi đã thấy cố gắng của họ trong những chi tiết Việt, tuy những chi tiết này nhỏ. Điều thật đáng kinh là có những người có thể nói thẳng rằng chẳng biết gì về trang phục Lý - Trần cũng như trang phục của Trung Quốc ở các thời kỳ lịch sử nhưng lại phán "lai Tàu" này nọ, và thậm chí còn đề nghị cấm chiếu phim. Họ là loại người gì vậy? Phải thấy rằng một mặc cảm dòng chính đang ngự trị trong xã hội Việt Nam, nhất là trong những chuyện có liên quan tới Trung Quốc.

Posted Image

Posted Image

Trang phục nho sinh của người Việt

Trang phục nho sinh của người Việt về cơ bản không khác gì của Trung Quốc. Bức ảnh dưới đây chụp người Việt ở thế kỷ 19. Thực ra cũng không có gì đáng phải ngạc nhiên, bởi vì trong suốt lịch sử trung-cận đại, Trung Quốc vẫn được coi là hình mẫu chuẩn để Việt Nam noi theo.

Posted Image

Posted Image

Trang phục của người Việt trong mắt người Nhật

Tôi tìm trên mạng được hai bức vẽ người Việt của Nhật Bản. Bức dưới đây trong tập Vạn quốc nhân vật đồ, năm 1645:

Posted Image

Còn bức dưới đây trong tập Thế giới nhân vật đồ quyển, năm 1714:

Posted Image

Trang phục trong hai bức vẽ này trông khá thú vị và e rằng sẽ có người cho rằng chúng "lai Tàu". Điều có thể nhận thấy là cổ áo đàn ông đã thay đổi từ cổ tròn của thời Trần sang cổ tạo bởi nẹp vạt áo. Tuy nhiên chân đất thì vẫn như xưa. Quốc hồn quốc túy của Việt Nam là chân đất và nhai trầu. Cứ khai thác hai đặc điểm này là không sợ lai với bất kỳ nước nào.

Trang phục thời Lý Trần như thế nào?

Posted Image

Bộ phim Lý Công Uẩn - Đường tới thành Thăng Long đang bị phê phán là bộ phim lai Tàu. Đặc điểm lai Tàu, theo những lời phê bình, chủ yếu thuộc về vấn đề trang phục. Vậy câu hỏi đặt ra là: trang phục của người Việt thời Lý-Trần như thế nào?

Về mặt cơ bản rất khó xác định chính xác trang phục thời Lý-Trần. Bài thơ Đáp Bắc nhân vấn An Nam phong tục, được cho là của Hồ Quý Ly, có câu: "Y quan Đường chế độ / Lễ nhạc Hán quân thần". Bài thơ này cho thấy, về mặt cơ bản, trang phục mũ áo quan lại thời Lý-Trần giống như thời nhà Đường của Trung Quốc. Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục, có dẫn lại đoạn chép về cách ăn mặc của người Việt thời kỳ nhà Trần trong Sứ Giao châu thi tập của Trần Cương Trung, một viên quan nhà Nguyên sang sứ nước ta:

"Thời nhà Trần, người trong nước đều cạo đầu cho nên trong Sứ Giao Châu thi tập của Trần Cương Trung nhà Nguyên chua rằng: "Con trai đầu trọc, người nào có quan chức thì chùm đầu bằng khăn xanh, nhân đân đều như sư cả." Tục cắt tóc này đến Hoàng Phúc nhà Minh mới cấm, nay dân ở Kiên Lao và Trà Lũ huyện Giao Thủy vẫn còn giữ tục ấy.

Tập Sứ Giao Châu nói: "Dân đều đi chân không, gián hoặc có người đi giày da, khi đến cung điện thì rút giày ra. Trong lúc đón tiếp ở ngoài đô ấp hàng trăm người mặc áo bào cầm hốt, đều quỳ, da chân họ rất dày trèo núi như bay, chông gai cũng không sợ. Khăn dùng màu xanh thẫm do tơ lụa chế ra. Khi đội khăn thì dùng giây sắt cài lại đằng trước cao hai thước mà gập xuồng đến cổ, lấy dải buộc thắt lại đằng sau, trên đỉnh có cài cái đinh bằng sắt. Người có quan chức thì thêm một mảnh dải vào dây sắt này. Lúc ở nhà để đầu trần, gặp có khách mới đội khăn, nếu đi ra ngoài thì có một người mang khăn đi theo, duy có quốc vương búi tóc, dùng lụa là phủ lấy búi tóc trông xa như luân cân của nhà đạo sĩ. Người trong nước đều mặc lụa thâm, áo hoa, quần mỏng, cổ áo tròn khâu bằng là. Đàn bà cũng mặc áo thâm nhưng màu trắng ở trong rộng hơn để nền cổ áo rộng bốn tấc, họ cho thế là khác với đàn ông, các sắc xanh, hồng, vàng, tía tuyệt nhiên không có.

Họ chạy nhảy rất nhanh, đi lại như gió một nmàu đen thẫm như muôn vết quạ đen, đàn bà cắt tóc để lại ba tấc tết ở trên đỉnh đầu sợi tóc rồi búi chặt lại và cài bằng trâm, ở đằng sau gáy không có tóc cũng không xoa dầu xoa sáp gì cả. Những thứ vòng đeo nhà giàu dùng vòng đồi mồi, còn các người khác dùng xương hoặc sừng mà thôi không có một tí vàng bạc nào cả, nhân dân đề vẽ mình làm thành hình móc cao khuất khúc trông như hình lư đồng, đỉnh đồng thời cổ, có người xăm chữ vào bụng."

Đoạn miêu tả áo mặc trong Trần Cương Trung thi tập có hơi khác chút ít so với bản dịch của Kiến văn tiểu lục ở trên: "... giai y hắc,tạo sam, tứ cư,bàn lĩnh dĩ la vi chi" (bản Tứ khố toàn thư thiếu mất một chữ trước chữ "giai y hắc"), có nghĩa là: đều mặc áo sắc đen, áo trong thâm, bốn vạt, cổ tròn khâu bằng là (là là một thứ lụa).

Bức vẽ ở trên thể hiện lối ăn mặc của người Giao Chỉ tôi lấy trong bộ Tam tài đồ hội của Vương Kỳ, người đời Minh soạn. Như vậy dù không cụ thể, chi tiết, cũng có thể hình dung đại khái được trang phục thời Lý-Trần như thế nào. Về cơ bản, đàn ông cạo đầu, xăm mình, đội khăn. Riêng vua chúa thì búi tóc, và dùng lụa phủ búi tóc. Áo mặc có cổ tròn, thường màu sẫm. Các màu xanh, hồng, vàng, tía mà màu áo của vương hầu, dân chúng không được dùng. Theo bức vẽ của Tam tài đồ hội có thể thấy áo bào có cổ tròn, bốn vạt, tay áo ống hẹp. Đây là đặc điểm khác trang phục của Trung Quốc thời kỳ Đường-Tống.

Tôi chưa xem bộ phim Lý Công Uẩn - Đường tới thành Thăng Long, nên thật khó nhận xét. Nhưng căn cứ vào đoạn giới thiệu bộ phim trên Youtube, tôi thấy đoàn làm phim đã rất cố gắng thể hiện trang phục thời Lý-Trần. Cổ áo tròn, tóc búi là đặc điểm trang phục thời Lý-Trần. Đấy là những đặc điểm tinh tế mà có lẽ ít người nhận thấy. Tôi thấy bà Nguyễn Thị Tình nói: "Dựa trên các tiêu chí như khoa học, dân tộc và đại chúng, tôi đã cố gắng hết sức để trang phục của phim thực sự là VN”, là có cơ sở. Tôi đồ rằng, những người phê phán trang phục trong bộ phim lại chính là những người không biết trang phục của Trung Quốc trong lịch sử như thế nào cũng như trang phục của người Việt thời Lý-Trần giống khác với Trung Quốc ra sao. Phê phán thì dễ, nhưng trước khi phê phán hãy chỉ ra trang phục thời Lý-Trần ra sao, hơn là cứ phán rằng "lai Tàu", nhưng tựu trung lại mù tịt chẳng biết Tàu thế nào, Ta ra sao.

Tôi nghĩ phim lịch sử có nhiều vấn đề, nhưng chẳng có lý do nào có thể cấm tính sáng tạo và thể hiện của các nhà làm phim, cho dù có giống Tàu cỡ nào đi nữa, bởi vì dù có giống Tàu thì đấy cũng là cách nhận thức và hiểu biết của các nhà làm phim tạo ra những điểm nhìn tham chiếu, để các bộ phim sau có thể nhận ra các nhược điểm của những người đi trước để khắc phục và hoàn thiện tốt hơn. Tuy nhiên tôi thấy cũng phải lo ngại vấn đề tạo ra những "lỗ trắng" trong phim lịch sử, tức là những vấn đề lịch sử đã trở thành chính thống hay chẳng có gì mà phải xét lại, nhưng khi làm phim lại lờ đi hay chỉ điểm lướt qua, mặc dù nó là đặc điểm quan trọng của thời kỳ mà bộ phim phản ánh, chẳng hạn chuyện Lê Hoàn phá Tống.

Đây là đoạn giới thiệu bộ phim Lý Công Uẩn - Đường tới thành Thăng Long

Bát Man tấn cống

Theo thông báo của Chính phủ, chương trình nghệ thuật kỷ niệm 1000 năm Thăng Long có tiết mục tấu quốc nhạc theo nghi thức cung đình: "nhạc đăng đàn, nhạc múa “lục cúng hoa đăng”, nhạc “Bát man tấn cống”..." Có lẽ ban đầu trang web của Chính phủ viết thiếu dấu sắc thành "Bát Man tấn công", nhưng sau đó đã sửa lại. Tôi thấy chuyện chẳng có gì mà phải ầm ĩ.

"Bát Man tấn cống" là khúc nhạc nằm trong Nhã nhạc cung đình Huế đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long tấu "Bát Man tấn cống" chẳng có bất cứ vấn đề gì, nhất là nó được tấu sau "Đăng đàn cung", "Lục cúng hoa đăng". "Bát Man tấn cống" là khúc nhạc vui vẻ, hân hoan, thái bình và thống nhất, chẳng có lý do gì mà cho rằng nó không phù hợp với lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long. Tên khúc nhạc có chữ "man" và có vẻ chữ này tạo ra dị ứng với một số người. Tôi cho rằng đấy chẳng qua chỉ là mặc cảm tự ti. "Bát Man tấn cống" cần phải hiểu đó chỉ là một cách dụng điển để đặt tên cho một khúc Nhã nhạc. Nó không có nghĩa là phải có đúng 8 tộc Man, hay 8 nước Man. Hơn nữa, "Bát Man tấn cống" là tên khúc nhạc cổ truyền, do đó phải giữ nguyên tên gọi như vậy. Ngoài ra, chữ "man" cũng chẳng xấu xa gì. Ngay tiếng Việt hiện đại vẫn gọi tộc người Dao là người Mán như Mán sơn đầu. Người Mán đâu có vì vậy mà phải mặc cảm mình là man di mọi rợ?

Bản "Bát Man tấn cống" của cải lương hay đàn ca tài tử lại là một bản ca vọng cổ. Nó không phải là bản "Bát Man tấn cống" không lời của Nhã nhạc.

Đây là bản "Bát Man tấn cống" của Nhã nhạc

Posted Image

BatManTanCong.wmaHosted by eSnips

Đây là bản "Bát Man tấn cống" của đàn ca tài tử

Get this widget | Track details | eSnips Social DNA

Đây là bản ca "Bát Man tấn cống" của đàn ca tài tử

Hoa mạn đà la

"Posted Image

Cây hoa này có tên gọi là "đại hoa mạn đà la" theo cách gọi của người Trung Quốc. Tên khoa học của cây hoa là Datura suaveolens hay Brugmansia suaveolens. Người Việt thường gọi cây hoa này là "cà dược dại" hay "cà độc dược". Tôi không thích cái tên "cà dược" này, và gọi cây hoa là hoa mạn đà la đại theo cách gọi của người Trung Quốc. Cái tên "mạn đà la" này mở ra cả một trời tri thức và văn hóa hơn hẳn cái tên "cà dược". Quảng quần phương phổ có chép về hoa mạn đà la. Quảng quần phương phổ dẫn Kinh Pháp Hoa, khi Phật thuyết pháp: "Khi đó trời mưa hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha Mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa, hoa Ma-ha Mạn-thù-sa, để rải trên đức Phật cùng hàng đại chúng; khắp cõi Phật sáu điệu vang động". Quảng quần phương phổ còn viết thêm, theo Đạo gia, sao Bắc Đẩu có Đà La sứ giả tay cầm bông hoa như vậy, do đó đời sau gọi bông hoa đấy là Mạn đà la. Trong Tử vi có sao Đà La, đi cùng với Kình Dương, thuộc loại hung tinh, chính là Đà La sứ giả của Đạo gia. Hoa mạn đà la, chép trong Quảng quần phương phổ, được coi là hoa Datura stramonium, cùng một chi với hoa Datura suaveolens này. Nguồn gốc cái tên "mạn đà la" chỉ có như vậy. Kinh sách Phật giáo hay đưa khái niệm "Mạn đà la" thành đa tầng, đa lớp, đa nghĩa, thành ra "Mạn đà la" hay được hiểu theo các nghĩa khác nhau. Tuy nhiên đây chỉ là khái niệm cây hoa mạn đà la trong văn hóa Trung Quốc, không rõ có xuất xứ gốc rễ từ văn hóa Ấn Độ không. Cây mạn đà la là thứ cây độc. Người ta có thể dùng nó để chế ra một loại ma túy hay thuốc mê với cái tên "mông hãn dược" rất hay gặp trong các truyện kiếm hiệp. Tôi nghĩ chính vì tính ma túy của nó mà kinh Phật hay nói hoa mạn đà la là vô ưu, nhưng không tìm được kinh sách khẳng định khái niệm vô ưu này. Theo thần thoại Hindu, thần Shiva hút một loại thuốc làm từ hoa Datura. Không rõ đây có phải là gốc tích vô ưu của hoa mạn đà la. "Thiên vũ tán hoa", mưa trời rải hoa, chính là nói về hoa mạn đà la trong kinh sách Phật giáo.

Tới Khê Đầu tôi thấy khá nhiều cây mạn đà la đại này. Đâu có ưu tư mà phải cần mạn đà la để vô ưu? Chiều nào chẳng mưa, sáng nào chẳng mây, thêm nỗi vô ưu, phải chăng chính là Cực Lạc?

Trần Dữ Nghĩa thời Tống có bài thơ Hoa mạn đà la sau:

Ngã phố thù bất tục

Thúy nhuy phu ngọc phòng

Thu phong bất cảm xúy

Vị thị thiên thượng hương

Yên mê kim tiễn mộng

Lộ túy mộc cừ trang

Đồng thời bất đồng điệu

Hiểu nguyệt chiếu đê ngang

Bản dịch của tôi:

Vườn tớ khác xa tục

Lá xanh phòng ngọc khơi

Gió thu không dám thổi

Như phải hương trên trời

Kim cúc khói mê mộng

Phù dung sương đắm lơi

Cùng thời không cùng điệu

Cúi ngửa sớm trăng soi

曼陀羅花

我圃殊不俗

翠蕤敷玉房

秋風不敢吹

謂是天上香

煙迷金錢夢

露醉木蕖妝

同時不同調

曉月照低昂

陳與義

Posted Image

Posted Image

Trong bộ sưu tập ảnh hoa của tôi không có hoa sim. Ảnh trên tôi lấy từ trang www.botanic.jp. Vì có bạn hỏi hoa sim có giống hoa mua không nên tôi mượn tạm ảnh trên để minh họa. Theo Đỗ Tất Lợi, cây sim có tên khoa học là Rhodomyrtus tomentosa. Hoa sim có màu hồng tím, mọc đơn độc ở kẽ lá. Như vậy có thể thấy hoa sim không được tím như hoa mua. Nhưng có lẽ vì cây sim mọc cả một đồi nên một dải hoa hồng tím cho cảm giác tím, "tím chiều hoang biền biệt". Người Nhật gọi hoa sim là "thiên nhân hoa" (tenninka), còn người Trung Quốc gọi hoa sim là "đào kim nương".

4 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Dạ thưa thầy mấy người kiểu đó để những học trò chúng con tranh luận với chúng là được rồi. Mấy kiểu người đó chưa đáng để thầy quan tâm vì thầy còn nhiều việc lớn.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tranh cãi gay gắt về kịch bản ‘Khát vọng Thăng Long’

Trước thông tin bộ phim nhựa duy nhất về Lý Công Uẩn làm kỷ niệm Đại lễ 1000 năm có thể bị một người từng tham gia khâu biên kịch kiện, đạo diễn Lưu Trọng Ninh khẳng định, kịch bản do anh và Charlie Nguyễn chắp bút hoàn toàn.

> Phim nhựa về Lý Công Uẩn làm trong bí mật

Posted Image

Ngô Mỹ Uyên vào vai mẹ vua Lê Long Đĩnh.

Nhà văn - nhà báo Phạm Tường Vân, người đã ký hợp đồng viết kịch bản Khát vọng Thăng Long với công ty Kỷ Nguyên Sáng, nhà đầu tư và sản xuất mới đây cho báo chí biết, có nhiều bất đồng giữa chị và công ty Kỷ Nguyên Sáng. Theo đó, Tường Vân khẳng định, chị tiếp cận với dự án phim này từ tháng 9/2009, đưa ra nhiều ý tưởng, trong đó có ý tưởng xây dựng một nhân vật nữ (hoàn toàn hư cấu) là hồng nhan tri kỷ của Lý Công Uẩn. Nhưng rồi nhà sản xuất lại chuyển kịch bản sang cho nhà biên kịch Phan Đăng Di. Hơn 4 tháng sau, Tường Vân nhận được lời mời trở lại với dự án và ký kết hợp đồng với Kỷ Nguyên Sáng ngày 11/2/2010, sáng tác một kịch bản hoàn toàn mới, nhưng cam kết không đứng tên tác giả kịch bản mà chỉ đứng tên trong Hội đồng cố vấn.

Sau đó, phía nhà sản xuất đột ngột thay đổi định hướng bộ phim mà không thông báo với chị, cũng không nhắc gì đến việc giải quyết hợp đồng mà hai bên đã giao kết. Trong bài phỏng vấn, Tường Vân cho biết: “Tôi không khẳng định kịch bản bộ phim Khát vọng Thăng Long sắp chiếu là do tôi viết... Tuy nhiên, nếu họ có sử dụng kịch bản của tôi (cho dù chỉ một phần) thì vấn đề sẽ không đơn giản. Khả năng tệ nhất là khán giả phải thưởng thức một món lẩu nóng hổi, được cóp nhặt từ nhiều nguồn, chế biến vội vã với đặc sản là những lỗ hổng lịch sử - văn hóa. Dẫu sao, tôi vẫn hy vọng họ không mảy may đụng đến những gì tôi đã viết, để vụ việc không phải ra đến tòa án”. Chị cho biết đã ủy quyền cho văn phòng luật sư Phạm và Liên danh giải quyết vấn đề liên quan tới quyền lợi của mình.

* Teaser "Khát vọng Thăng Long" Trước phát biểu này của Tường Vân, đạo diễn Lưu Trọng Ninh cho biết, bản thân anh không muốn xảy ra những tranh cãi. Anh cho biết chưa đọc bài báo về vụ việc này và mới gặp Tường Vân một lần theo yêu cầu của bà Phan Thị Lệ Hằng - Chủ tịch Hội truyền thông Hà Nội, đơn vị bảo trợ thông tin cho bộ phim - kể cho Tường Vân nghe mong muốn cũng như câu chuyện mà anh sẽ làm để nhà biên kịch này nắm được ý đồ của mình. Về việc Tường Vân nói, chị không được đứng tên tác giả kịch bản, Lưu Trọng Ninh cho hay, anh không biết tường tận lý do vụ việc này nhưng chính anh đã chân thành khuyên Tường Vân: “Nếu thực sự em viết kịch bản này, em nên đề tên. Còn nếu em không được coi là người chịu trách nhiệm về kịch bản thì không nên viết”.

Trả lời thắc mắc, ai là tác giả chính thức của kịch bản Khát vọng Thăng Long, Lưu Trọng Ninh khẳng định, đó là tâm huyết của anh và Charlie Nguyễn. “Kịch bản đầu tiên tôi cầm đến cho chị Phan Thị Lệ Hằng và chị Lê Minh Tâm - đại diện nhà sản xuất và đầu tư - là kịch bản của Trung Quốc và người Trung Quốc muốn bỏ tiền làm Chiếu dời đô, nhưng chị Hằng kiên quyết không đồng ý vì đây là bộ phim lịch sử Việt Nam. Lúc đó, bản thân tôi cũng có kịch bản riêng từ trước. Ai cũng biết đây không phải một bộ phim mới mẻ mà xuất phát từ dự án với TP Hà Nội làm phim về Thăng Long, lúc đó tôi được mời làm đạo diễn và kịch bản cũng là của tôi” - Lưu Trọng Ninh cho biết.

Về việc kịch bản của mình phải sửa chữa, đạo diễn lý giải do đó là câu chuyện tình tay ba, không phù hợp với chủ đề tôn vinh chuyện dời đô của Thái tổ Lý Công Uẩn. “Khi tôi đưa kịch bản ra, chị Hằng và chị Tâm nói, chúng ta sẽ tìm một kịch bản mới, dựa trên kịch bản của anh. Kịch bản đã qua nhiều nhóm biên tập, kể cả biên kịch người Pháp, người Mỹ. Tường Vân là giai đoạn làm việc ngắn nhất. Cuối cùng là Charlie Nguyễn. Charlie cũng từng viết kịch bản Lý Công Uẩn trước đây ba năm. Hai chúng tôi gặp nhau, đưa ra đề cương từng chi tiết mới nhanh như thế. Tôi nói thật, một người dù là nhà văn, bảo viết kịch bản trong một tháng cũng không xong đâu” - Lưu Trọng Ninh bộc bạch.

Posted Image

Lý Công Uẩn (Quách Ngọc Ngoan) khi còn là tướng dưới trướng vua Lê Long Đĩnh (Vũ Đình Toàn đóng).

Trong khi đó, bà Lê Minh Tâm - đại diện Kỷ Nguyên Sáng - tỏ ra khá bức xúc: “Tôi cho rằng chị Tường Vân đang vi phạm hợp đồng khi tiết lộ thông tin của hợp đồng và kịch bản. Bản quyền phim Khát vọng Thăng Long chúng tôi có đầy đủ. Khi chúng tôi bắt tay vào sửa chữa kịch bản của anh Lưu Trọng Ninh, chúng tôi thuê Tường Vân viết đề cương kịch bản và có hợp đồng ràng buộc không được tiết lộ nội dung hợp đồng cũng như nội dung kịch bản. Đề cương kịch bản đó sửa chữa nhiều lần và không dùng được nhưng chúng tôi đã trả tiền nên nếu muốn, chúng tôi vẫn có toàn quyền sử dụng. Chúng tôi không làm sai điều gì. Những tranh chấp hợp đồng sẽ được tòa án giải quyết. Kịch bản chỉ một vài người quan trọng trong đoàn phim nắm, diễn viên cũng không được cầm, sao dám nói kịch bản của chúng tôi là chắp vá. Tôi cho rằng chị Tường Vân nên cân nhắc trước khi phát ngôn”.

Đạo diễn Lưu Trọng Ninh có vẻ ôn hòa hơn khi đưa ra nhận định: “Tôi nghĩ rằng, chị Tường Vân giận do một phần lỗi của chúng tôi. Chuyện không có gì ghê gớm cả, nếu sắp xếp được thời gian, tôi muốn gặp Tường Vân nói chuyện. Kịch bản thì đơn giản thôi, nó thể hiện ra hết ở phim rồi. Nếu chúng tôi làm việc gì giấu giếm thì mới sợ”.

Bộ phim nhựa duy nhất về Lý Công Uẩn có độ dài 110, phụ đề tiếng Anh sẽ được duyệt vào ngày 21/9. Tối 6/10, bản phim hoàn chỉnh sẽ được chuyển từ Mỹ về Việt Nam. Theo nhà sản xuất, Khát vọng Thăng Long sẽ được chiếu ra mắt vào đúng đại lễ và dự tính ra rạp vào tháng 11.

"Khát vọng Thăng Long"

Thể loại: Phim nhựa lịch sử

Thời gian sản xuất: 12 tháng

Đạo diễn: Lưu Trọng Ninh

Đạo diễn võ thuật: Johnny Trí Nguyễn

Đạo diễn hình ảnh: Dominic

Thiết kế Trang phục: Trần Bảo Chi

Âm nhạc: Hồ Hoài Anh - Thanh Trần

Kỹ xảo: Công ty Kinomotive - Hàn Quốc

Diễn viên: Ngô Mỹ Uyên, Quách Ngọc Ngoan, Vũ Đình Toàn, Leon Quang Lê, Thạch Kim Long...

Ngọc Trần

Ảnh, clip: KNS

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Posted Image

Ngô Mỹ Uyên vào vai mẹ vua Lê Long Đĩnh.

-------------------------------------------------------

Chú thích của Thiên Sứ:

Chị của Dương Quí phi trong Lạc Dương thành.

Posted Image

Lý Công Uẩn (Quách Ngọc Ngoan) khi còn là tướng dưới trướng vua Lê Long Đĩnh (Vũ Đình Toàn đóng).

-------------------------------------------------------

Chú thích của Thiên Sứ:

Cao thủ phái Võ Đang du lịch chợ Việt.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Muốn tìm kiếm y phục Việt cổ, hãy xem các con rối nước và trang phục của 36 giá hầu đồng.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

CHIẾC NÓN LÁ TRONG ĐỜI SỐNG VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

http://cuocsongviet.com.vn

“Trời mưa thì mặc trời mưa

Em không có nón thì chừa em ra” (Ca dao)

Cùng với chiếc áo bà ba, chiếc “nón lá” đã theo chân người phụ nữ miệt quê miệt vườn, cùng với chiếc xuồng ba lá, bồng bềnh theo con nước lớn nước ròng, dầm dãi nắng mưa sớm chiều... Từ lâu chiếc nón lá đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong trang phục của người phụ nữ miền Nam nói riêng và phụ nữ Việt Nam nói chung. Ngày nay chiếc nón là hình ảnh quen thuộc và gần gũi với mọi người, nhưng có ai biết đâu để có cái nón lá đội đầu che mưa che nắng, và để làm duyên nữa, ngày xưa tổ tiên chúng ta đổ bao tâm sức để nghĩ ra và làm nên? Chiếc nón có lá mặt ở xứ mình từ khi nào thì không ai biết? Nhưng từ xưa cái nón đã xuất hiện trong thơ cổ, không biết tác giả là ai. “Dáng tròn vành vạnh vốn không hư, Che chở bao la khắp bốn bờ. Khi để (đội) tưởng nên dù với tán, Khi ra thì nhạt (lạt) nắng cùng mưa. Che đầu bao quản lòng tư túi, Giúp chúa nào quen nghĩa sớm trưa. Vòi vọi ngồi trên ngôi thượng đỉnh, Ai ai lớn nhỏ đội ơn nhờ.” (Thơ cổ) Nón như vậy đã có mặt lâu đời ở nước mình rồi. Nón lá là “Ðồ dùng để đội đầu, hình chóp, tròn, thường lợp bằng lá màu trắng”. Posted Image

Chiếc nón thực sự trở thành một phần trong đời sống vô cùng đẹp và lãng mạn của người Việt Nam. Ảnh: i197.photobucket.com/albums

Từ khi có mặt với chức năng là “cái nón”, thì chiếc nón đã theo chân người nông phu ra đồng, theo người phụ nữ đi sớm về trưa, được bà dùng để quạt đưa cháu vào giấc ngủ, được các bà mẹ vỗ về đội vào đầu và nắm tay dìu con đến trường. Nón cùng với người lính thú xông pha ngoài chiến trận, nón theo tài tử giai nhân đi trẩy hội, nón theo cung phi vào cung cấm, nón theo các nàng công chúa, các bà hoàng đi chùa cầu duyên cầu tự. Nón cũng được các bà mẹ sụt sùi nước mắt đặt nhẹ lên đầu người con gái thương yêu trước khi lên xe hoa về nhà chồng... Chiếc nón còn có mặt trong sách vở thi ca, qua câu hò tiếng hát của người bình dân để ngợi ca tình yêu trai gái... và chiếc nón thực sự trở thành một phần trong đời sống vô cùng đẹp và lãng mạn của người mình. Nhiều loại nón ngày xưa, nay không còn được sử dụng và mai một. Có loại nón được cách tân cho hạp với thời đại và thị hiếu thẩm mỹ của con người, làm cho chiếc nón vượt lên khỏi chức năng “che mưa che nắng”, trở thành đồ trang sức, làm duyên cho người phụ nữ. Có thể nói không sợ quá lời rằng: không có dân tộc nào có chiếc nón, như chiếc “nón lá” gắn bó, gần gũi với con người như dân tộc Việt Nam mình! Nói về tên gọi chiếc nón thì ở nước mình phong phú lắm. Theo thông thường, chiếc nón khi ra đời được đặt tên theo vật liệu làm nên nó. Như nón lá, nón rơm, nón đệm, nón lá buông, nón dứa, nón gõ, nón quai thao, nón móp, nón bài thơ... Chiếc nón cũng được đặt tên theo hình dạng, như nón chóp, nón dấu, nón mê, nón mẻ, nón thúng, nón chân tượng giống chân voi... - “Tiếc vì nón lá quai mây, Nên em chẳng dám trao tay chàng cầm”. - “ Ông già ông đội nón còi, Ông ve con nít ông Trời đánh ông.” (Ca dao) Nón cũng còn được đặt tên theo địa phương sản xuất, như nón Nghệ, nón Huế, nón Tây Ninh, nón Tân Hiệp (Mỹ tho)... “Chợ Dinh bán áo con trai, Triều Sơn bán nón, Mậu Tài bán kim.” (Ca dao Huế) Nón chuyên dùng thì có tên như “nón tu lờ” của các nhà sư, “nón ngựa” dùng cỡi ngựa, “nón cụ”, nón quai thao dành cho cô dâu, “nón dấu” dành cho lính thú đời xưa,... (Cùng có nhiệm vụ để “đội chụp trên đầu”, nhưng không làm bằng lá thì gọi là cái mũ. Như mũ nan, mũ ni, mũ bạc, mũ cánh chuồn, mũ cánh tiên, mũ tai bèo, mũ bê rê, mũ cối,...) “Ngang lưng thì thắt bao vàng, Ðầu đội nón dấu vai mang súng dài.”

Posted Image

Nón quai thao. Ảnh: simplevietnam.com

Chiếc nón xuất hiện ở nước mình đầu tiên ra sao? - Không ai biết. Bùi Xuân Phái chỉ biết lúc cái nón Bắc xuất hiện ở phố cổ Hà Nội cách đây 500 năm. Nón Bắc bấy giờ sản xuất ở làng quê với cái tên là làng Chuông, Thanh Oai tỉnh Hà Tây. Rồi chiếc nón làng Chuông được đem ra bán cho người Hà Hội. Tại phố cổ Hà Nội, nơi phố phường chật hẹp, người đông đúc, có khoảng 100 con đường nhỏ gọi là Phố, với bao ngõ ngách chằng chịt. Nhà mặt tiền dành buôn bán, hẹp thắp và tối phát triển theo chiều sâu, được ngăn làm nơi ăn ở sanh hoạt gia đình, vừa buôn bán. Nón Bắc làng Chuông là mặt hàng đặc trưng ở Bắc lúc bấy giờ, bày bán ở phố Hàng Nón, cùng với phố Hàng Ðiếu, hàng Ðồng, Hàng Ðào, Hàng Buồm, Hàng Giầy, Hàng Chiếu, Hàng Than,... làm nên Hà Nội “băm sáu phố phường”. (Hà Nội 36 phố phường nay đã thay đổi. Hàng Ðiếu không còn bán điếu mà bán chè thập cẩm, Hàng Gà bây giờ không bán gà mà bán phở bò; Hàng Than nay bán quần áo; Hàng Giày nay bán khăn. Và Hàng Nón nay không còn bán nón nữa!) Nón làng Chuông “mang tánh lịch sử”, ngày nay được người Hà Nội làm sống lại qua/trong các lễ hội, được biết/được nhắc tới như là chiếc nón tiêu biểu cho Hà Hội.

Posted Image

Chợ nón lá làng Chuông. Ảnh: baodatviet.vn

Tới chiếc cái nón Nghệ, rộng trên 80cm, sâu 10cm, đan bằng những sợi tre chuốt nhỏ, to và nặng, có đôi quai thao dài 1m50 làm bằng 8 sợi tơ, hai đầu có một quả găng... Quai thao xưa nổi tiếng thời thế kỷ 17, được làm ra ở làng Triều Khúc, Thanh Trì, còn gọi là làng Ðơ Thao. Làng Ðơ Thao là làng nghề làm quai nón nổi tiếng ngày xưa, có thờ tượng tổ sư của nghề dệt quai thao, tới nay còn được dân làng tự hào. Cái nón từ lúc xuất hiện, đi liền với đôi quai được làm bằng dây, mây, vải,... vừa để giữ chiếc nón, vừa để điểm tô cho người đội thêm duyên, thêm dáng, thêm sang trọng và quí phái theo cái nhìn thẩm mỹ bấy giờ. -“Nón em nón bạc quai thao, Thì em mới dám trao chàng cầm tay.” -“Tròng trành như nón không quai, Như thuyền không lái như ai không chồng!” (Ca dao) Theo bước chân Nam tiến, chiếc nón vào xứ đàng Trong với tên gọi như nón Huế, nón bài thơ, nón Bình Ðịnh... Chiếc nón giờ đây có dáng vẻ nhẹ nhàng, mang theo trong nó cái “duyên ngầm” của người con gái Huế đội “nón nghiêng che” lãng mạn.

Posted Image

Nón Huế trong tác phẩm Nghệ thuật sắp đặt tại Lễ hội Festival

nghề truyền thống 2005. Ảnh: vietbao.vn

Chiếc nón Triều Sơn huyện Hương Trà, nón Gò Găng, nón bài thơ... lồng bên trong bài thơ, hình ảnh cầu Tràng Tiền, chùa Linh Mụ, núi Ngự, sông Hương: “Con sông dùng dằng, con sông không chảy, Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu.” (Câu hò Huế) Nón Huế nhìn soi qua ánh nắng mặt trời, trông như là bức tranh thủy mạc, mãi mãi là là cái gì đặc trưng và “rặt Huế” không sao tả hết được! - “Chợ Dinh bán áo con trai, Triều Sơn bán nón, Mậu Tài bán kim.” - “Nón này là nón u mê, Nón này là nón đi về che chung.” (Ca dao) Chiếc nón càng về sau này càng xa rời “nhiệm vụ che nắng che mưa”, trở thành cái để làm duyên của thiếu nữ và cũng được dùng để bày tỏ tình trai gái, tình nghĩa vợ chồng hay ẩn dụ điều gì đó... -“Nón mới gột nước trời mưa, Anh ham vợ đẹp thì thưa việc làm.” -“Trời mưa thì mặc trời mưa, Chồng tôi đi bừa đã có nón che.” (Ca dao) Vào đến miền Nam, chiếc nón được gọi nôm na là “nón lá buông”. Nón làm bằng lá buông, với tre, chỉ sợi... vật liệu có sẵn và nhiều ở Trảng Bàng Tây Ninh, Tân Hiệp Mỹ Tho... Chiếc nón lá miền Nam kiểu dáng nhẹ nhàng, rẻ tiền, rất ư là đời thường nên thực dụng, nhưng vẫn giữ cái dáng vẻ “duyên” của người con gái miệt vườn, sông nước!

Nón Tây Ninh, Tân Hiệp từ lâu luôn tìm cách đáp ứng nhu cầu và thị hiếu khách hàng nên sản xuất làm 3 hạng nón: hạng nón thường, nón dày, nón lỡ.

Posted Image

Nón lá Tây Ninh. Ảnh: raovat.com

Việc tổ chức làm nón ở Tây Ninh qui mô, khoa học, sản xuất chia ra ba công đoạn để giảm giá thành, như: làm khung tre, lựa lá và chằm nón. Khung nón làm bằng tre, loại tre cật Tây Ninh, khung có hình chóp, kích cỡ bằng chiếc nón. Khung và bộ vành với 16 chiếc vòng lớn nhỏ được chuốt nhỏ nhắn, tròn và khéo, cân xứng, nghệ thuật và nhẹ nhàng. Lá buông có nhiều ở địa phương, là nguyên liệu chánh làm nên cái nón. Lá phải chọn lá già, lá mật cật, đem luộc chín, vuốt thẳng, phơi/sấy và ủ khô sao cho lá còn giữ màu trắng tự nhiên vẫn xanh-trắng mịn màng, không bị ngả màu đen hay vàng. Lá phải cán hay vuốt thẳng, sao cho sau khi lợp, sau khi chằm không bị co bị dúm lại. Giai đoạn cuối cùng là chằm nón bằng những sợi chỉ trong suốt dọc theo nan tre. Chính giữa hai lớp lá được đặt vào các hoa văn, hoặc câu thơ cắt bằng giấy, có khi là hình cầu Tràng Tiền, núi Ngự, Sông Hương... Người thợ nón Tây Ninh mỗi ngày làm ra từ 2 đến 4 cái nón tùy theo hàng. Những chiếc nón ra lò ở đây trông “rất Huế” nhưng không phải Huế, do bàn tay những nghệ nhân Tây Ninh khéo léo, bằng những đường kim mũi chỉ sắc sảo. Ðó là những người thợ nón bước vào nghề từ lúc còn bé 5, 6 tuổi đến già, yêu cái nghề làm nón và cả đời làm nón Huế dầu chưa có một lần bước chân đến Huế! Nên có hai câu hát “Nón rất Huế nhưng đời không phải Huế/Mà chỉ để làm đẹp nón ai nghiêng...” Chiếc nón từ khi có mặt, đã phục vụ cho người thường, cho quan chức, cho cả người chết. Nón còn được làm để dâng cho thần linh trong đình chùa đền miếu miễu... phục vụ cho tín ngưỡng con người. Kể sao xiết những chiếc nón của người Việt mình xưa nay. Bởi: Còn những chiếc nón xuất hiện nơi thị thành đèn hoa đô hội: ngoài chiếc nón của thầy thông thầy ký mắc tiền đội hờ cho có, còn chiếc nón của bác xích lô, người phu quét đường, người “cu li” bốc vác... dùng để đội, để chắn gió mồi thuốc, để che mặt ngủ trưa hay chờ khách! Còn những chiếc nón ra đồng, chiếc nón dùng để múc nước rửa mặt, múc nước uống tạm bên sông, chiếc nón của bà mẹ quê tạm dùng đựng mớ rau tập tàng mới hái được đâu đó để dành nấu canh cho chồng cho con ăn! Ðó là những chiếc nón của những mảnh đời tăm tối nhưng đáng trân trọng. Sao không?

Posted Image

Ra đường nghiêng nón cười cười

Như hoa mới nở, như người trong tranh

Ảnh: i256.photobucket.com

Dầu chiếc nón lá làm ra không dành riêng cho phái nữ, nhưng nói đến cái nón lá xưa nay người mình có thói quen liên tưởng đến người phụ nữ “nón nghiêng che” đầy ấn tượng! “Ra đường nghiêng nón cười cười, Như hoa mới nở, như người trong tranh” (Ca dao) Chiếc nón Việt Nam vì vậy là cái gì kỳ diệu và thật sự trở thành một phần trong đời sống văn hóa của chúng ta.

Cuộc Sống Việt _

Theo my.opera.com
1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

TRẺ EM VN Yêu Quan Vân Trường hơn Quang Trung

Sáng ngày 16-9-2010, tại hội trường Hội Nhà văn Việt Nam, Nhà xuất bản Phụ nữ và Nhà sách Vạn Niên đã tổ chức lễ ra mắt hai bộ tiểu thuyết đồ sộ của nhà văn Hoàng Quốc Hải: Tám triều vua Lý gồm 4 tập với 3514 trang và Bão táp triều Trần gồm 2912 trang. Có lẽ đây là một trong rất ít những công trình chào mừng 1000 năm Thăng Long có ý nghĩa nhất.

Đại lễ 1000 năm Thăng Long không phải để cho chúng ta tiêu tiền vào những hoạt động chỉ để vui chơi trong vài ba ngày. Đại lễ 1000 năm Thăng Long là cơ hội để chúng ta thêm một lần nhìn lại lịch sử kiêu hãnh và nền văn hóa sâu thẳm của dân tộc ta.

Tôi thực sự kính trọng tình yêu tổ quốc, trách nhiệm với lịch sử và văn hóa dân tộc cùng với ý chí lao động sáng tạo phi thường của nhà văn Hoàng Quốc Hải. Ông đã yêu tổ quốc bằng hành động cụ thể chứ không phải những lời sáo rỗng quen thuộc.

Khi được hỏi ông nghĩ gì về bộ phim: Lý Công Uẩn - đường tới thành Thăng Long sắp công chiếu, nhà văn đã bật khóc và nói: Con cháu chúng ta hãy noi theo tiền nhân, có lúc ta thua nhưng tổ tiên ta không bao giờ chịu nhục. Tôi rất buồn vì bộ phim Lý Công Uẩn - đường tới thành Thăng Long, người ta đã làm nhục nhà Lý. Tôi xin tình nguyện làm cố vấn đạo cụ cho nếu ai đó làm phim về triều Lý, tại đất nước ta có tất cả không cần mượn nước người làm sai lạc hết...Nếu không vì những bức xúc hiện nay chắc tôi không thể hoàn thành bộ sách này.

Với những gì được biết về bộ phim truyền hình nhiều tập nói trên, chúng ta kinh hãi nhận ra rằng: tình yêu tổ quốc đang bị đánh mất. Nếu những người còn ít hiểu biết về thời đại Lý Công Uẩn thì sau khi xem bộ phim nói trên họ đã hiểu sai về dân tộc mình.

Posted Image

Một cảnh quay đại cảnh trong phim Lý Công Uẩn- Đường tới thành Thăng Long tại trường quay Hoành Điếm.

Cách đây dăm năm, tôi đã làm một khảo sát nhỏ với một số học sinh tiểu học và trung học với câu hỏi: Cháu thích Quan Vân Trường hay Quang Trung? 90% số học sinh được hỏi trả lời: thích Quan Vân Trường. Quan Vân Trường là người trung nghĩa thật đáng thờ cho dù ông là người mang quốc tịch nào. Bởi ông là một giá trị chung cho đạo làm người. Nhưng thật cay đắng khi những công dân tương lai của một đất nước không hề mang cảm xúc gì về Quang Trung, một vị Vua tài đức, một Anh hùng vĩ đại của một dân tộc vĩ đại.

Lỗi này thuộc về những người làm sử, dạy sử, thuộc về các nhà văn và cao hơn thuộc về những người quản lý và điều hành giáo dục nước nhà. Có những người hỏi tôi, với hai bộ tiểu thuyết như vậy làm thế nào mà những học sinh có thể đọc được? Tôi trả lời: hai bộ tiểu thuyết lịch sử của nhà văn Hoàng Quốc Hải không phải viết cho lứa tuổi học trò. Nhưng những người và những cơ quan có trách nhiệm giáo dục thế hệ trẻ có thể tìm ra 1000 cách để truyền bá lịch sử và những nhân vật lịch sử vào tâm hồn những đứa trẻ từ chính hai bộ tiểu thuyết ấy. Họ có thể trích đoạn để làm truyện tranh, làm phim hoạt hình, làm phim truyền hình nhiều tập vv...

Khi người ta có tình yêu tổ quốc thực sự và có trách nhiệm với lịch sử dân tộc, người ta có thể tìm ra nhiều cách để yêu dân tộc của mình. Bộ phim Lý Công Uẩn - Đường tới thành Thăng Long là một nỗi ê chề, cay đắng và xấu hổ đối với những người Việt Nam yêu nước. Chính vì thế mà hai bộ tiểu thuyết của nhà văn Hoàng Quốc Hải làm chúng ta thêm kính trọng ông và tự hào về những người con như ông của mảnh đất này.

Trực Ngôn.

nguồn tuanvietnamnet.vn

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vừa rồi, con gái đầu của tôi có cho tôi xem đoạn trailer của bộ phim này, tôi thấy nó không đậm chất Việt của chúng ta nữa, thiết nghĩ tụi trẻ bây giờ khi xem nó sẽ nghĩ gì????

Share this post


Link to post
Share on other sites

Cháu nghĩ rằng bộ phim này sẽ không được công chiếu vào dịp đại lễ

Share this post


Link to post
Share on other sites

"Bộ phim đã bị những người cực đoan xuyên tạc, vu khống"

21/09/2010 14:11 (GMT +7)

Bài viết tiếp theo loạt bài phản hồi của độc giả về Tính thuần Việt của bộ phim Lý Công Uẩn- Đường Tới Thành Thăng Long. TTOL xin trích đăng gửi tới độc giả.

Ban đầu thú thật tôi cũng không thích phim này lắm, không thích vì 2 lẽ: Đa số cảnh đều quay ở Trung Quốc, và tổng đạo diễn là người Trung Quốc.

Tuy không thích nhưng vẫn ủng hộ, vì 2 lẽ: Đại lễ 1000 năm Thăng Long có thêm 1 lễ vật và thêm sinh động, và hiện nay VN thiếu thốn nghiêm trọng những phim cổ trang, lịch sử để con cháu hiểu thêm về lịch sử nước nhà, đặc biệt là với tình hình phim cổ trang, lịch sử Trung Quốc chiếm lĩnh các đài truyền hình Việt Nam như hiện nay, và hầu như ai cũng khát phim sử Việt, ai cũng mong chờ dòng phim cổ trang VN sẽ đứng lên đẩy lùi các phim ngoại, phim Trung Quốc.

Một thời gian dài cũng không ai nói gì nhiều về phim này. Gần đây nhân sự kiện phim gặp chút khó khăn về khâu kiểm duyệt (như bất kỳ các phim nào khác) thì một số phóng viên thiếu trách nhiệm đã lợi dụng, khai thác sự kiện này để "đập" phim này không thương tiếc.

Từ đó, các báo lấy tin của nhau rồi đăng lên, rồi một bộ phận trong cộng đồng Internet hùa với nhau chửi mắng, mạt sát, dùng những ngôn từ đại ngôn nhất, đao to búa lớn nhất để nói về phim. Và đáng khinh nhất là họ chụp mũ bất kỳ ai ủng hộ phim và phản đối thái độ cực đoan của họ bằng đủ loại mũ mà họ có thể nghĩ ra. Ban đầu, sẵn tâm lý không thích Trung Quốc cũng như không hứng thú nhiều với phim này nên tôi cũng chỉ giữ thái độ trung lập trước những trò a dua cực đoan của họ, nhưng dần dà họ càng trở nên điên cuồng và thậm chí chỉ còn hô khẩu hiệu, la lên chửi đổng chứ không còn tranh luận gì nữa cả, nhiều người viết những bài phân tích chí tình nhưng họ không buồn đọc.

Sự cực đoan càng lúc càng nặng, dần hình thành 2 phe chửi nhau kiểu chợ búa. Những ngôn từ đao to búa lớn, vu khống chụp mũ bộ phim từ một số người phỏng vấn cũng tăng vọt. Rất dễ nhìn thấy những tâm lý chống phim cực đoan này là sự kết hợp của 2 yếu tố sau đây:

1. Bài Hoa cực đoan, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, họ không quan tâm phim có đúng với lịch sử hay không, họ chỉ cần "khác Tàu", tránh xa Tàu.

2. Không có kiến thức cơ bản về lịch sử, đặc biệt là giai đoạn Tiền Lê – Lý, bối cảnh lịch sử trong phim. Sau vài ngày đọc bài, đọc tranh luận trong các diễn đàn, tôi mới nhận ra 2 điều:

- Những kẻ chống phá phim đều chỉ có một khẩu hiệu nhai đi nhai lại là: "Giống Tàu quá". Nhưng khổ nỗi họ toàn nói chung chung, nói khơi khơi mà không cần dẫn chứng, chứng minh bằng học thuật và nhất là không chỉ ra được giống Tàu củ thể ở điểm nào, và sự tương đồng ấy có sai với lịch sử hay không. Họ hoàn toàn không quan tâm đến việc có đúng với lịch sử hay không, họ chỉ cần biết có giống Tàu hay không. Đó là nhận thức không chính xác của họ

Posted Image

- Trong các bài viết chỉ trích, đả kích bộ phim đều có phỏng vấn rất nhiều người, kể các các trí thức tên tuổi, nhưng lạ một điều là không thấy phỏng vấn một sử gia, hay ít nhất một người nào liên quan đến sử học. Đến giờ vẫn không thấy nhà sử học uy tín nào lên án phim này xuyên tạc lịch sử.

Từ những điều vô lý tai nghe mắt thấy đó, tôi mới cất công tìm hiểu, đọc từng diễn đàn, đọc Wiki, đọc tài liệu, google không ngừng nghỉ, đọc blogs, đủ cả ... Và nói chung cũng cảm ơn bộ phim, cảm ơn những người ủng hộ phim và chịu khó tranh luận, và cũng "cảm ơn" cả những người cực đoan chống đối phim, nhờ vụ này và tất cả các yếu tố nói trên mà kiến thức lịch sử, nhất là về trang phục thời Tiền Lê - Lý của tôi không còn "dốt nát" như xưa nữa. Và sau khi tìm hiểu kỹ lưỡng thì tôi nhận ra rằng bộ phim đã bị những người cực đoan xuyên tạc, vu khống, và chụp mũ vô căn cứ một cách hoang đường nhất.

Tại sao gọi đó là "xuyên tạc", "vu khống", và "chụp mũ"? Tại vì phim đúng là còn một số sai sót, thiếu sót, nhưng nhìn chung một cách toàn diện thì không đáng để phải hứng chịu những ngôn từ báng bổ, đao to búa lớn, đầy ác ý như "đây là phim Trung Quốc nói tiếng Việt", "hoàn toàn là phim TQ", "hồn Trương Ba da hàng thịt", "Vinashin của điện ảnh", "nhục nhã" (từ "nhục" này được họ lặp đi lặp lại nhiều lần), "lai tạp",.. mà một số đã kết tội.

Trước đây khi nghe những lời định tội và đấu tố đầy cay độc và quá khích này thì tôi chỉ hơi phản cảm một chút, nhưng sau khi tìm hiểu cặn kẽ thì tôi có thể kết luận đó là những lời lên án rất độc địa, cuồng tín, bệnh hoạn, và ác mồm độc miệng, hoàn toàn là những xuyên tạc, vu khống, chụp mũ đúng nghĩa.

Đó là những lý do tôi viết bài này. Còn việc sau này phim có được chiếu hay không thì tôi không quan tâm lắm, tôi đang chờ đón những phim khác hơn, tôi hứng thú với những dự án khác hơn. Nhưng nếu phim được chiếu, và nếu họ xem phim xong thì tôi tin chắc họ sẽ hối hận và phải nuốt lại những ngôn từ cuồng tín của họ hôm nay.

Posted Image

Đơn giản là tôi cảm thấy phải cần nói gì đó, trình bày ra những gì mình biết được, học hỏi thêm được trong mấy ngày qua, nhằm lấy lại công đạo, công bằng cho những con người tâm huyết với Đại Lễ dân tộc và tinh thần yêu nước đáng tôn trọng của họ, cũng như công sức và vật chất mà họ đã bỏ ra. Và để hoan nghênh tinh thần cố gắng hết sức cho trang phục phim được đúng với lịch sử nhất có thể, của nữ tiến sĩ sử học Đoàn Thị Tình, học trò của Gs. Lê Văn Lan, người mà tôi rất kính trọng và nể phục.

Độc giả

vuthan2006@gmail.com

--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Dưới bài này là những comment như sau:

mysoul375 - mysoul375@yahoo.com

Phim này mà lồng tiếng việt vào thì như phim Trung Quốc. meo -

minhsoi2005@yahoo.com

Vấn đề là: Nếu quân ta (quân thời Lý) và quân địch (quân Tống) mà vô tình "gặp mặt" nhau trong 1 liên hoan phim nào đó thì có nhận họ hàng hay không? Tương tự cho vua, quan, hậu, cung tần...VHQ -

qvuhoang@yahoo.com

Bài viết sẽ hay hơn nếu bạn chỉ ra phim này thuần Việt ở điểm nào, hơn là cách bạn chỉ trích những người phản đối.Lê Giang San -

Devang127@yahoo.com

Đề nghị cần xem lại não trạng của tác giả viết bài này?hoanglan -

vomtroi123@gmail.com

- Tôi nghĩ tác giả bài viết này, đang có một tâm trạng cay cú. Khi trình bày quan điểm khác số đông nên bị ném đá. - Tác giả bài viết không hiểu rằng vấn đề không phải chỉ là trang phục mà cả bối cảnh của phim quá quen thuộc ở phim Trung Quốc. Như chùa (đặc chùa phim Thiếu Lâm Tự), cung đình, đền đài cũng vậy... - Nếu nói vơ đũa cả nắm những người phản đối là cực đoan thì xin thưa có đến 70% dân số này cực đoan - Phim chiếu cho nhân dân quần chúng xem chứ không phải chiếu cho các nhà sử học xem. - Chắc nhà sử học đã đúng (chưa muốn nói đến là tiến sỹ giấy).=> nên nhớ phim chiếu phục vụ đông đảo quần chúng chứ không phải phục vụ bộ phận một số đối tượng xã hội. - Nếu nhìn ngược lại có thể nói những ai ủng hộ phim này là cực đoan.phong -

phongnguyen1965@yahoo.com

Tác giả bài này không theo dõi dư luận, bài viết về phim này! không hiểu tác hại của bộ phim TQ nói tiếng Việt , lời lẽ không khách quan ,quy chụp. Một âm mưu mơ hồ nào đó chống lại bộ phim? hài thiệt là hài .le van tan - lan123@hotmail.com

Ông là con mèo sao lại sủa tiếng chó?

Huỳnh Phước Danh -

hphuocdanh@gmail.com

Chào anh Vu Than, Tôi cũng giống anh mong muốn nước nhà có bộ phim lịch sử nhất là trong đại lễ kỷ niệm 1000 Thăng Long. Nên rất hào hứng chờ đón bộ phim "Lý Công Uẩn-Đường đến Thăng Long". Tôi không phải là nhà nghiên cứu lịch sử nhưng thông qua những bài viết chế bây về bộ phim có tính chất "hồn Trương Ba da hàng thịt" . Tôi rất mong những nghiên cứu lịch sử như anh có bài phải với đầy đủ chứng cứ lịch sử để bộ phim được nhìn nhận một cách khách quan. Thật thất vọng, đọc toàn bộ bài phát biểu của anh tôi không thấy bất cứ một cứ lịch sử nào đối với những lời mà anh cho rằng là vu khống, xuyên tạc, đao to búa lớn. Nếu anh không có bằng chứng lịch sử để chứng minh đều anh nói thì anh thuộc tuýp người ủng hộ một cách mù quáng. Mong anh tiếp tục viết bài đưa ra đầy đủ bằng chứng để thiên hạ mở to tầm mắt.

Kang - kang@gmail.com

Lại một sự bênh vực cực kỳ trơ trẽn, bạn nói là người ta dùng nhưng ngôn từ cực đoan, vu khống nhưng trong khi tôi thấy bạn mới là người mạt sát, vu khống người khác trắng trợn. Về cái sự giống TQ của bộ phim này tôi không nói vì đã quá nhiều báo chí đưa ra phân tích. Tôi chỉ cảm thấy buồn cười vì không rõ bạn có họ hàng thân quen gì với đạo diễn hoặc cũng có thể bạn là ông này bà kia dây máu ăn phần vào trong bộ phim này, nên mới nhảy choi choi như vậy. Tôi nói cho bạn nghe, đã không biết gì về lịch sử thì phải đi mà đọc, phải tìm hiểu, phải cầu thị, chứ đừng có cãi già cãi cố. Đọc bài viết của bạn tôi chẳng thấy bất kỳ một dẫn chứng nào chứng minh cái bạn nói chứng minh luận điểm của những người bạn lên án là sai cả.

Le nam - lenam214@gmail.com

Đề nghị bạn Vuthan đưa ra những dẫn chứng để chứng tỏ đây là phim Việt vì tôi có xem thì chẳng khác gì phim tàu cả. Còn bạn nói là chưa có nhà sử học nào lên tiếng thì lên Google mà tìm. Giáo sư sử học Lê văn Lan đã từng trả lời phỏng vấn về bộ phim này, tôi xin trích dẫn một câu : “Cái mũ gọi là mũ Bình Thiên là của người Tàu. Chúng ta có những tài liệu cụ thể vua quan ở ta thời ấy thì đội mũ áo kiểu gì? Không phải là cái kiểu mà bộ phim diễn tả. Cung điện cũng không, vì đây là cung điện của Trung Quốc mà Trung Quốc từ thời trước Tần Hán thì mới có kiểu cung điện ấy. Thế còn cung điện Việt Nam như chúng tôi theo dõi, đặc biệt là ở Hoa Lư và ở Thăng Long thế kỷ 10 thế kỷ 11 thì không hề có thế.”

Cá nhân tôi, cảm giác dễ chịu hơn khi đọc comment trên đây!

Share this post


Link to post
Share on other sites

Lý Công Uẩn, đường tới thành Thăng Long: Tìm đâu hồn Việt?

Tác giả: Nguyễn Đắc Xuân

Tuanvietnam.vn Bài đã được xuất bản: 26/09/2010 06:00 GMT+7

"Bộ phim Trung Quốc nói tiếng Việt" Lý Công Uẩn, đường tới thành Thăng Long nếu được Việt Nam quyết định chiếu trong dịp đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long là một sự xác nhận trước thế giới rằng 1000 năm trước Việt Nam từng là chư hầu của Trung Quốc. - Nhà văn nghiên cứu lịch sử Nguyễn Đắc Xuân viết.

LTS: Nhà văn - nhà nghiên cứu lịch sử Nguyễn Đắc Xuân gửi tới Tuần Việt Nam bài viết chia sẻ những suy ngẫm, trăn trở của ông khi xem giới thiệu phim Lý Công Uẩn, đường tới thành Thăng Long.

Để rộng đường dư luận, Tuần Việt Nam trân trọng giới thiệu góc nhìn của ông, để bạn đọc cùng thảo luận.

Là một nhà văn nghiên cứu lịch sử ở Huế và không chuyên về chuyện làm điện ảnh, nhưng do tôi có chút kinh nghiệm nghiên cứu cổ trang để "tái hiện lễ đăng quang của vua Quang Trung"- một lễ hội quan trọng trong Chương trình Festival Huế 2008 và là tác giả bài báo "Làm phim Thái tổ Lý Công Uẩn - kiến nghị một giải pháp" đăng trên báo Hồn Việt (số 11, tháng 5-2008) cách đây mấy năm, một vài báo hình và báo điện tử chuyển cho tôi xem một số hình ảnh, đoạn phim ngắn giới thiệu bộ phim cổ trang truyền hình 19 tập Lý Công Uẩn, đường tới thành Thăng Long sẽ phát sóng trong dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long- Hà Nội. Họ đặt cho tôi một số câu hỏi về sự cảm nhận về bộ phim đó.

Chưa được xem bộ phim dài 19 tập này, khắc họa giai đoạn từ thời tiền Lê đến khi Lý Công Uẩn lên ngôi, quyết định dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La, sau đổi tên là Thăng Long, đặt nền móng vững chắc cho thời kỳ ổn định và phát triển dài lâu của đất nước", nên tôi chưa có ý kiến gì về nội dung kịch bản, về tư tưởng thời Lý xuyên suốt bộ phim, về thông điệp của triều Lý để lại trong lịch sử VN. Tôi chỉ xin bình luận về những thông tin, hình ảnh đã thu thập được từ những đoạn phim quảng cáo, giới thiệu phim mới.

Không chuyên về chuyện làm điện ảnh, nhất là phim lịch sử, nên bài viết có điều gì bất cập, kính mong các nhà chuyên môn, các nhà sử học, các thức giả bổ cứu hoặc cho tôi một cơ hội được học thêm.

Tác giả kịch bản, đạo diễn, diễn viên- có hiểu lịch sử VN?

Người viết kịch bản:

Tác giả kịch bản được công bố là ông Trịnh Văn Sơn - Tổng Giám đốc Công ty CP Truyền thông Trường Thành (có người gọi ông là Sơn Trường Thành - cũng là Giám đốc sản xuất bộ phim). Trịnh Văn Sơn là một người chưa bao giờ được giới điện ảnh VN biết tên là một nhà viết kịch bản phim nói chung chứ chưa đề cập đến người viết kịch bản phim lịch sử nói riêng.

Ông đột nhiên "nổi lên" như một bậc thầy viết kịch bản lớn. Không rõ kịch bản phim lịch sử đầu tay của ông Sơn Trường Thành có được một bậc thầy viết kịch bản phim lịch sử VN nào góp ý trước chưa? Chỉ biết ông đem kịch bản của ông qua nhờ nhà viết kịch bản nổi tiếng của Trung Quốc là Kha Chương Hòa "chuốt lại".

Ông Kha Chương Hòa là một nhà viết kịch bản phim lịch sử cổ trang Trung Quốc giỏi, nhưng ông chưa hề biết tâm tính người Việt Nam, chưa hề học lịch sử Việt Nam, (nếu có học thì cũng là sự méo mó, xuyên tạc từ sách sử Trung Quốc về Việt Nam). Vì thế tôi nghi ngờ cái sự chuốt đúng đắn của ông Chương Hòa về lịch sử VN quá!

Ông Sơn Trường Thành lại nổi lên như một nhà "đại tư bản" trong giới kinh doanh văn hóa VN. Ông đã bỏ ra đến trên 100 tỷ đồng (nghe nói 7 triệu USD) để thuê người Tàu dựng cuốn phim đầu tay của mình. Ông đóng góp một công trình nghệ thuật kỷ niệm 1000 năm Thăng Long hay ông lợi dụng 1000 năm Thăng Long để kinh doanh văn hóa nghệ thuật? Sự thực như thế nào còn phải chờ thực tế trả lời.

Posted Image

Đạo diễn Cận Đức Mậu (trái) và ông Trịnh Văn Sơn - Tổng giám đốc Công ty cổ phần Truyền thông Trường Thành

Đạo diễn:

Bộ phim Lý Công Uẩn, đường đến thành Thăng Long có 3 đạo diễn:

Đạo diễn Cận Đức Mậu, là một người làm phim cổ trang của Trung Quốc nổi tiếng, tôi rất kinh phục. Nghe nói trước khi bắt tay làm phim, Cận Đức Mậu đã có lần lần sang VN, đến thắp hương ở đền vua Đinh, vua Lê, tượng đài Lý Công Uẩn, tuyển chọn diễn viên và "cảm nhận văn hóa Việt". Nhưng tôi không tin "ông ấy hiểu rất rõ về VN", nhất là lịch sử VN như một người có trách nhiệm trong đoàn làm phim đã khẳng định.

Cận Đức Mậu sang VN vái chỗ này, thắp hương nơi kia có khác gì hàng triệu khách du lịch đến VN? Vài cái chắp tay vái lạy, đôi lần thắp vài cây hương không thể chứng tỏ được sự hiểu biết lịch sử và sự kính trọng tổ tiên chúng ta của vị đạo diễn.

Nếu hiểu và tôn trọng lịch sử VN thì không bao giờ ông tùy tiện tạo sự hoành tráng cho bộ phim bằng những cảnh kỵ mã phi trên thảo nguyên vô cùng xa lạ với dân tộc VN như ảnh dưới đây:

Posted Image

Ngựa phi đường xa

Đây là đội kỵ binh của Nguyên Mông. Trong lịch sử từ xưa đến nay VN chưa bao giờ có một đội quân mặc giáp trụ cưỡi ngựa như thế. Đường VN hẹp, nhiều sông suối, cầu nhỏ, không có những cánh đồng cỏ lớn lấy đường đâu cho kỵ binh đi, lấy cỏ đâu cho một đoàn ngựa chiến như thế ăn?

Chỉ có những đạo diễn không biết gì về hoàn cảnh VN mới tự tiện ghép những những màn kỵ binh có sẵn trong phim cổ trang của Trung Quốc vào cho phim VN như thế thôi.

Một thông tin trên mạng tôi không nhớ địa chỉ cho biết bộ phim còn có một đạo diễn thứ hai nữa cũng là người Trung Quốc. Vị này là người phụ tá đắc lực cho đạo diễn chính Cận Đức Mậu, được đạo diễn chính giao thực hiện phần quan trọng của bộ phim.

Đạo diễn Tạ Huy Cường là người VN, đã đạo diễn một số phim ngắn ở VN (đạo diễn game show Chắp cánh thương hiệu) chưa có mấy tên tuổi trong giới điện ảnh VN. Chính anh đã tự nhận là "lần đầu tiên làm phim cổ trang lớn" ở Trung Quốc. Anh không biết tiếng Trung nên khi "không có phiên dịch... thì chúng tôi nói chuyện với ê kíp của Trung Quốc bằng hình thể hoặc nói xong nhìn nhau cười".

Qua đó ta có thể biết đạo diễn Tạ Huy Cường không có vai trò gì nhiều khi quay các trường đoạn hoành tráng do hàng trăm diễn viên Trung Quốc đóng.

Đạo diễn Tạ Huy Cường có mặt ở trường quay Hoành Điếm, Triết Giang (Trung Quốc) trong thời gian quay bộ phim, có lẽ chỉ trên tư cách một người đi học việc, đi tu nghiệp làm phim cổ trang và được thực tập đạo diễn một số đoạn dân chúng đơn giản thôi.

Posted Image

Đạo diễn Tạ Huy Cường (VN)

Vai trò của đạo diễn VN giới hạn như vậy khó có thể tạo được cái hồn Việt cho bộ phim.

Diễn viên: Phim có 45 nhân vật chính, phần lớn những nhân vật chính do diễn viên VN đảm nhận. Diễn viên Tiến Lộc (theo báo chí viết anh vừa được biết đến trong vai ca sỹ Quang Bình đồng tính trong phim Nhà có nhiều cửa sổ) đảm nhận vai Lý Công Uẩn. Lần đầu tiên Tiến Lộc đóng phim lịch sử. Á hậu Thụy Vân (chưa hề đóng phim bao giờ) vào vai Lê Thị Thanh Liên - hồng nhan tri kỷ của Lý Công Uẩn. Diễn viên - NSƯT Trung Hiếu của nhà hát kịch Hà Nội được chọn vào vai Đinh Bộ Lĩnh. Nam diễn viên Hoàng Hải vào vai Lê Hoàn, Phan Hòa trong vai Thái hậu Dương Vân Nga.v.v.

Sự hiểu biết về lịch sử VN đặc biệt là triều Lý của những diễn viên chính này rất mỏng. Do đó mọi diễn xuất của họ đều do đạo diễn Trung Quốc "bảo chi làm nấy".

Ngoài những diễn viên chính, còn toàn bộ diễn viên đóng thế, hàng trăm diễn viên quần chúng đều thuê người Trung Quốc. Với một dàn diễn viên làm theo ý Trung Quốc hoặc diễn viên Trung Quốc chính cống chuyên đóng phim Trung Quốc như thế thì lấy đâu ra cái hồn Việt để kỷ niêm 1000 năm Thăng Long đây?

Một cháu nhỏ ghiền phim Trung Quốc xem tấm ảnh này:

Posted Image

Tần Thủy Hoàng?

Cháu liền kêu lên - "Tần Thủy Hoàng! Tần Thủy Hoàng!" Tôi đính chính: "Vua nhà Lý nước mình đó!". Cháu vui mừng: "Rứa hả ông? Vua Lý nước mình giống Tần Thủy Hoàng. Oai thật!".

Một người bạn ngồi uống cà-phê bên sông Hương thấy tấm ảnh này trên tay tôi liền có lời bình rằng: "Tổ tiên mình làm gì có cái búi tóc dựng đứng trên chóp đầu như vậy? Đến đầu thế kỷ 19, điện Minh Thành trong lăng Gia Long vẫn chưa có sơn, còn để mộc, huống chi thời Lý cách đó 9 thế kỷ mà cung điện nhà Lý đã sơn đỏ chót như rứa? Nội cái màu sơn đỏ chót đó cũng đã toát lên cái "chất Tàu" của bộ phim rồi!"

Người thiết kế, người sản xuất cổ trang và câu chuyện "Trung hoa hóa"

Chuyện thiết kế cổ trang:

Như trên đã viết, cách đây mấy năm, tôi được mời cùng với nhiều nhà nghiên cứu lịch sử ở Huế nghiên cứu thiết kế cổ trang để phục dựng Lễ tế Nam Giao (2004) và lễ đăng quang của vua Quang Trung (2008). Phục trang cổ của Tế Nam Giao chỉ cách chúng ta có hơn 60 năm, trong các thư viện còn nhiều hình ảnh của Pháp để lại nên việc nghiên cứu phục chế cổ trang không khó lắm.

Nhưng việc nghiên cứu phục trang của dân chúng và quân đội của vua Quang Trung trong lễ đăng quang của ông thì vô cùng khó khăn. Không tìm đâu ra hình ảnh trang phục của các dân tộc đã từng phục vụ vua Quang Trung hồi cuối thế kỷ XVIII (chỉ cách nay 2 thế kỷ thôi). May sao chúng tôi đọc được cuốn Voyage to Cochinchina in the Years 1792 anhd 1793 (Hành trình đến xứ Đàng Trong những năm 1792 và 1793) của John Barrow.

Trong sách có nhiều hình ảnh các tầng lớp dân chúng, dụng cụ trong đời sống, thuyền bè, sông núi năm 1792. Người phương Tây vẽ, nên người Việt ra Tây cả. Chúng tôi nhờ các họa sĩ có tay nghề ở Đại học Mỹ thuật Huế vẽ lại các hình vẽ đó bằng nét vẽ VN. Các bạn dù tay nghề cao nhưng phải vẽ đi vẽ lại nhiều lần mới được duyệt để dùng. Đến khi đi may mẫu, thợ may là con cháu của thợ may Cung đình Nguyễn ngày xưa nhưng cũng phải may đi may lại nhiều lần mới đạt yêu cầu.

Nhờ có phục trang cổ như thế mà cuộc lễ Đăng quang của vua Quang Trung ở núi Bân tháng 12-2008 đã được báo chí và giới nghiên cứu hoan nghênh.

Với một chút kinh nghiệm đó, trong bài "Làm phim Lý Thái Tổ Lý Công Uẩn - kiến nghị một giải pháp " (Hồn Việt, số 11, 5-2008, tr. 12-13) tôi nghi ngờ khả năng phục chế được "Dân phục, quan phục, vua phục, cảnh trí cách đây 1000 ngàn năm" của VN, và đề nghị hoãn lại việc làm phim Lý Thái Tổ đã đặt hàng cho Hãng phim truyện VN sản xuất. Bài báo của tôi là một trong những ý kiến tham khảo của ông Phạm Quang Long - GĐ Sở VHTT Hà Nội trong việc rút lui quyết định làm phim Lý Thái Tổ với kinh phí 200 tỷ đồng.

Với một chút kinh nghiệm nghiên cứu thiết kế cổ trang năm ấy, tôi xin có ý kiến về việc thiết kế cổ trang phim Lý Công Uẩn, đường đến thành Thăng Long như sau:

Người được mời thiết kể trang phục cổ cho phim là Tiến sĩ Đoàn Thị Tình. Qua báo chí tôi được biết TS Tình đã có một bản thiết kế rất chi tiết giao cho đoàn làm phim đem sang Trung Quốc thuê may. Nhưng vì "tuổi tác" không qua tận nơi để theo dõi việc sản xuất cổ trang được, bà phải nhờ họa sĩ Phan Cẩm Thượng giúp. Đoàn làm phim đã sử dụng trang phục cổ do bà thiết kế và sản xuất bên Trung Quốc.

Nay bộ phim đã xong và đã trích đoạn làm trailer quảng bá rộng rãi trên mạng toàn cầu và báo chí VN. Dư luận la hoảng lên là phim cổ trang "lai Tàu" quá. Bà đã trả lời báo chí trong nước và các đài phát thanh nước ngoài rằng trang phục cổ trong phim đúng như ý của bà, "người Trung Quốc phục chế trang phục ấy không can thiệp gì vào thiết kế" của bà cả.

Trả lời phỏng vấn, bà nói: "Bộ phim về vua Lý Công Uẩn, phía Trung Quốc hoàn toàn không can thiệp vào quá trình thiết kế các bộ trang phục sử dụng trong phim. Gọi những chỉ trích rằng "phim trông quá Trung Quốc "là không có căn cứ".

Như vậy bà là người chịu trách nhiệm về trang phục của bộ phim. Tôi trân trọng ý kiến của bà. Để rõ hơn tôi xin bà trả lời hộ cho tôi hai sự việc sau:

1) Căn cứ vào tài liệu nào để thiết kế cái mão Bình Thiên của vua Lý có chùm tua trước trán như ảnh trong phim trích dẫn dưới đây? Và bà căn cứ vào tài liệu nào bà cho vai vua Lý Công Uẩn mặc giáp trụ như một võ tướng trong các phim cổ trang của Trung Quốc đã chiếu "búa xua" trên truyền hình lâu nay như sau:

Posted ImagePosted Image

Diễn viên Tiến Lộc trong tạo hình Lý Công Uẩn mặc long bào đội mũ bình thiên (ảnh trái) và mặc áo giáp đội mũ trụ (ảnh phải) trong phim.

Phải chăng bà đã "Trung hoa hóa" ông vua sáng lập ra triều Lý VN?

2) Bà có ý kiến gì về những câu trả lời phỏng vấn của họa sĩ Phan Cẩm Thượng - người bà nhờ giúp theo dõi việc sản xuất trang phục cổ do bà thiết kế, đã đăng trên báo Hồn Việt (Bài Họa sĩ Phan Cẩm Thượng: "Sang Trung Quốc làm phim lịch sử, rất dễ bị Trung Hoa hóa", (Hồn Việt số 36, tháng 6-2010, tr. 36-38) sau đây:

Nhà báo Hoàng Đăng hỏi- Có người ở đoàn phim kể rằng, các chuyên gia may phục trang của Trung Quốc có quyền năng rất lớn, vì thế, ngoài những trang phục có sẵn hay trang phục họ may theo cách của họ, ta muốn thay đổi họ cũng không đồng ý. Vậy nên đa phần trang phục và đạo cụ sử dụng từ kho trang phục của họ...

Họa sĩ Phan Cẩm Thượng trả lời- Có 2 loại trang phục: Quan phục và dân phục. Y phục cổ truyền của ta mới chỉ được xem qua hình ảnh vua chúa thế kỷ 17 trở lại chứ trước đây hầu như chúng ta không được biết nhiều. Có tài liệu chép trang phục của vua chúa VN từ thời này sử dụng y phục Trung Quốc và các họa sĩ thiết kế dựa theo tài liệu đó để thiết kế.

Nhưng thợ may Trung Quốc xem thiết kế là biết ngay y phục theo "gốc" Trung Quốc nên họ chữa lại theo nguyên bản trang phục Trung Quốc mà không chấp nhận sáng tác của mình. Ví dụ, trang phục vua Đinh và vua Lê, họa sĩ Đoàn Thị Tình không vẽ hình rồng nhưng thợ may bảo thiết kế Vương phục không thể không có rồng, nếu ta không đồng ý như vậy thì họ không may.

Posted Image

"Khó có thể nhận ra chất Việt qua bối cảnh cung điện và trang phục vua Lý Thái Tổ trong phim"(Chú thích trên báo Hồn Việt số 36, tr.36) Các nhà làm phim nói, họ (TQ) có quyền rất lớn nên đạo diễn và các nhà làm phim phải theo họ (trường hợp sáng tạo các mẫu mới không theo truyền thống nữa là chuyện khác). Kết quả, ta thiết kế một đằng nhưng thợ Trung Quốc vẫn may theo ý họ... (cột 3 tr. 36 và cột 1 tr. 36)

...Bộ phim do hãng tư nhân đầu tư nên nếu trang phục nào cần thì may, còn không thì thuê vì nếu tất cả trang phục đều may mới thì kinh phí rất lớn. Một bộ áo giáp giá 5.000 tệ (khoảng 15 triệu đồng), mà mỗi tướng lĩnh ra trận cần từ 3 đến 4 bộ giáp nên tiền đầu tư sẽ lớn. Phương án chính là thuê trang phục và khi thuê thì tất nhiên y phục giống TQ.(cột 3, tr.37) (!)

Nội dung trả lời phỏng vấn của Họa sĩ Phan Cẩm Thượng đã đăng trên báo Hồn Việt cách đây 3 tháng hoàn toàn mâu thuẫn với ý kiến bảo vệ bộ phim của bà. Vậy người xem truyền hình VN tin ai? Tin bà là người ngồi ở Hà Nội thiết kế trên giấy hay tin Phan Cẩm Thượng - người theo dõi việc sản xuất 700 bộ trang phục cổ và đưa vào phục vụ đóng xong bộ phim?

Người hóa trang: Viết chuyện trang điểm, hóa trang có liên quan đến Trung Quốc, tự nhiên tôi nhớ đến chuyện "Chiêu quân" thời Hán. Chỉ vì gia đình không biết hối lộ nên Chiêu Quận bị Mao Diên Thọ điểm cho một cái nốt ruồi "sát phu", không những Chiêu Quân không được vua Hán nhận mà còn bị nhốt vào lãnh cung suýt chết.

Đoàn làm phim của chúng ta không có người Việt đi theo hóa trang và trang điểm cho diễn viên. Người làm hóa trang - trang điểm đều là người Trung Quốc thì làm sao cái mặt của các diễn viên VN có "hồn Việt" được? Đề nghị đoàn làm phim chỉ cho con cháu nước Việt thấy cái "hồn Việt" ở đâu trong hình ảnh vai Lý Công Uẩn sau đây:

Posted Image

Hồn Việt ở đâu trong vai diễn Lý Công Uẩn này?

Tôi có cảm giác ông Sơn Trường Thành bỏ tiền sản xuất bộ phim để thỏa mãn thị hiếu của người Trung Quốc chứ không phải dành cho người Việt. Một nghìn năm sau con cháu VN tưởng nhớ đến vua Lý Thái Tổ bằng hình ảnh dưới đây sao?

Posted Image

Hoàng hậu và Hoàng đế TQ?

Trẻ con từng xem phim Tàu trên tivi cũng có thể bảo rằng đây là vợ chồng một ông vua Tàu chứ làm sao có thể bảo đó là vua và Hoàng hậu đầu Triều Lý.

Còn hình ảnh vị Quốc sư Vạn Hạnh thì đạo diễn bê ngay hình ảnh của "Sư phụ" Tam Tạng đi thỉnh kinh trong phim TQ hiện đang chiếu trên tivi VN như thế này:

Posted Image

Tam Tạng" (Sư Tàu) và vua Tàu áp đặt cho Sư Vạn Hạnh và vua Lý Công Uẩn Tôi cũng xin hỏi họa sĩ Phan Cẩm Thượng, người Trung Quốc thiết kế các vai vua quan triều Lý có cái búi tóc dựng ngược trên đỉnh đầu (xem 3 ảnh trên), họ có hỏi ý kiến của cố vấn văn hóa mỹ thuật của đoàn làm phim không?

Trong lịch sử 1000 năm Thăng Long có sự kiện thiên tài quân sự Quang Trung đã đánh thắng 29 vạn quân Thanh hồi đầu Xuân Kỷ Dậu (1789). Trước khi xung trận, trong lời dụ tướng sĩ, vua Quang Trung đã nói lên quyết tâm đánh bại quân Thanh xâm lược để giải phóng Thăng Long, bảo vệ nền độc lập dân tộc, văn hóa dân tộc: "Đánh cho để tóc dài/ Đánh cho để đen răng/ Đánh cho nó chính luân bất phản/ Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn/ Đánh cho sử trí Nam quốc anh hùng chi hữu chủ" [1]

Cách đây trên 220 năm vua Quang Trung làm nên chiến thắng Xuân Kỷ Dậu (1789) khiến cho quan quân nhà Thanh khiếp sợ cũng chỉ để bảo vệ "tóc dài, răng đen", bảo vệ độc lập dân tộc. Bây giờ ta đang có độc lập, kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, trong đó có chiến thắng Xuân Kỷ Dậu (1789) nỡ nào đoàn làm phim "Lý Công Uẩn, đường tới thành Thăng Long" để cho các nhân vật lịch sử VN đội tóc của người Trung Hoa?

Sự có mặt của họa sĩ Phan Cẩm Thượng và cả đạo diễn trẻ Tạ Huy Cường ở trường quay Hoành Điếm chẳng qua chỉ để "làm cảnh". Nhưng nếu bộ phim được lên sóng ở bất cứ nơi đâu trên thế giới này thì họ vẫn phải chịu một phần trách nhiệm với lịch sử văn hóa dân tộc.

Còn nữa

[1] UBKHXHVN, Lịch sử Việt Nam, Tập I, Nxb KHXH, HN 1971, tTr.353

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nhời bàn của Thiên Sứ:

Bỏ ra vài trăm tỷ để làm phim - không biết tiền đâu ra mà lắm thế? - thì tất họ cũng phải cố gắng làm sao cho bộ phim được chiếu. Cũng phái lập luận nói năng, cũng ồn ào mấy câu sáo ngữ, rằng "cơ sở khoa học", rằng "cần được chứng minh"....Nhưng cũng cần phân biệt giữa sự chứng minh của một luận cứ khoa học và sự xác định hiện tượng. Chẳng ai đi chứng minh một con ruồi được khoa học chứng minh chính là con ruồi cả. "Bộ phim Tàu nói tiếng Việt" đây là sự xác định hiện tượng không mấy phức tạp về mặt tư duy. Kết luận xong! Dẹp! Không nên chiếu bộ phim này vì tính chất nô lệ văn hóa của nó.

Đây chính là hậu quả gián tiếp gần gũi của sự phủ nhận lịch sử truyền thống Việt gần 5000 năm văn hiến.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Posted (đã chỉnh sửa)

Qua vụ Đường tới thành thăng long này mới thấy dân mình có tư tưởng chống Tàu dữ quá. Cái này có phải được gọi là "tinh thân dân tộc"? Cháu nghĩ là chưa đến mức độ gọi là "tinh thần dân tộc". Nhìn dân Tàu họ làm ầm ĩ vụ tàu cá của họ bị Nhật bắt, mới thấy chủ nghĩa dân tộc của họ ghê gớm đến mức nào. Người Nhật còn nói, họ đã tỏ ra hèn yếu trước TQ.

Dân mình không thích Tàu nhưng quanh năm lại toàn sử dụng hàng Tàu, năm nào cũng nhập siêu. Khối thứ Việt Nam ta làm được, nhưng vẫn cứ nhập về mà bán, như tăm tre, đũa tre...chẳng hạn. Yêu nước là phải dùng hàng Việt loại hàng Tàu mới phải.

Đường tới thành thăng long cũng giống như những vụ nhập tâm tre thôi. Đối với họ, miễn sao có $$$ là được; chả cần quan tâm gì đến hoa hồng hoa héo đâu. và dư luận chả là cái đinh gì.

Edited by Liêm Pha

Share this post


Link to post
Share on other sites

Qua vụ Đường tới thành thăng long này mới thấy dân mình có tư tưởng chống Tàu dữ quá. Cái này có phải được gọi là "tinh thân dân tộc"? Cháu nghĩ là chưa đến mức độ gọi là "tinh thần dân tộc". Nhìn dân Tàu họ làm ầm ĩ vụ tàu cá của họ bị Nhật bắt, mới thấy chủ nghĩa dân tộc của họ ghê gớm đến mức nào. Người Nhật còn nói, họ đã tỏ ra hèn yếu trước TQ.

Dân mình không thích Tàu nhưng quanh năm lại toàn sử dụng hàng Tàu, năm nào cũng nhập siêu. Khối thứ Việt Nam ta làm được, nhưng vẫn cứ nhập về mà bán, như tăm tre, đũa tre...chẳng hạn. Yêu nước là phải dùng hàng Việt loại hàng Tàu mới phải.

Đường tới thành thăng long cũng giống như những vụ nhập tâm tre thôi. Đối với họ, miễn sao có $ là được; chả cần quan tâm gì đến hoa hồng hoa héo đâu. và dư luận chả là cái đinh gì.

Cá nhân tôi không nghĩ đến việc chống Tàu hay không. Nhưng nên đặt vấn đề bảo vệ những giá trị văn hóa Việt.
1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vui lòng đăng nhập để bình luận

Bạn sẽ có thể bình luận sau khi đăng nhập



Đăng nhập ngay