Thiên Đồng

Thêm một Tài Liệu về Cổ Sử

9 bài viết trong chủ đề này

Nhà Triệu và nước Nam Việt

Đọc lịch sử Việt Nam, chúng ta đều nhận thấy Nhà Triệu (207-111 trước Tây Lịch) là một triều đại rực rỡ của nước Nam Việt, với cương thổ từ Đông sang Tây rộng hơn vạn dậm, do Triệu Vũ Đế, tên thật là Triệu Đà thành lập năm 207 trước Tây Lịch.

Ca tụng sự nghiệp anh hùng của Triệu Vũ Đế, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư viết: “Họ Triệu, nhân lúc nhà Tần suy loạn, giết trưởng lại Tần, chiếm giữ đất Lĩnh Nam, xưng đế, đòi ngang nhà Hán, hưởng nước truyền ngôi 100 năm mới mất, cũng là bậc vua anh hùng.”

Niềm hãnh diện này truyền tụng mãi mãi về sau, được Đại Việt Sử Ký Toàn Thư nhắc lại: “Vua (Đinh Tiên Hoàng) tài năng sáng suốt hơn người, dũng cảm mưu lược nhất đời, quét sạch các hùng trưởng (Sứ Quân), tiếp nối quốc thống của Triệu Vũ (Đế) ...”

Một vị tướng tài nổi danh khắp năm châu như Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, lúc sắp qua đời, cũng tỏ ra kính phục Triệu Vũ Đế, trong câu chuyện sau đây:

“Hưng Đạo Vương làm quan đến đời vua Anh Tông thì xin về trí sĩ ở Vạn Kiếp. Khi ngài sắp mất, vua Anh Tông có ngự giá đến thăm, nhân thấy ngài bệnh nặng, mới hỏi rằng:” Thượng phụ một mai khuất núi, phỏng có quân Bắc lại sang thì làm thế nào?”

Hưng Đạo Vương tâu rằng: “Nước ta thủa xưa, Triệu Võ Vương dựng nghiệp, Hán đế đem binh đến đánh, Võ Vương sai dân đốt sạch đồng áng, không để lương thảo cho giặc chiếm được, rồi đem đại quân sang châu Khâm, châu Liêm đánh quận Tràng Sa, dùng đoản binh mà đánh được, đó là một thời...”

Mở đầu “Bình Ngô Đại Cáo”, nguyên bản bằng chữ Hán, danh thần Nguyễn Trãi cũng đã trân trọng công nhận Nhà Triệu đứng đầu các Triều Đại chính thống của nước ta:

“Cái văn: nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân; điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo. Duy ngã Đại Việt chi quốc, thực vi văn hiến chi bang. Sơn xuyên chi phong vực ký thù, Nam Bắc chi phong tục diệc dị. Tự Triệu Đinh Lý Trần chi triệu tạo ngã quốc, dữ Hán Đường Tống Nguyên nhi các đế nhất phương. Tuy cường nhược thì hữu bất đồng, nhi hào kiệt thế vị thường phạp”. (Việt Nam Sử Lược - Trần Trọng Kim, Tập 1, Phụ lục trang 277).

Sách “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư” (Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam, nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội), dịch ra như sau (tập 2, trang 282):

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, Quân điếu phạt trước lo trừ bạo. Xét như nước Đại Việt ta, thực là một nước văn hiến. Cõi bờ sông núi đã riêng, Phong tục Bắc Nam cũng khác. Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước, Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên đều chủ một phương. Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau, Song hào kiệt không bao giờ thiếu.”

Vua Quang Trung Nguyễn Huệ, cũng đã có ý muốn “đòi về” vùng đất Lưỡng Quảng, là đất đai nước Nam Việt của nhà Triệu xưa kia:

Trần Trọng Kim (sách đã dẫn, quyển II, trang 143) viết: “...năm Nhâm Tí (1792) vua Quang Trung sai sứ sang Tàu, xin cầu hôn và xin trả lại cho Việt Nam (bấy giờ tên là Đại Việt) đất Lưỡng Quảng.”

Phạm Văn Sơn (sách đã dẫn, trang 563) viết: “Đi xa hơn nữa, năm Nhâm Tý tức Quang Trung thứ 5, nhà vua bắt đầu thi hành công chuyện nói trên. Ngài gửi cho bọn biên thần nhà Thanh hai bức thư liên tiếp nhờ đề đạt lên vua Càn Long ngỏ ý muốn cầu hôn với Công chúa Thanh và đòi đất Lưỡng Quảng để làm quốc đô.”

Những kẻ hậu sinh chúng ta, mỗi lần nhắc đến “Lưỡng Quảng” tức đất Bách Việt xưa kia, theo truyền thuyết là nơi lập quốc của Kinh Dương Vương (khoảng 2879 trước Tây Lịch), truyền ngôi cho Lạc Long Quân, bị Nhà Tần xâm chiếm năm 214 trước Tây Lịch, nhưng được Triệu Vũ Vương giành lại năm 207 trước Tây Lịch, dựng lên nền độc lập cho dân tộc Việt gần 100 năm, sau đó bị Nhà Hán thôn tính lấy mất, trong lòng ai chẳng bồi hồi luyến tiếc?

Chính vua Tự Đức cũng đã ngậm ngùi khi viết lời phê về việc Nhà Hán diệt Nhà Triệu trong Khâm Định Việt sử thông giám cương mục (giữa thế kỷ 19) như sau:

“Xét chung từ trước đến sau, đất đai của nước Việt ta bị mất về Trung Quốc đã đến quá một nửa, tiếc rằng vua sáng tôi hiền các triều đại cũng nhiều người lỗi lạc hiếm có ở trên đời, mà vẫn không thể nào lấy lại được một tấc, đó là việc đáng ân hận lắm! Thế mới biết việc thu hồi đất đai đã mất, từ đời trước đã là việc khó, chứ không những ngày nay mà thôi. Thật đáng thương tiếc.”

Trên đây là cách nhìn lịch sử (sử quan) của những nhà viết sử nổi tiếng và những danh nhân, danh tướng Việt Nam, coi Nhà Triệu và nước Nam Việt tiếp nối nền chính thống từ thời vua Hùng.

Cách nhìn khác, có lẽ căn cứ trên thực tế cương thổ của nước Việt Nam, một số nhà viết sử đã có nhận định trái ngược với cách nhìn của những sử gia trong chính sử: Khởi đầu là sử gia Ngô Thời Sỹ đời Nhà Lê với “Việt Sử Tiêu Án” và tiếp theo là những nhà viết sử ở trong nước ngày nay. Một số nhà viết sử ở Hải Ngoại có cùng quan điểm với cách nhìn mới, loại bỏ Nhà Triệu ra ngoài danh sách những triều đại chính thống. Theo cách nhìn này, nước Việt Nam bị “Bắc thuộc” (hoặc ngoại thuộc Nhà Triệu) bắt đầu từ thời Nhà Triệu nắm chính quyền.

Một số dữ kiện lịch sử có thể đã được dùng làm luận cứ cho cách nhìn này:

  • Tượng Quận được coi là vùng đất cổ Việt khác với Nam Hải (Quảng Đông) và Quế Lâm (Quảng Tây):

    “Chuyện Văn Lang và Âu Lạc được xếp vào loại khó tin được, nhưng đến Tượng Quận thì không còn là chuyện hoang đường mà chắc chắn là chuyện lịch sử rõ ràng. Năm 214 tr. CN (đinh hợi), Tần Thủy Hoàng sai Đồ Thư và Sử Lộc đánh lấy đất Lĩnh Nam lập ra các quận Quế Lâm (nay là vùng bắc và đông Quảng Tây, Trung Hoa), Nam Hải (nay là Quảng Đông, Trung Hoa), và Tượng Quận (vùng cổ Việt) (Trần Gia Phụng, sách đã dẫn trang 12).

    Ngô Thời Sỹ trong Việt Sử Tiêu Án cũng đã phân biệt rõ ràng: “Than ôi! Đất Việt Nam Hải, Quế Lâm không phải là đất Việt Giao Chỉ” (trang 25).

    Theo cách nhìn này, biên giới phía Bắc nước cổ Việt với nước Trung Hoa ở đâu đó vùng Lạng Sơn, Cao Bằng, khác với biên giới nước Nam Việt, được vua Hán Cao Tổ công nhận, bắt đầu từ Động Đình Hồ: “Cõi đất từ Ngũ Lĩnh về nam, vương (Triệu Đà) cứ việc trị lấy” (ĐVSKTT trang 144).
  • Văn Lang chia thành 15 “bộ”, không có “bộ” nào ở Lưỡng Quảng, mà chỉ giới hạn trong vùng đất Bắc Việt và vài tỉnh phía Bắc Trung Việt ngày nay.
  • Triệu Đà là người gốc phương Bắc, và kinh đô nước Nam Việt ở Phiên Ngung (Quảng Đông), không ở Bắc Việt ngày nay.
  • Quan trọng nhất là nước Âu Lạc bị Triệu Đà xâm chiếm đã được ghi rõ trong sách sử: “Canh Thân, năm thứ 27 (181 TCN), (Hán Cao Hậu năm thứ 7). Nhà Hán sai Lâm Lư hầu, Chu Táo sang đánh Nam Việt để báo thù việc đánh Trường Sa. Gặp khi nắng to ẩm thấp, bệnh dịch phát, bèn bãi quân, Vua (Triệu Vũ Đế) nhân thể dùng binh uy và của cải để chiêu vỗ Mân Việt và Âu Lạc ở phía Tây (tức là Giao Chỉ và Cửu Chân) các nơi ấy đều theo về). (ĐVSKTT, trang 143)
Cách nhìn lịch sử căn cứ vào thực tế cương thổ nước Việt Nam, mở ra một phương pháp suy luận mới, có vẻ thực tế khách quan.

Tuy nhiên cách nhìn này đã vấp phải sự nhận diện sai lạc và sự di dịch biên giới cổ Việt qua các thời đại, cũng như sự phân biệt và kỳ thị có tính cách địa phương (theo Trương Thái Du, là “tính nhất thời, trong cái nhìn địa phương hãn hữu” - Triệu Đà và nước Nam Việt trong dòng chảy lịch sử Việt Nam – 2005 talawas), vì thế làm mất hẳn đi tính thuyết phục:

  • Thuyết coi Tượng Quận là đất cổ Việt, thuộc về phần đất Bắc Việt ngày nay, đã bị phê phán: “Tượng Quận: tên quận đời Tần mà trước đây nhiều sách sử của ta và của Trung Quốc đều chú giải là quận Nhật Nam, hay bao gồm cả ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam thời Hán, tức đất An Nam. Thuyết đó là dựa vào một câu cước chú của Hán thư (q.28 hạ, tr. 11a) về quận Nhật Nam thờ Hán: Quận Nhật Nam - quận Tượng thời Tần ngày trước”. Nhưng từ cuối thế kỷ XIX thuyết đó đã bị phê phán. Chính Hán Thư phần Bản Kỷ (q. 7 tr. 9a) chép rõ ràng: “Năm thứ 5 hiệu Nguyên Phương (76 TCN), bãi bỏ quận Tượng, chia đất vào hai quận Uất Lâm và Tường Kha”. (Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, trang 138).

Posted Image
Bản đồ nước Nam Việt (Trần Việt Bắc vẽ).

Chú ý sẽ thấy Tượng Quận ở phía trên Tây Âu, gần Tường Kha.

Quận Uất Lâm ở vùng đất thuộc Quảng Tây, quận Tường Kha ở phía tây quận Uất Lâm và gồm một phần Quý Châu. Vậy Tượng Quận thuộc về miền tây Quảng Tây và nam Quý Châu.

Nhìn nhận Tượng Quận là đất cổ Việt, ắt phải nhìn nhận Quảng Tây là cổ Việt? Chưa kể, thời Hai Bà Trưng có quận Hợp Phố thuộc về tỉnh Quảng Đông ngày nay theo về, làm cho biên giới nước cổ Việt mở rộng, ăn sâu vào tỉnh Quảng Đông. Biên giới nước Việt Nam ngày nay cũng đã thay đổi: thời Hồ Quí Ly mất cho Trung Hoa vùng đất Lộc Châu gồm 59 thôn ở Cổ Lâu (năm 1405), thời Mạc Đăng Dung mất 5 động Tê Phù, Kim Lạc, Cổ Xung, Liễu Cát, La Phù và đất Khâm Châu (năm 1540).

  • Còn về thuyết Văn Lang được chia ra làm 15 bộ để cai trị, cũng đã bị phê phán về tính xác thực. Học giả Lê Quí Đôn (1726-1784) trong Văn đài loại ngữ đã nhận xét : “...Tôi xét đời Hùng Vương, trên nối đời Hồng Bàng, không có chữ nghĩa gì truyền lại; về 15 bộ đặt ra thời đó, cùng với các quận huyện do nhà Hán, nhà Ngô (Trung Hoa) mới đặt ra, tên gọi lẫn lộn, tôi ngờ rằng những tên đó do các hậu nho góp nhặt vay mượn chép ra, khó mà tin được...” (Trần Gia Phụng, sách đã dẫn trang 11, 12). Cũng nên biết rằng ý niệm thống nhất đất đai chư hầu thành một nước để chia ra từng bộ phận, quận huyện mà cai trị, chỉ bắt đầu xuất hiện bên trung Hoa từ thời nhà Tần (356 tr. TL) trở về sau (do chính sách của Tướng quốc Thương Ưởng, sau đó được Tần Thủy Hoàng củng cố mạnh mẽ hơn nhờ Tể Tướng Lý Tư soạn ra tân chính sách). Vì vậy, nếu cho rằng ý niệm “thống nhất đất đai” đã xẩy ra ở cổ Việt trước thời Tần Thủy Hoàng xâm lăng đất Bách Việt, thì quả thật đáng để chúng ta suy nghĩ về tính xác thực của nó. Hơn nữa chính “đất Bách Việt” trước khi bị Nhà Tần xâm lăng, theo truyền thuyết thuộc về Văn Lang là đất đai của vua Hùng. Nhà Tần chia đất Bách Việt ra thành 3 quận Nam Hải (Quảng Đông), Quế Lâm (Quảng Tây), và Tượng Quận (theo thuyết mới thuộc về Quảng Tây). Có lẽ Tượng Quận bao gồm phần đất bản bộ của Thục Phán tại Quảng Tây, trước khi đánh chíếm nước Văn Lang (?).
  • Chúng ta cũng cần suy nghĩ về quan niệm cho rằng Triệu Đà là người phương Bắc và kinh đô Nhà Triệu ở Phiên Ngung, không nằm trong đất Bắc Việt ngày nay, rồi kết luận “Nước Nam Việt là một nước phương Bắc, đô hộ nước Âu Lạc (Bắc Việt)”.
    Bởi vì nước ta có nhiều ông vua gốc phương Bắc như Thục An Dương Vương, Lý Nam Đế, Hồ Quí Ly, Quang Trung Nguyễn Huệ, nhưng vẫn được dân tộc Việt công nhận là những ông vua Việt Nam có tài và có công. Còn về Kinh đô của một nước, thường tùy thuộc vào diện tích đất đai và cách tổ chức chính trị của nước đó. Thí dụ khi Việt Nam còn giới hạn ở miền Bắc và mấy tỉnh miền Trung, thì kinh đô của các Nhà Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Lê đều đặt ở miền Bắc (Hoa Lư hoặc Thăng Long). Nhưng khi lãnh thổ mở rộng về phương Nam đến mũi Cà Mâu, thì kinh đô của vua Quang Trung hay vua Gia Long đều dời về ở miền Trung (Phú Xuân, Huế). Giả thử Thục An Dương Vương khi chiếm đất của các vị vua Hùng, có đất bản bộ là vùng Lưỡng Quảng rộng lớn, tất cũng phải đặt kinh đô trên đất Lưỡng Quảng vậy. Sau này, vua Quang Trung Nguyễn Huệ cũng đã có ý định “đòi đất Lưỡng Quảng để làm quốc đô” (Phạm Văn Sơn sách đã dẫn trang 563).

    Sử gia Ngô Thời Sỹ khi viết về đất Bách Việt (Quảng Đông, Quảng Tây) cũng cho rằng: “ đất Bách Việt là đất cổ Việt (?): “Nhà Tần cho là nước Việt ta nhiều châu báu, muốn chia nước ta ra làm quận huyện, sai Hiệu Úy Đồ Thư mang quân vào sâu mãi Lĩnh Nam lấy đất Lục Lương đặt ra Quế Lâm, Nam Hải, Tượng Quận. Người Việt ta đều chạy trốn vào trong rừng rậm, không chịu để cho nhà Tần dùng, ngầm đặt Kiệt Tuấn làm tướng, đương đêm đánh Đồ Thư, nhà Tần bèn mang 500 vạn (5 triệu) (?) dân phát vãng đi đầy sang ở đó. ...”. (sách đã dẫn trang 24). Theo Trần Trọng Kim, Nhà Tần sai Đồ Thư sang đánh Bách Việt ở “vào quãng tỉnh Hồ Nam, Quảng Đông và Quảng Tây bây giờ” (sách đã dẫn trang 18). Phải chăng, nhóm từ “nước Việt ta”, “nước ta”, “người Việt ta” trong Việt Sử Tiêu Án đã mặc nhiên thừa nhận dân tộc Bách Việt chính là dân tộc Cổ Việt? Tương tự, một cách khách quan sử gia Phạm Văn Sơn trong Việt Sử Toàn Thư cũng công nhận người Việt Nam và người Nam Việt chỉ là một(?): “Với Triệu Đà ta thấy xã hội Việt Nam bắt đầu tiến do sự phát triển về nông nghiệp...Triệu Đà đã thúc đẩy dân tộc Việt Nam lên một bước đáng kể”, hoặc: “Sự tiến hóa về các phương diện trên đây tuy còn ít ỏi nhưng cũng đã làm nảy nở ít nhiều ý thức quốc gia của người Việt”. (sách đã dẫn, trang 90).
  • Căn cứ vào dữ kiện lịch sử “Triệu Đà xâm lăng Âu Lạc” tức đất Bắc Việt ngày nay, để cho rằng nước ta ngoại thuộc Nhà Triệu hay “Bắc thuộc”, không phải là không có duyên cớ. Tuy nhiên, bảo rằng lãnh thổ của Âu Lạc là lãnh thổ của Văn Lang (trong truyền thuyết) lại là một nghi vấn lịch sử? Chính “ Lời Thông Luận” cũng đã tỏ ra ngạc nhiên: “An Dương Vương khởi từ đất Ba Thục, thừa lúc họ Hùng-Lạc đã suy, một trận cử binh mà lấy được nước cũ hơn hai nghìn năm, sao mà hùng cường thế”. (Ngô Thời Sỹ, sách đã dẫn trang 25). Để có thể nhận xét một cách khách quan, chúng ta cần tìm hiểu và xét lại 2 vấn đề sau đây:
  • Thục Phán là người Phương Bắc (gốc nước Thục, mà ta quen gọi là người Tàu), đánh bại vua Hùng Vương thứ 18, chiếm kinh đô vua Hùng ở Phong Châu (Vĩnh Yên, nay là tỉnh Phú Thọ), nhưng có chiếm được hết đất đai của vua Hùng theo truyền thuyết hay không?
    Với thời gian trị vì của Thục An Dương Vương không quá 50 năm trong 1 đời vua, Thục An Dương Vương đã có thể thu phục được bao nhiêu phần trăm “nhân tâm” của những quan Lạc Tướng, Lạc Hầu, và nhất là của dân tộc Việt “cắt tóc vẽ mình” từng là con dân vua Hùng hàng ngàn năm rồi? Số dân chúng còn luyến tiếc thời vua Hùng, không chịu khuất phục “chế độ mới” là bao nhiêu?
  • Dân tộc Bách Việt “ cắt tóc vẽ mình” cùng một tổ tiên với dân tộc Lạc Việt sống rải rác từ Động Đình Hồ (tức vùng đất Quảng Đông, Quảng Tây) tới Âu Lạc (Bắc Việt ngày nay), trước khi Tần xâm lăng Bách Việt, thuộc về nước nào? vua nào? nếu không phải là nước Văn Lang của vua Hùng? Khi Hán Cao Tổ chiếm trọn đất đai phía Bắc Ngũ Lĩnh (Động Đình Hồ), Triệu Vũ Đế hầu như chiếm trọn đất đai phía Nam Động Đình Hồ. Vua Hán dùng ngoại giao để thu phục Nhà Triệu và phong Vương cho Triệu Đà không hề đả động gì đến nước Văn Lang, hay Âu Lạc, mà chỉ biết Nam Việt là một nước duy nhất ở phương Nam “thần phục” Nhà Hán” (khác với “lệ thuộc” Nhà Hán, vì đây chỉ là một hình thức ngoại giao, Nam Việt vẫn giữ được nền tự chủ).
Để biết rõ thêm về Nhà Triệu và nước Nam Việt, chúng ta cùng tìm hiểu mấy câu hỏi sau đây:

  • Triệu Đà là ai? Vợ con Triệu Đà và thân tín của Triệu Đà là ai? Triệu Đà đến nước Cổ Việt từ bao giờ?
  • Vua quan triều đình nước Nam Việt là ai?
  • Dân tộc nước Nam Việt là ai?
  • Triệu Đà đã làm được những điều gì ích lợi cho nước Việt Nam ta thời xưa?

Posted Image
Đỉnh trong mộ Vua Nam Việt đời thứ 2 – 122 BC (tức Triệu Văn Vương - 137-125 BC)
(Một Thế Kỷ Khảo Cổ Việt Nam Tập II)

  • Triệu Đà là ai?
    Mặc dù thời đại Triệu Đà đã có chữ viết, nhưng sử sách chép về tiểu sử Triệu Đà lại rất sơ sài. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư cho biết: “Họ Triệu, tên húy là Đà, người huyện Chân Định nước Hán, đóng đô ở Phiên Ngung (nay ở tỉnh Quảng Đông)...”. Trần Trọng Kim trong “Việt Nam Sử Lược” chú trọng nhiều đến việc thành lập nước Nam Việt: “Năm Quí tị (207 tr. TL), Triệu Đà đánh được An Dương Vương rồi, sáp nhập nước Âu Lạc vào quận Nam Hải, lập thành một nước gọi là Nam Việt, tự xưng làm vua, tức là Vũ Vương, đóng đô ở Phiên Ngung, gần thành Quảng Châu bây giờ”, và cho biết thêm: “Năm Giáp Thìn (137 trước Tây Lịch), Triệu Vũ Vương mất. Sử chép rằng ngài thọ được 121 tuổi và làm vua được 70 năm”.

    Vợ con Triệu Đà là ai?
    Ngô Thời Sỹ không nói gì đến tiểu sử của Triệu Đà, nhưng lại cung cấp một dữ kiện quí báu, đó là thân thế của bà vợ người Việt của Triệu Vũ Đế: “Theo sách ngoại sử: Mẹ Trọng Thủy là Trình Thị, người làng Đường Xâm, quận Giao Chỉ , (nay làng Đường Xâm, huyện Chân Định), nơi có miếu thờ Triệu Đà, Trình Thị được tòng tự ở miếu ấy”. (trang 24, sách đã dẫn)

    Triệu Đà đến nước Cổ Việt từ bao giờ?
    Đại Việt Sử Ký Toàn Thư và Việt Sử Tiêu Án đều chép: “Triệu Đà làm quan lệnh Long Xuyên”, nhưng không cho biết Triệu Đà được vua Tần sai phái sang nước Nam từ bao giờ? Căn cứ vào bức thư của Triệu Đà viết gửi Hán Văn Đế (năm 179 trước Tây Lịch), có câu: “Lão phu ở đất Việt 49 năm, đến nay đã ẵm cháu rồi” (Ngô Thời Sỹ, sách đã dẫn trang 27), suy ra Triệu Đà đến đất cổ Việt vào năm 228 trước Tây Lịch, đúng vào thời gian nước Triệu bị Nhà Tần diệt (228 tr. TL), 14 năm trước khi Tần Thủy Hoàng sai tướng Đồ Thư đem quân đánh lấy Bách Việt. Trong cuốn “Sổ Tay Địa Danh Việt Nam”, Đinh Xuân Vịnh cho biết thêm: “CHÂN ĐỊNH: huyện về đời Lê thuộc phường Kiến Xương do phủ kiêm lị, trấn Sơn Nam . Nguyên là huyện Chân Lợi, đời Lê vì kị húy vua Lê Thái Tổ, nên đổi là Chân Định, lấy tên là huyện quê hương Triệu Đà ở nước Triệu bên Trung Quốc. Đà có người vợ người Việt quê ở làng Đồng Sâm (Đường Xâm?), huyện Chân Định. Đời Thành Thái vì kị húy tên vua Dục Đức là Ưng Chân, đổi là Trực Định và chuyển thuộc tỉnh Thái Bình mới thành lập (1894), từ năm 1945 là huyện Kiến Xương. Quê Nguyễn Quang Bích, Trương Quỳnh Như”.

    Nhờ vào những dữ kiện lịch sử kể trên, chúng ta có thể suy diễn: “Triệu Đà sinh năm 258 tr. TL, quê huyện Chân Định nước Triệu (bị Nhà Tần diệt vào năm 228 tr. T.L), lúc đó Triệu Đà vừa 30 tuổi, phải bỏ nước chạy sang Giao Chỉ “tị nạn”. Tại Giao Chỉ, Triệu Đà kết hôn với một cô gái người Việt quê làng Đường Xâm (sau thuộc tỉnh Thái Bình, Bắc Việt). Vợ chồng Triệu Đà sinh ra Trọng Thủy. Sau Trọng Thủy kết duyên với Mỵ Châu, con gái An Dương Vương, sinh được một trai đặt tên là Hồ (Triệu Hồ được truyền ngôi lên làm vua nước Nam Việt năm 137 tr. TL). Trong suốt thời gian 14 năm sống trên đất Việt và thời gian 70 năm làm vua nước Việt sau này, Triệu Đà đã nhiễm phong tục tập quán của người Việt, đồng hóa với người Việt, yêu thương văn hóa Việt và quyết tâm bảo vệ và gìn giữ nền Văn Hóa cổ Việt, ngăn cản không cho Văn Hóa người Hán tràn vào Nam Việt.

    Nhận xét một cách vô tư, sử gia Phạm Cao Dương viết: “Triệu Đà mặc dầu gốc miền Bắc, nhưng vì xuống ở miền Nam lâu ngày đã bị đồng hóa bởi người Nam Việt, chấp nhận các phong tục tập quán của người Nam Việt đến độ quên hết quá khứ của mình, đúng như Lê Thành Khôi đã nhận xét” (trang 71 sách đã dẫn).

    Chính sử gia Ngô Thời Sỹ cũng đã nhận xét: “Còn về phần giáo hóa , phong tục (Triệu Đà) không để ý đến một chút nào.” (sách đã dẫn, trang 34). Sử gia Phạm Văn Sơn cũng viết: “ Giao Chỉ vẫn giữ được đầy đủ các cá tính quốc gia, tinh thần cố hữu của nó. Lại nhân cuộc thay trò đổi cảnh hai xứ này (Giao Chỉ, Cửu Chân?) được thêm sự mở mang kinh tế và chấn hưng nông nghiệp. (sách đã dẫn, trang 86 & 87). Thật may mắn cho dân tộc Lạc Việt, nhờ Triệu Đà không để ý thay đổi phong tục tập quán cổ truyền của người Việt theo phong tục phương Bắc, nên dân tộc ta mới không bị Hán hóa ngay từ thời Nhà Triệu! Đây chính là công lao rất lớn của Triệu Vũ Đế vậy.

    Có lẽ Triệu Đà qua Giao Chỉ “tị nạn”, chỉ có một thân một mình, căn cứ vào lời lẽ của Lục Dận nói với Triệu Vũ Vương: “Vương vốn là người Hán, họ hàng mồ mả đều ở nước Hán”, hoặc căn cứ vào sự giao thiệp với Hán Văn đế: “Vua Hán vì thấy mồ mả tổ tiên của vua (Triệu Đà) đều ở Chân Định, mới đặt người thủ áp để trông coi, tuế thời cúng tế, gọi các anh em của vua cho làm quan to, ban cho hậu”. Trong bức thư gửi Triệu Vũ Vương, vua Hán Văn Đế nói rõ: “Mới rồi nghe nói Vương có gửi thư cho tướng quân Lâm Lư hầu muốn tìm anh em thân và xin bãi chức hai tướng quân ở Trường Sa. Trẫm theo thư của Vương, đã bãi chức tướng quân Bác Dương hầu rồi, còn anh em thân của Vương hiện ở Chân Định, trẫm đã sai người đến thăm hỏi và sửa đắp phần mộ tiên nhân của Vương rồi”. (ĐVSKTT, trang 142-145). Như vậy, phải chăng anh em, họ hàng, thân thích cũ của Triệu Đà đã bị Nhà Hán giam lỏng, hoặc dùng chức tước để cầm chân, không cho rời khỏi nước Hán để đến nước Nam Việt?
  • Vua quan triều đình nước Nam Việt là ai? Như trên vừa kể, những người thân tín của Triệu Đà trấn đóng khắp nơi và làm quan trong triều không phải là họ hàng, thân thích hay anh em của nhà vua (nếu có cũng rất ít). Vậy họ là ai? Có phải là người Tần không? Có phải là người Hán (người Tàu) không? Triệu Đà sống ở Giao Chỉ lâu ngày, lấy vợ Việt, ắt có rất nhiều bạn bè người Việt. Sau Triệu Đà làm quan cho nhà Tần tới chức Lệnh huyện tại Long Xuyên (đất Bách Việt), có thể đã kết hợp với người Bách Việt (Lạc Việt, Âu Việt...), giết hết trưởng lại Nhà Tần, để thay bằng thân tín là những người Việt. Lữ Gia và họ hàng thân thích hàng trăm người làm quan to trong triều, đều là người Việt: “Con trai đều lấy công chúa, con gái đều gả cho con em của vua hay tông thất của vua” (Phạm Cao Dương, sách đã dẫn trang 68). Một triều đình nước Nam Việt với quan, dân đều là người Việt “cắt tóc vẽ mình” như vậy mà nhà viết sử lại cho rằng nước Nam Việt là... nước Tàu, thì chỉ có thể giải thích bằng “đầu óc kỳ thị địa phương” kiểu người miền Nam Việt Nam tự nhận là “dân Nam Kỳ Quốc” để phân biệt với người miền Bắc Việt Nam trong thời kỳ Pháp thuộc mà thôi! Về nhận xét có sự phân biệt “kỳ thị địa phương” thời Nhà Triệu, chính sử gia Phạm Văn Sơn cũng đã bác bỏ: “Và tuy sử sách không nói nhiều về việc cai trị dưới thời Triệu Đà hay dở thế nào ở đất Giao Chỉ, nhưng ta tin chắc rằng họ Triệu đã đối đãi dân Giao Chỉ không khác gì với nhân dân hai quận Quế Lâm , Nam Hải” (sách đã dẫn, trang 87).

    Các vị vua Nam Việt nối ngôi sau này như Triệu Văn Vương, Triệu Minh Vương... đều mang dòng máu Việt.
  • Dân tộc nước Nam Việt là ai? Theo định nghĩa: “Bách Việt: là từ mà người Hán dùng để gọi chung các tộc người khác Hán sống ở miền nam Trung Quốc thời xưa. Từ này lần đầu tiên thấy chép trong Sử Ký (Ngô Khởi truyện) của Tư Mã Thiên (Đại Việt Sử Ký Toàn thư, trang 131). Học giả Đào Duy Anh cũng xác nhận: “Chúng ta đều biết rằng người nước Văn Lang là người Lạc Việt, lại cũng biết rằng nhóm Việt tộc sinh tụ ở miền Quảng Tây, tức trong lưu vực sông Tây giang với hai nhánh của nó là Tả giang và Hữu giang, là người Tây Âu”. (sách đã dẫn trang 26). Sử gia Phạm Văn Sơn cũng cho biết:” Còn cương vực của nước Văn Lang phía Bắc giáp hồ Động Đình (tỉnh Hồ Nam), phía Tây giáp Ba Thục (tỉnh Tứ Xuyên) phía Nam giáp Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía Đông giáp bể nam hải, là cương vực cổ xưa của toàn thể gia đình Bách Việt” (sách đã dẫn trang 51). Theo chúng tôi nghĩ, cho tới khi Nhà Tần xâm lăng Bách Việt, Tổ Tiên người Lạc Việt của nước Văn Lang vẫn sinh sống tại Bách Việt, mặc dù có một số dân chúng tiếp tục “di cư dần xuống lưu vực sông Nhị và sông Mã” (Phạm Văn Sơn), vì khó có thể xẩy ra chuyện cả một dân tộc dời bỏ quê hương, nơi “chôn nhau cắt rốn” ra đi hết không còn một ai ở lại? Như vậy, Dân tộc nước Nam Việt bao gồm thành phần người Bách Việt trong đó có người Lạc Việt và Âu Việt, tức là người cổ Việt, (mang dòng máu Việt), lẫn với một số người Tàu khi nhà Tần mang theo sang xâm chiếm Bách Việt, và những dân tộc thiểu số khác. Đào Duy Anh cho biết: “ Sách Lộ Sử ở đời Tống chép rằng: Việt Thường , Lạc Việt, Âu Việt, Âu Khải, Âu Nhân, Thả Âu, Cung Nhân, Hải Dương, Mục Thâm, Phù Xác, Cầm Nhân, Thương Ngô, Man Dương, Dương Việt, Quế Quốc, Tây Âu, Quyên Tử, Sản Lý, Hải Quỳ, Tây Khuẩn, Kê Từ, Bộc Cầu, Tỷ Đái, (sửa là Bắc Đái), Khu Ngô, gọi là Bách Việt”. (Đất Nước Việt Nam qua Các Đời, trang 21). Như vậy dân chúng nước Nam Việt có thành phần quan trọng là người Việt cổ.

    Hoài Nam Vương (Lưu) An khi dâng sớ can ngăn vua Hán đừng can thiệp vào cuộc chiến tranh giữa Nam Việt và Mân Việt, cũng đã minh xác: “Việt là đất ở ngoài cõi. Dân cắt tóc vẽ mình, không thể lấy pháp độ của nước đội mũ mang đai mà trị được” (ĐVSKTT, trang 147). Bàn về phong tục người Việt Cổ (Giao Chỉ, Bách Việt), Lê Tắc trong An Nam Chí Lược viết: “Dân (Việt) hay vẽ mình, bắt chước tục lệ của hai nước Ngô, Việt. Vì thế, Liễu Tư Hậu có câu thơ rằng “Cộng lai Bách Việt văn thân địa”, nghĩa là cùng đi tới đất Bách Việt là xứ người vẽ mình”.(Sách đã dẫn trang 70)

    Tóm lại, nước Nam Việt bao gồm đất Bách Việt (Quảng Đông, Quảng Tây ngày nay) và nước Âu Lạc (Bắc Việt và vài tỉnh miền Trung ngày nay), dân chúng là người Việt chiếm đa số, được cai trị bởi Triệu Vũ Đế, người gốc phương Bắc nhưng đã thấm nhuần phong tục, tập quán người Việt, truyền ngôi cho cháu chắt đều mang dòng máu Việt và các quan trong triều đình Nam Việt đều là người Việt.

  • Triệu Vũ Đế đã làm được gì ích lợi cho nước ta xưa kia? Sử gia Phạm Cao Dương viết: “...sự thành lập nước Nam Việt bởi họ Triệu, đã khởi đầu cho sự hấp thụ văn hóa Trung Quốc của tập thể người Việt” (sách đã dẫn trang 70).

    Posted Image
    Hũ Đồng thời Tây Hán: (10) Hũ thời chiến Quốc (200 BC – 9AD – Thanh Hóa VN),
    Nguồn: Một Thế Kỷ Khảo Cổ Học VN/ Nha XB KH XH.

Sử gia Phạm Văn Sơn viết: “Với Triệu Đà ta thấy xã hội Việt Nam bắt đầu tiến do sự phát triển về nông nghiệp nhờ sự cải thiện của nghệ thuật canh tác trước đây còn quá thô sơ (Nghề săn bắn, chài lưới bấy giờ vẫn còn thịnh). Họ Triệu nhập cảng lưỡi cầy sắt để thay cho lưỡi cuốc bằng đá trau, cho dùng trâu bò thay vào sức người, đem gia súc từ Tàu qua để mở mang việc chăn nuôi, nhờ vậy mà sinh sản lượng tăng gia gấp bội; sự phát triển về văn hóa, chính trị, quân sự cũng do cái bản lĩnh hơn người của họ Triệu đã thúc đẩy dân tộc Việt Nam lên một bước đáng kể, nếu ta nhớ rằng dưới đời Hồng Bàng người Việt Nam vẫn chưa thoát ly hẳn tình trạng bán khai, mọi điều còn ở trình độ rất thấp kém trước khi nước ta nội thuộc về phương Bắc.

Sự tiến hóa về các phương diện trên đây tuy còn ít ỏi nhưng cũng đã làm nẩy nở ít nhiều ý thức quốc gia của người Việt , nhất là sau những cuộc xô sát bằng quân sự và ngoại giao với Hán triều trong thời Lã Hậu cầm quyền. Ý thức quốc gia còn nẩy nở trong những giai đoạn người Việt độc lập, tự chủ và tự cường nữa. Tóm lại, ta có thể nhìn nhận người cầm cái mốc đầu tiên trên đường tiến hóa của chúng ta là tướng Triệu Đà...”

Nên nhớ rằng thời đại Nhà Triệu chính là thời đại “văn hoá Đông Sơn” được tiếp tục tồn tại và phát triển tại Việt Nam: “Từ đầu thế kỷ II trước Công nguyên đến đầu thế kỷ I sau Công nguyên (giai đoạn thuộc Triệu và Tây Hán). Đây là thời kỳ tiếp tục phát triển thời đại sắt Việt Nam, và bắt đầu tiếp xúc với văn hóa Hán, đã dẫn đến sự dung hợp văn hóa Hán-Việt. Về mặt di tích, đây chính là thời kỳ mà văn hóa Đông Sơn vẫn phát triển và vẫn là yếu tố chủ đạo trong văn hóa.” (Phạm Như Hổ, Một thế kỷ Khảo Cổ Học Việt Nam tập II, trang 12).

Posted Image
Bách Việt & Âu Lạc (Trích VNSL – Trần Trọng Kim)


Nhận xét về thời Hán thuộc dưới quyền đô hộ của các Thái Thú Tích Quang và Nhâm Diên (năm 29 sau T.C, tức vào khoảng 140 năm sau thời kỳ độc lập của Nhà Triệu đối với Nhà Hán), sử gia Phạm Cao Dương viết: “...một nhận định khác liên hệ tới sinh hoạt kinh tế cũng cần phải được nêu lên. Đó là sự phát triển kinh tế của quận Giao Chỉ vào cuối thời Tây Hán khi Nhâm Diên là Thái Thú Cửu Chân: dân Cửu chân đã có thể sang đong thóc ở Giao Chỉ”. (sách đã dẫn trang 83). Bàn về trường hợp Thái Thú Nhâm Diên quận Cửu Chân “sai rèn đúc đồ làm ruộng, dạy dân khai khẩn mở mang đất đai”, Phạm Cao Dương viết: “Sự kiện này (sự kiện Nhâm Diên là người đầu tiên dạy dân ta cày cấy với nông cụ bằng sắt) trái ngược với những gì người ta tìm được trong các cuộc phát quật ở Đông Sơn (cùng thời Nhà Triệu), vì trong các cuộc phát quật này người ta đã tìm thấy những đồ làm ruộng như lưỡi cày, lưỡi cuốc, lưỡi rìu...” (sách đã dẫn trang 83).

Trên đây là những nhận xét khách quan và thành thật của các sử gia. Bên cạnh đó, không thể tránh được những lời nhận xét mang tính chủ quan và địa phương

Kết luận:

Tìm hiểu về lịch sử một triều đại, có nhiều cách nhìn. Trong mỗi cách nhìn, thường dựa trên một số dữ kiện lịch sử khách quan để dùng làm căn bản lý luận. Đối với sách sử cũ (ngoại trừ Việt Sử Tiêu Án của Ngô Thời Sỹ) đa số đều công nhận Nhà Triệu với nước Nam Việt là một triều đại chính thống nối tiếp vua Hùng. Nhiều vị Anh hùng, Danh nhân, Danh tướng Việt Nam cùng kính phục Triệu Vũ Đế và coi đất Bách Việt (Lưỡng Quảng) là đất đai của Tổ Tiên đã bị Nhà Hán thôn tính lấy mất. Truyền thuyết về Kinh Dương Vương dựng nước ở đất Bách Việt, cũng như sự nhìn nhận của Nhà Tây Hán qua thể thức “phong vương” cho Triệu Đà là những bằng chứng lịch sử để tin tưởng.

Gần đây, nhiều nhà viết sử ở trong nước đã dựa theo “Việt Sử Tiêu Án” của Ngô Thời Sỹ, viết về Nhà Triệu trái ngược với sử cũ, coi nước Việt Nam bị Bắc thuộc (nội thuộc nước Tàu?) hoặc ngoại thuộc Nhà Triệu từ khi Triệu Vũ Vương dựng nước Nam Việt. Một số sử gia ở Hải Ngoại cũng có cùng quan điểm như vậy.

Một cách đơn giản hơn, là nhìn thẳng vào chính quyền, dân chúng và lãnh thổ của một nước, để tìm hiểu xem đất nước ấy có bị một nước nào đô hộ hay không? Nếu không, tính chính thống coi như được tiếp nối. Đối với nước cổ Việt, thời đại vua Hùng, chưa có ý niệm về thống nhất đất đai chư hầu để chia thành quận huyện cai trị như thời nhà Tần bên Tàu, nên ta có thể chấp nhận: “Nơi nào có dân tộc cổ Việt tập trung sinh sống đông đảo mà không bị lệ thuộc vào nước nào thì nơi đó chính là quê hương, tổ quốc của dân tộc cổ Việt”. Từ nhận xét này, suy ra đất Bách Việt là đất đai quê hương và Tổ quốc của người Lạc Việt và Âu Việt, tức là người Việt Nam thời cổ .

Điều đáng suy nghĩ là người Hán thôn tính các nước láng giềng đều coi dân tộc các nước bị diệt là người ... Trung Hoa, trong khi cùng là người Việt, nhưng vì địa phương tính, lại coi nhau như người khác nước!

“Nhà Triệu và Nước Nam Việt” là một đề tài lịch sử quan trọng, cần được tìm hiểu cặn kẽ, vô tư và khoa học khách quan để tôn trọng những trước tác sách sử mang tâm huyết hào hùng của tiền nhân, nhất là để không phụ công ơn dựng nước và giữ nước của Tổ Tiên. Đánh giá một nhân vật lịch sử là một việc làm cẩn trọng, và trách nhiệm nặng nề của những nhà viết sử, vì việc làm này sẽ ảnh hưởng không ít đối với học sinh, sinh viên sau này.

Bài viết trên đây chỉ là những nhận xét thô thiển của một cá nhân, với số sách sử tham khảo rất giới hạn. Chúng tôi mong mỏi được quí vị thức giả trong và ngoài nước, có tinh thần tự do, vô tư và không bị hạn chế bởi bất cứ một áp lực chính trị nào, chỉ giáo và đóng góp ý kiến rộng rãi, để làm sáng tỏ vấn đề: “Nhà Triệu là một triều đại chính thống, có công với dân tộc Việt Nam, hay Nhà Triệu chỉ là một nhà nước xâm lược?”

(Viết tại Little Sài Gòn ngày đầu Xuân Đinh Hợi 2007)
Song Thuận


Sách Tham Khảo:

  • Đại Việt Sử Ký Toàn Thư - Tập I – Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội – 1998.
  • Việt Nam Sử Lược – Trần Trọng Kim - Nhà Xuất Bản Miền Nam – 1971.
  • Việt Sử Tiêu Án – Ngọ Phong Ngô Thời Sỹ - Văn Sử xuất Bản – 1991.
  • Việt Sử Toàn Thư - Phạm Văn Sơn - Tủ Sách Sử Học - Đại Nam.
  • Lịch Sử Dân Tộc Việt Nam - Quyển I - Phạm Cao Dương - Truyền Thống Việt – 1987.
  • An Nam Chí Lược – Lê Tắc – Nhà Xuất Bản Thuận Hóa – 2002.
  • Sử Trung Quốc – Nguyễn Hiến Lê - Văn Nghệ - 2003.
  • Những Câu Chuyện Việt Sử - Tập 2 - Trần Gia Phụng – Toronto – 1999.
  • Đất Nước Việt Nam Qua Các Đời – Đào Duy Anh – Nhà Xuất Bản Văn Hóa Thông Tin.
  • Một Thế Kỷ Khảo Cổ Học Việt Nam-Tập II-Viện Khảo Cổ Học – Nhà XBKHXH
  • Triệu Đà và nước Nam Việt trong dòng chảy lịch sử Việt Nam – Trương Thái Du - 2005 talawas.

Share this post


Link to post
Share on other sites

TRỐNG ĐỒNG ĐẠI TỘC ĐÔNG SƠN LÀ TRỐNG NÒNG NỌC

(ÂM DƯƠNG).

(Bài nói chuyện trong buổi ra mắt sách Giải Đọc Trống Đồng Nòng Nọc, Âm Dương

Đông Nam Á ngày 13 tháng 7 năm 2008 tại Little Saigon, Orange County, California,

Hoa Kỳ).

Nguyễn Xuân Quang

Kỳ I

NGỮ VỰNG

Đại tộc Đông Sơn

Trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn chỉ chung tất cả các trống đồng

nòng nọc ở Đông Nam Á, tôi thêm hai từ đại tộc vào để phân biệt với cụm từ trống đồng

Đông Sơn của các nhà khảo cổ học Việt Nam gọi riêng loại trống Heger I tức trống Nguyễn

Xuân Quang VI vì loại này tìm thấy nhiều nhất ở Việt Nam. Cũng có khi tôi dùng các từ trống

đồng nòng nọc liên bang Đông Sơn, liên bang Văn Lang hay trống vũ trụ Đông Sơn thay cho

trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn.

Kính thưa quí vị,

Hôm nay, quí vị tới đây chia xẻ với tôi một niềm vui mà tôi cho là một trong những hạnh phúc

lớn trong đời tôi, đây là một ước mơ tôi đã ấp ủ gần 30 năm giờ đã thành sự thật, đó là hai

tập sách ra mắt quí vị hôm nay viết về trống đồng nòng nọc Đông Nam Á.

Ngày rời quê hương, lưu lạc xứ người, tôi bỗng thấy mình là một kẻ lạc loài, trơ vơ giữa một

xã hội xa lạ mà mỗi tộc đều có cái bản sắc riêng của họ và có cái căn cước riêng của họ,

riêng mình thú thật tôi thấy mình sống dật giờ, trôi dạt vì chẳng biết cái căn cước đích thực

của mình là gì? Việt là gì? nguồn cội Việt là gì? bản sắc Việt là gì? Những cái gọi là văn hóa

Việt hiện nay không đủ giúp tôi tìm ra cái căn cước Việt đích thực của mình.

Đây là động lực chính khiến tôi đi tìm nguồn gốc Việt, bản sắc Việt và căn cước Việt. Tôi đã

đi tìm các tài liệu trong sách vở và viết ra quyển Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt, tôi

gọi là Sử Sách. Tôi đã đi tìm các tài liệu trong văn chương truyền khẩu viết ra quyển thứ hai

là Ca Dao Tục Ngữ Tinh Hoa Dân Việt, tôi gọi là Sử Miệng. Qua hai bộ sử này, chúng ta đã

thấy cốt lõi của văn hóa Việt, bản sắc, căn cước đích thực thuần Việt là Vũ Trụ Tạo

Sinh, Vũ Trụ Giáo, Mặt Trời Giáo, là Dịch Nòng Nọc dựa trên nguyên lý lưỡng hợp

nòng nọc, âm dương.

Tác phẩm ra mắt hôm nay dựa trên khảo cổ vật trống đồng Đông Sơn là quyển Sử Đồng. Bộ

sử đồng Đông Sơn này sẽ bổ túc và khẳng định là cốt lõi của văn hóa Việt, bản sắc, căn

cước đích thực thuần Việt đúng như đã nói ở trên. Bộ sử đồng Đông Sơn này chính thống,

đáng tin và thuyết phục nhất vì cốt lõi văn hóa Việt từ hơn hai ngàn năm trước đã khắc ghi

lại trên đồng vẫn còn tinh ròng, nguyên si không bị những thiên tai và nhân tai làm biến đổi,

sai lạc đi.

Kính thưa quí vị, trong công cuộc nghiên cứu trống đồng nòng nọc, âm dương Đông Sơn,

một giây phút thiêng liêng nọ, trong một đêm thanh vắng kia, ngồi chong đèn trước những

tấm hình trống đồng, trong lúc mơ màng, nửa tỉnh nửa mơ, khí thiêng sông núi Việt, hồn Việt,

anh linh cổ Việt đã khiến tôi thấy những chiếc trống đồng rung chuyển, tôi bỗng nghe thấy

tiếng trống đồng âm vang từ ngàn xưa vọng về. Tiếng trống trầm bổng vang dội trong trời

đất. Những tiếng trong, tiếng đục nhịp nhàng mang âm hưởng của hai tiếng “nòng nọc”,

“nòng nọc”, “nòng nọc”.

Người cổ Việt Đông Sơn đã nói cho tôi câu thần chú để mở ra kho tàng vô giá trống đồng

Đông Sơn. Đó là những tiếng “Nòng Nọc”, “Nòng Nọc”, “Nòng Nọc” .

Quí vị có mặt trong buổi ra mắt sách hôm nay, quí vị quả là những người đầy tâm huyết với

nền văn hóa trống đồng siêu đẳng, huy hoàng của đại tộc Đông Sơn, với cội nguồn Việt, với

văn hóa Việt. Qua tác phẩm này, tôi xin trao lại câu thần chú, cái Chìa Khóa mở kho tàng vô

giá trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn cho quí vị và cho cả những quí vị

không có mặt hôm nay nhưng cũng có cùng một tấm lòng như thế. Xin hãy phát huy di sản

trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn vô giá này cho con cháu chúng ta và

khơi sống dậy tiếng trống đồng của đại tộc Đông Sơn cho vang dội khắp năm châu bốn biển

trở lại.

Cái mấu chốt là “Trống Đồng đại tộc Đông Sơn là Trống Nòng Nọc”. Cái chìa khóa để

mở ra kho tàng trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn là Chữ Viết Nòng Nọc.

Kính thưa quí vị,

Trước hết xin nói qua thuật ngữ “nòng nọc” do tôi đặt ra. Nòng nọc có nghĩa tổng quát tương

đương với hai từ Hán Việt âm dương. Tôi dùng từ nòng nọc vì nhìều lý do:

.Trống đồng hở đáy là trống nòng nọc.

.Trên trống đồng nòng nọc, âm dương, những đường nét, hình vẽ thường gọi là “hoa văn” là

một thứ chữ viết nòng nọc và các biểu tượng đều được diễn tả theo ngữ pháp (văn phạm)

của chữ viết nòng nọc và theo Việt Dịch nòng nọc.

.Nòng nọc là hai từ nôm, thuần Việt trong khi âm dương là từ Hán Việt.

.Nòng nọc là hình nòng vòng tròn và hình nọc que là dạng nguyên thủy vì phát gốc từ hình

dáng của bộ phận sinh dục đàn bà và đàn ông như còn thấy qua hình ảnh ở các hình vẽ

trên đá thời tiền sử và qua hình tượng thờ tự linga-yoni của Ấn giáo.

Trong khi Hán Việt âm dương là hai từ bác học, dương là mặt trời, âm là mặt trời bị che mất

hay không có mặt trời, trở thành tối tăm như âm u, cõi âm… âm dương phát gốc từ mặt trời

là hai từ xuất hiện muộn. Văn hóa dựa trên âm dương của Trung Hoa là văn hóa muộn so

với văn hóa Đông Sơn dựa trên nòng nọc nguyên thủy.

.Con nòng nọc là con có thân hình vòng tròn và đuôi hình nọc. Chữ viết nòng nọc là một thứ

chữ viết cổ nhất của nhân loại chỉ gồm có hai chữ cái là chữ Nòng vòng tròn O chỉ âm (theo

biến âm n=v như níu = víu, ta có nòng = vòng) và chữ Nọc hình que chỉ dương.

Kính thưa quí vị,

Chữ viết nòng nọc là cái chìa khóa để mở kho tàng trống đồng nòng nọc, âm dương

của đại tộc Đông Sơn. Đọc được chữ viết nòng nọc là giải đọc được trống đồng

nòng nọc, âm dương.

Vậy thì hôm nay, trong một khoảng thời gian hạn hẹp này, xin mời quí vị cùng tôi thử đọc một

hai chữ viết nòng nọc đơn giản trên trống đồng đại tộc Đông Sơn của đại tộc Việt.

A. Chữ ba vòng tròn

Kính thưa quí vị,

Đây là mảnh của một mặt trống đồng được đào tìm thấy ở huyện Đông Anh, xã Cổ Loa,

thuộc vùng ngoại ô Hà Nội và được đặt tên là trống Cổ Loa II (vùng Cổ Loa đào được hai

trống I và II).

Posted Image

Trống Cổ Loa II.

Trên mặt mảnh trống này có hình ba vòng tròn đồng tâm mà các nhà khảo cổ học gọi là “hoa

văn ba vòng tròn đồng tâm”. Đây chính là một chữ nòng ba vòng tròn trong hệ thống chữ viết

nòng nọc. Như thế hình ba vòng tròn trên trống đồng nòng nọc, âm dương Cổ Loa II có

nghĩa gốc là nòng âm. Đây là một từ thuần nòng, thuần âm (không có nọc) nên ta chỉ lấy

theo nghĩa của ngành nòng hoặc là nòng dương (thiếu âm, khí gió) hay nòng âm (thái âm,

nước).

Bây giờ xin mời quí vị cùng tôi giải đọc chữ ba vòng tròn đồng tâm này để xem

có nghĩa là gì. Có hai cách đọc:

-cách thứ nhất: coi vòng tròn nhỏ tí hon ở tâm là một vòng tròn tương đương với hai vòng

còn lại tức là “ba vòng tròn đồng tâm”.

-cách thứ hai: coi vòng tròn tí hon ở tâm là một cái dấu (marker, accent) giống như dấu

nặng, huyền, hỏi, ngã trong chữ quốc ngữ hiện nay. Dấu này cho biết là nòng, âm hay nòng

âm mang tính chủ yếu. Từ nòng này (“hoa văn” này) đích thực chỉ có hai chữ nòng O tức là

hai vòng tròn đồng tâm và một cái dấu nòng.

1. Bây giờ xin giải đọc theo ba vòng tròn đồng tâm:

Kính thưa quí vị, có nhiều người tò mò muốn biết tôi đọc chữ viết nòng nọc như thế nào? Để

giúp quí vị nắm vững vấn đề hơn, xin nói qua cách đọc chữ viết nòng nọc như thế nào? Sau

đây là một trong những cách tôi giải đọc chữ viết nòng nọc trên trống đồng âm dương. Muốn

đọc một chữ viết nòng nọc trên trống đồng nòng nọc, ta phải mò tìm xem những hình giống

chữ đó (hoa văn đó) hay tương tự như chữ đó thấy từ cổ chí kim có mang một ý nghĩa nào?

Sau đó ta rút ra lấy một ý nghĩa thích ứng. Chúng ta phải đi tìm những hình giống chữ đó từ

thuở con người còn chui hang chưa có chữ viết nhưng đã biết vạch trên mặt đá những hình

vẽ (petroglyph), rồi tới thời con người đã có chữ viết nhưng chữ viết cũng hãy còn ở dưới

dạng những hình vẽ gọi là hình ngữ (pictogram) như linh tự (hieroglyph) của Ai Cập cổ, giáp

cốt văn (viết trên mai rùa và xương thú vật) thấy ở Trung Hoa cổ và cận đại hơn, là chữ viết

của Aztec, Maya, tiếp đến là tìm những biểu tượng trong các tôn giáo lớn ngày nay vì phần

lớn các tôn giáo này là di duệ, con cháu hay liên hệ với Vũ Trụ giáo dựa trên nguyên lý

lưỡng hợp nòng nọc, âm dương, một tôn giáo cổ nhất của nhân loại và cuối cùng là những

hình ảnh thấy trong thời hiện đại, thời chúng ta đang sống.

Nào! Chúng ta hãy khởi sự tìm cách đọc chữ ba vòng tròn đồng tâm.

Xin mời quí vị cùng tôi khởi đi từ thời tiền sử. Chúng ta hãy đi tìm trong các hang động, trên

mặt đá những hình ba vòng tròn xem chúng mang một ý nghĩa gì? Xin mời tới Mường Hoa, ở

thượng du Bắc Việt, ở đây có một hình người có ba vòng tròn ở giữa hai chân.

Posted Image

Hình người có ba vòng tròn giữa hai chân ở Mường Hoa.

Các nhà khảo cổ học Việt Nam hiện nay gọi hình người này là thần. Thần thường chỉ các

bậc siêu phàm ở Cõi Trên, liên hệ với tạo hóa, vũ trụ, với không gian, mặt trời. Tại thung

lũng Val Camonica thuộc vùng núi Alps của Ý cũng tìm thấy một hình người giữa hai chân có

một vòng tròn trong có một chữ thập được cho là người mặt trời hay Thần Mặt Trời.

Posted Image

Người mặt trời hay Thần mặt trời tại thung lũng Val Camonica, Italian Alps (Madanjeet Singh,

f.81).

W.T. Olcott trong Myths of the Sun trích dẫn lại rằng giáo sư Worsaal xác nhận vòng tròn có

chữ thập bên trong là biểu tượng mặt trời thuộc thời đồ đá muộn (later stone age) của vùng

Scandinavia và đây cũng là biểu tượng mặt trời Chaldean. Ta thấy rất rõ là vòng tròn biểu

tượng cho mặt trời. Chữ thập bên trong là do hai que nọc (II) để chồng lên nhau. Hai que

nọc là hai que dùng làm dùi để tạo ra lửa. Hai que nọc là hai dương, thái dương. Vòng tròn

lửa, thái dương là mặt trời. Ngày nay chúng ta dùng hình chữ thập làm dấu cộng cũng có

một nghĩa là dương như phản ứng cộng là phản ứng dương (phản ứng trừ là phản ứng âm).

Đối chiếu người mặt trời lửa này với hình vị thần ở Mường Hoa, ta thấy các nhà khảo cổ học

Việt Nam rất chí lý khi cho đây là một vị thần. Ba vòng tròn ở giữa hai chân người này mang

một ý nghĩa tạo hóa, vũ trụ, mặt trời, không gian. Vị thần Mường Hoa có thể là người không

gian hay người mặt trời âm, mặt trời nước hay ít ra cũng liên hệ với vũ trụ. Xin lưu ý là bộ

phận sinh dục của vị thần Mường Hoa này không thấy rõ, như thế có thể ít nhất 50% vị thần

này là phái nữ thuộc dòng nòng âm. Hình ba vòng tròn ít nhất 50% mang âm tính, mặt trời

nòng, không gian. Trong khi đó, mặt trời chữ thập ta biết rõ trăm phần trăm là mặt trời lửa,

mặt trời nọc, mặt trời dương vì nó dính vào bộ phận sinh dục nam và tay người này cầm cây

lao, một thứ nọc (nhọn).

Ở đây xin bước ra ngoài lề một chút. Ta thấy từ Việt có nghĩa là vật nhọn tức là NỌC : Việt

biến âm với vớt là con dao dài, với vót là que (làm cho) nhọn, với viết là vật nhọn để vạch, vẽ

và theo Hán Việt, Việt là rìu cũng là một thứ vật nhọn. Trong chữ Việt có bộ qua, một thứ khí

giới cán dài họ hàng với cây lao (que nhọn). Qua biến âm với que. Cây lao, cây qua cầm ở

tay người mặt trời nọc Val Camonica này mang hình bóng Việt. Nọc, vật nhọn là đực (heo

nọc là heo đực), là dương, là mặt trời. Vật nhọn là biểu tượng của mặt trời vì thế mà người

mặt trời này cầm cây lao. Như thế ta thấy rất rõ Việt là vật nhọn, Việt là mặt trời. Người Việt

là người mặt trời nọc, dương thái dương. Hùng Vương có Hùng có một nghĩa là Đực như thư

hùng là sống mái (một trận thư hùng là một trận sống mái). Hùng Vương là Vua Đực, Vua

Nọc [nên mới có tên là Lang (là chàng, chàng cũng có thêm nghĩa nữa là đục chisel, một vật

nhọn) và bọc trứng vũ trụ nở ra toàn con trai], là vua mặt trời Nọc, là vua mặt trời thái

dương. Hình ảnh Thần mặt trời Val Camonica này có thể tương đương với “tên” cổ sơ diễn

tả bằng hình vẽ trên đá của vua tổ Việt chúng ta thời tiền sử mà sau này các nhà nho

“chuyển ngữ” qua chữ thánh hiền thành tên Hùng Vương.

Xin bước trở vào lại con đường đang đi của chúng ta.

Tại một hang động ở đảo Kei, Nam Dương có một hình khắc trên đá diễn tả mặt trời ba vòng

tròn đồng tâm nằm trong bộ phận sinh dục nữ.

Posted Image

Hình vạch trên đá tại hang động Dudumahan ở đảo Kei, Nam Dương

(Madanjeet, The Sun, Symbol of Power and Life, f. 313).

Các nhà nghiên cứu biết rõ hình ba vòng tròn đồng tâm trong bộ phận sinh dục nữ này là

một hình mặt trời vì hình vẽ này vẽ trong các cảnh thờ phượng mặt trời cùng chung với

những loại mặt trời khác. Hiển nhiên đây là hình mặt trời nữ. Có người trong chúng ta ngày

nay cho đây là một cách diễn tả tục tĩu và không tin đây là mặt trời nữ. Nhưng nếu ta đối

chiếu với hình mặt trời chữ thập dính vào bộ phận sinh dục nam ở thung lũng Camonica ở

trên thì ta có thể tin đây là mặt trời nữ. Người tiền sử chưa có chữ viết, nên chưa có các qui

tắc ngữ pháp về giống đực giống cái, nòng nọc nên khi chỉ một thứ gì thuộc về phía nọc,

đực, đàn ông thì chỉ việc vẽ thêm vào đó hình bộ phận đàn ông và để chỉ một thứ gì thuộc về

phía nòng, cái, đàn bà thì vẽ thêm vào bộ phận sinh dục đàn bà. Ở đây để chỉ mặt trời đàn

bà họ chỉ cần vẽ mặt trời nằm trong bộ phân sinh dục đàn bà. Nhìn thấy bộ giống ai cũng

biết ngay là cái đực, nòng nọc, âm dương khỏi phải viết “la, le” để phân biệt giống cái, giống

đực thật là rắc rối như các ông Tây Bà Đầm ngày nay. Xuôi dòng thời gian bộ phận sinh dục

đàn bà và đàn ông vẽ giản tiện lại thành hình cái lỗ vòng tròn Nòng và cây que Nọc. Thế là

hai chữ nòng nọc khai sinh ra đời. Ngày nay còn thấy vòng tròn nhỏ và cây que nọc dùng

làm dấu (marker, accent) để chỉ nòng nọc, cái đực, âm dương trên trống đồng nòng nọc, âm

dương (xin mời đọc chương Chữ Nòng Nọc Trên Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á trong

tác phẩm này).

Tiếp đến, bây giờ chúng ta hãy bước vào thời con người có chữ viết nhưng chữ viết hãy còn

là những hình ảnh gọi là hình ngữ. Trong các hình ngữ Ai Cập cổ có linh tự (hieroglyph) Nut

có nghĩa là sky (bầu trời) được diễn tả bằng một hình khung trời hình vung úp xuống trên có

để ba cái bình tròn.

Posted Image

Hình ngữ Nut (sky).

Ba chiếc bình là ba vật đựng biểu tượng cho nòng, âm, là ba nòng, ba âm. Ba bình tròn này

là hình ảnh của ba nòng vòng tròn và là ba bình đựng nước. Tại sao tôi biết rõ đây là ba

bình đựng nước? Trước hết xin thưa, ở trên trời chỉ có mây và nước mưa. Thứ đến là người

Ai Cập cổ thờ mặt trời nhưng là mặt trời đĩa tròn không có tia sáng hình nọc nhọn bắn ra,

nghĩa là mặt trời âm dòng nòng, dòng nước, không gian, Khôn (giống như mặt trời âm hình

đĩa tròn trên lá cờ Nhật, con cháu của Thái Dương Thần Nữ Amaterasu). Thật vậy, người Ai

Cập cổ quan niệm nguyên thủy vũ trụ là một cái biển gọi là Biển Vũ Trụ Nun, trên đó hàng

ngày mặt trời đi từ Đông sang Tây bằng thuyền gọi là thuyền mặt trời (solar barque). Mặt

trời Ai Cập cổ thuộc dòng nòng, nước nên đi đò. Trong khi đó người Trung Hoa cổ là dân võ

biền, giỏi cưỡi ngựa nên thần mặt trời Trung Hoa là mặt trời nọc, dương, hàng ngày cưỡi xe

ngựa đi từ Đông sang Tây. Vì là biển vũ trụ nên bầu vũ trụ là bầu vũ trụ nước, bầu trời là

bầu trời nước. Nước mang âm tính. Như thế ba chiếc bình nước là ba âm thuộc dòng nước.

Ba vòng tròn trong Ai Cập cổ có một nghĩa là nòng âm nước, không gian, vũ trụ nước tức là

ba âm, một khuôn mặt của Khôn âm, nước.

Bây giờ ta bước vào nền văn hóa Trung Hoa có chữ viết cũng là một thứ chữ có nhiều chữ

cổ tượng hình, một thứ hình ngữ. Trong Hán tự có bộ thủy có nghĩa là bộ nước.

Posted Image

Bộ thủy

Chữ Hán nào viết với bộ thủy đều có gốc nghĩa là nước hay liên hệ với nước. Ta thấy rõ bộ

thủy là thể biến dạng của ba giọt nước hình tròn.

Tiếp đến là trong Dịch nòng nọc, hào âm còn viết dưới dạng là vòng tròn, quẻ Khôn là ba

nòng OOO. Khôn dương là khí gió, Khôn âm là nước vũ trụ. Khôn âm là nước vũ trụ thấy rất

rõ qua truyền thuyết và cổ sử Việt. Vua tổ của chúng ta ở cõi trời là Đế Minh tức Đế Ánh

Sáng mặt trời, là cháu ba đời của Thần mặt trời Viêm Đế. Ánh sáng là lửa vũ trụ là Càn được

biểu tượng bằng ba nọc que (III). Linh tự ánh sáng của Ai Cập cổ là hình ngữ vẽ hình mặt

trời tròn có ba tia sáng nọc que (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt). Thần Mặt Trời Viêm

Đế là mặt trời Nọc (I) và Đế Minh là cháu ba đời của Thần Mặt Trời Viêm Đế nên ba đời là ba

nọc III, tức quẻ Càn, lửa vũ trụ. Đế Minh có vợ là Vụ Tiên. Tiên là người đẹp ở cõi trời. Vụ là

con chim le le (tiên ở cõi trời nên được biểu tượng bằng chim) là một loài chim nước, vịt trời

(Thương chồng nấu cháo le le..., ca dao). Le có nghĩa là nước, qua từ láy lỏng le, ta có le =

lỏng. Ta cũng nói chua le, chua lè, chua lét có nghĩa là chua chẩy ra nước. Nước gì ?

Chua chẩy ra nước dãi và xin lỗi quí vị, chua vãi đái ra quần (tại sao chua lại vãi đái ra quần?

xin thưa, ăn chua rùng mình khiến hơi trong bụng ép xuống bọng tiểu làm vãi nước ra quần).

Le le nói theo âm cổ là ne ne (ngày nay ở Miền Bắc Việt Nam, một vài vùng vẫn nói là con ne

ne). Hawaii có chim biểu tượng của tiểu bang (state bird) mình là con ngỗng trời ne ne. Vịt

trời le le và ngỗng trời ne ne ruột thịt với nhau. Vịt trời Vụ Tiên Le Le bay ra tới tận vùng trời

Hawaii. Như thế Vụ Tiên là Khôn âm (ba nòng OOO) có một khuôn mặt là nước vũ trụ.

Chồng lửa vũ trụ Càn hôn phối với vợ nước vũ trụ Khôn. Cũng xin nói thêm một chút nữa ở

đây là chỉ có Dịch còn viết bằng chữ viết nòng nọc với hào âm là nòng O thì quẻ Khôn âm

mới có hình ba giọt nước OOO âm trong khi Dịch Trung Hoa Khôn được diễn tả bằng ba hào

âm bằng hình ba que đứt đoạn. Que đứt đoạn không còn mang hình ảnh giọt nước âm hình

tròn nòng và đã mang hình ảnh que nọc đứt đoạn tức đã dương hóa. Dịch Trung Hoa là Dịch

dương hóa có vào thời phụ quyền cực đoan tức đã muộn. Xã hội con người khởi thủy từ mẫu

quyền Nòng rồi mới chuyển qua phụ quyền Nọc. Dịch với chữ viết nòng nọc trên trống đồng

của đại tộc Đông Sơn là Dịch nguyên thủy và cổ sơ hơn.

Cuối cùng là ngày nay có hình ba vòng tròn đồng tâm diễn tả ba vòng tròn lan tỏa (nước, làn

sóng âm thanh).

Posted Image

Đây là hình ảnh khi ta lấy một hòn đá ném xuống mặt nước, ta sẽ có những vòng tròn lan tỏa.

Tóm lại ta thấy rất rõ hình ba vòng tròn đồng tâm hay là chữ nòng ba vòng tròn đồng tâm

trên trống Cổ Loa II liên hệ với Thần mặt trời dòng nòng âm, không gian ba vòng tròn ở

Mường Hoa, với linh tự bầu trời nước Nut của Ai Cập cổ, với bộ thủy nước của Hán ngữ, với

quẻ Khôn âm nước vũ trụ của Dịch nòng nọc, với ba vòng tròn lan tỏa có nghĩa gốc là ba

vòng tròn lan tỏa trên mặt nước. Trống Cổ Loa II liên hệ với nước, nước vũ trụ, nước từ bầu

trời (tức mưa), nòng Khôn.

2. Giải đọc theo hai vòng tròn đồng tâm và dấu âm vòng tròn tí hon:

Bây giờ ta coi vòng tròn tí hon ở tâm chỉ là một cái dấu cho biết âm mang tính chủ, thuộc

ngành ngoại, mẹ của phía nòng âm. Ta chỉ đọc theo hai vòng tròn OO. Hai vòng tròn là hai

nòng, hai âm tức thái âm, cũng có một nghĩa là nước.

Vắn tắt xin đưa ra một ví dụ điển hình là vị Thần Mưa Chac của Maya. Vị này có một cái mũi

hết sức kỳ dị không giống ai, trên mũi có những chữ ba vòng tròn đồng tâm giống hệt như

trên trống Cổ Loa II.

Posted Image

Thần Mưa Chac của Maya.

Hàng triệu người dân Maya, các nhà khảo cứu Maya đều công nhận Thần Chac là Thần

Mưa của Maya, vậy thì hình ba vòng tròn đồng tâm trên mũi vị Thần Mưa Chac này bắt buộc

phải có nghĩa liên hệ với mưa. Ý nghĩa này ăn khớp trăm phần trăm với ý nghĩa chúng ta vừa

đọc theo ba vòng tròn đồng tâm. Hình ba vòng tròn đồng tâm trên mũi vị thần này cũng là

một chữ nòng trong chữ viết nòng nọc.

Trở lại với hình mặt trời nòng trong bộ phận sinh dục nữ ở đảo Kei, ta cũng có thể đọc theo

hai vòng tròn đồng tâm và dấu nòng o. Hai vòng tròn là hai âm, thái âm có một nghĩa theo

duy âm là nữ, nước. Dấu tí hon o cho biết âm mang tính chủ thì hiển nhiên hai vòng tròn này

mang âm tính chủ có nghĩa là âm, nước và hiển nhiên đi với bộ phận sinh dục nữ thì trăm

phần trăm phải mang âm tính chủ.

Như thế đọc theo hai vòng tròn đồng tâm và dấu âm vòng tròn tí hon cũng cho thấy chữ

nòng trên trống Cổ Loa II có nghĩa là nước, là mưa. Trống Cổ Loa II liên hệ với nước, nước

vũ trụ, nước từ bầu trời (tức mưa), nòng Khôn.

Trống Cổ Loa II là trống mưa, thuộc dòng Nước.

Bây giờ tới giai đoạn kiểm chứng.

Tôi nghiên cứu chữ viết nòng nọc cũng giống như làm một khảo cứu y học, đều phải kiểm

chứng qua, kiểm chứng lại, kiểm chứng xuôi, kiểm chứng ngược, kiểm chứng ngửa, kiểm

chứng sấp…

Kiểm chứng với truyền thuyết và cổ sử Việt.

Trống này đào được ở vùng Cổ Loa. Theo truyền thuyết Việt, An Dương Vương xây thành

Cổ Loa, xây mãi mà không được. Về sau nhờ có Thần Rùa Vàng Kim Qui giúp mới xây được.

An Dương Vương có An là Êm Dịu, Dương là mặt trời và Vương là Vua. An Dương Vương là

Vua Mặt Trời Êm Dịu tức thuộc về dòng mặt trời mang âm tính, dòng nòng, âm, nước. Con

Rùa Vàng là hình bóng của Lạc Long Quân vì thế mà khi giúp An Dương Vương xây thành

xong, con Rùa Vàng trở về biển. Lạc Long Quân có một khuôn mặt là Thần Biển nên mới dắt

năm mươi con xuống biển và có thủy phủ ở vịnh Hạ Long. An Dương Vương là Vua Mặt Trời

Êm Dịu dòng Mặt Trời Nước Lạc Long Quân. Như thế truyền thuyết và cổ sử Việt cũng cho

thấy trống Cổ Loa II thuộc ngành nòng Mặt Trời Êm Dịu An Dương Vương, dòng nước, Mặt

Trời Nước Lạc Long Quân.

Bây giờ có một vị nào đó cho rằng đây chỉ là truyền thuyết nếu có tin thì cũng chỉ tin chút ít

thôi. Nếu vậy, tôi xin mời quí vị về thăm phế tích thành Cổ Loa ở ngoại ô Hà Nội. Phế tích Cổ

Loa là một di tích lịch sử có thể nhìn thấy và sờ thấy được.

Posted Image

Thành Cổ Loa (nguồn Wikipedia)

Thành Cổ Loa có hai vòng thành hình tròn bao bọc bên ngoài. Rõ như dưới ánh sáng mặt

trời hai vòng tròn là hai nòng, là thái âm, có một khuôn mặt âm là nước. Thành Cổ Loa là

của dòng nòng thái âm, nước Mặt Trời Êm Dịu An Dương Vương, là kinh đô của Âu-Lạc.

Vòng thành lớn ở ngoài cùng có đường kính là 8 km. Chúng ta không biết người thời An

Dương Vương dùng đơn vị chiều dài là gì nhưng số 8 là số Khôn tầng 2, Khôn thế gian (Dịch

có 64 quẻ chia ra làm tám chuỗi hay tám tầng, tức mỗi chuỗi, mỗi tầng có 8 quẻ. Các quẻ

cách nhau tám quẻ đề cùng tên và theo Dịch có cùng trị số, chỉ khác ở các tầng ứng với các

tầng của Vũ Trụ Tạo Sinh. Như thế ta có 0, 8, 16, 24, 32… đều là những què Khôn, đều có

trị số như nhau: 0 = 8 = 16 = 24 = 32… S ố 8 = 0, là số không, là hư vô, không gian. Ta cũng

thấy rất rõ là 0 = 32 đúng y như thấy trong nhiệt học 0 độ Celcius = 32 độ Farenheit). Vòng

thành lớn với đường kính là số 8 cho thấy thành Cổ Loa là thành Khôn tầng 2, thế gian tức

liên hệ với Vua nòng Khôn thế gian (tức lịch sử) An Dương Vương.

Ở đây cũng cho thấy trống đồng nòng nọc, âm dương đào được ở Cổ Loa cũng có thể cho

biết trống là tộc biểu của dân vùng đó và trống đồng nòng nọc là một chứng tích của truyền

thuyết và cổ sử Việt. Điểm này cũng thấy đúng với trống Cổ Loa I là trống cũng đào được ở

Cổ Loa, trống có mặt trời 14 nọc tia sáng tức trống Đoài tức Gió dương, Khôn dương. Trống

Cổ Loa I có một vành chim bay có 16 con cò bay. Ta thấy rõ số 16 là số Khôn tầng 3. Như

thế cả hai trống Cổ Loa I và II đều liên hệ với Nòng Khôn (xem Giải đọc trống Cổ Loa I). Điểm

này cũng cho thấy trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn là trống của người

bản địa, không phải từ Trung Hoa hay từ một nơi nào khác đến.

Kiểm chứng với Maya:

Ta hãy kiểm chứng thêm một lần nữa cho chắc ăn. Như đã thấy trên mũi vị Thần Mưa Chac

của Maya có chữ nòng ba vòng tròn đồng tâm giống in hệt như chữ ở trên trống đồng nòng

nọc, âm dương Cổ Loa II. Như thế giữa Maya và tộc An Dương Vương , Âu Lạc có liên hệ

với nhau? Câu trả lời là có. Nếu tôi nhớ không lầm, giáo sư Kim Định cho rằng Maya là một

thứ Bộc Việt. Bộc biến âm với bọc là bao, túi, nang, nòng. Maya là một tộc thuộc dòng Nòng

Khôn giống như An Dương Vương. Nhà văn Bình Nguyên Lộc cho rằng tiếng Maya là tiếng

Hùng Vương đợt II. Đúng hơn, phải nói là tiếng Maya là tiếng An Dương Vương, Âu Lạc.

Hùng Vương đợt II là thời Hùng Vương suy tàn, có thể đã là thời khởi đầu của An Dương

Vương. Tôi, Nguyễn Xuân Quang, trong Tiếng Việt Huyền Diệu, đã chứng minh là Đức Chúa

Jesus Nói Tiếng Việt và một học giả nổi tiếng của Guatemala là ông Antonio Batres Jaurequi

cũng đã chứng minh là Đức Chúa Jesus nói tiếng Maya. Rõ như hai năm là mười, Maya và

Việt liên hệ với nhau. Tiếng Việt và Maya liên hệ với nhau và chẳng cần tìm kiếm ở đâu xa,

sự liên hệ này thấy rất rõ qua tên Maya. Theo các nhà Maya học, Maya có nghĩa là “not

many” (không có bao nhiêu). Ta thấy Maya = Việt ngữ Mấy (không có bao nhiêu như mấy

hơi, mấy sức, sức mấy) và Maya có Ma-, tiếng Maya Ma có nghĩa là Mẹ, chính là Việt ngữ

Mạ, Má. Hiển nhiên Maya là “Not Many”, là Không Có Bao Nhiêu, Không Có Gì, là Zero, là

0, là Không, là Khôn tức Nòng O. Maya thuộc dòng Nòng, Khôn. Nòng Khôn Maya liên hệ

với Nòng Khôn Âu Lạc An Dương Vương là chuyện cũng dễ hiểu vì các thổ dân Mỹ châu từ

đâu tới Tân Thế Giới? Họ đến từ vùng duyên hải Đông Nam Á, Á châu. Văn hóa Maya có nét

đặc thù là hai vòng tròn đồng tâm tức hai nòng, hai âm, thái âm, Khôn âm. Các kiến trúc của

Maya đều có hình hai vòng tròn đồng tâm.

Posted Image

Ảnh chụp tại Chichen Itzá gần Cancun, Mexico cho thấy kiến trúc Maya có hai vòng

tròn đồng tâm.

Vật tổ chính của Maya là con rắn Kucucan cuộn lại thành vòng tròn mang hình ảnh hai vòng

tròn đồng tâm.

Posted Image

Vật tổ Kucucan của Maya.

Posted Image

Trò chơi bóng của Maya dùng thân người hất quả bóng vào cái vòng có hình vật tổ Kucucan.

Từ Kucucan chính là một từ Việt ngữ. Kucu- là chim cúc cu, là chim tu hú, loài chim biết hú

biểu tượng cho gió như thấy qua bài đồng dao Bổ Nông là ông Bồ Cắt (Ca Dao Tục Ngữ

Tinh Hoa Dân Việt). Còn -can đọc thêm hơi vào là Chăn tức con Trăn (người dân một vài nơi

ở miền Bắc Việt Nam ngày nay vẫn nói là con Chăn). Kucucan là Trăn-Tu hú gồm hai tộc là

tộc Gió Tu H ú (thiếu âm tức Khôn dương) và tộc Nước Trăn (thái âm tức Khôn âm). Rõ như

ban ngày Maya thuộc dòng Khôn, Không, “ Not Many” , “Nothing”. Nếu nhìn dưới dạng nhất

thể thì Kucucan là con Trăn-Chim Tu H ú, Trăn Gió (trong khi đó Aztec có vật tổ là con Rắn-

Lông Chim Quetzal-Coatl). Rắn Nước, Trăn Gió liên hệ với Rồng Nước Lạc Long Quân.

So sánh thành Cổ Loa có hai vòng thành tròn với các kiến trúc Maya có hai vòng tròn ta thấy

Maya và Âu Lạc An Dương Vương liên hệ mật thiết với nhau. Và qua sự giống hệt nhau của

chữ nòng ba vòng tròn đồng tâm trên trống Cổ Loa II và trên mũi Thần Mưa Chac cho thấy

người cổ Loa và người Maya gần cận với nhau. Hiển nhiên, chữ nòng ba vòng tròn đồng tâm

trên trống Cổ Loa II phải có một nghĩa là mưa cùng nghĩa với chữ nòng ba vòng tròn đồng

tâm ở trên mũi Thần Mưa Chac.

Tóm Lại

”Hoa văn“ ba vòng tròn đồng tâm trên trống Cổ Loa II là một chữ Nòng trong chữ viết nòng

nọc, có nghĩa là:

-đọc theo ba vòng tròn OOO: ba âm (siêu âm), nước nguyên tạo, tạo hóa, vũ trụ, quẻ Khôn.

-đọc theo hai vòng tròn OO: hai âm (thái âm), nước, mưa dòng Nòng, âm.

Trống Cổ Loa II là trống Mưa, trống Sấm Mưa thuộc dòng Nòng Khôn âm, mặt trời Nước, đối

chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt thuộc ngành An Dương Vương dòng Lạc Long Quân.

Dường như tôi thấy qua ánh mắt, có vị hãy còn chưa tin hết mình. Tôi xin chứng minh thêm.

Quí vị thấy trên mặt trống Cổ Loa II này còn có thêm một tượng con cóc nữa. Con cóc biểu

tượng gì? Con cóc gọi mưa, con cóc nghiến răng chuyển động bốn phương trời, con cóc là

cậu ông trời, con cóc liên hệ với mưa, sấm mưa.

Nếu quí vị còn chưa tin, xin hãy theo tôi hướng dẫn, chúng ta cùng đọc thêm một chữ nữa.

Chữ này có chữ cái nọc que (I), dương. Đó là chữ hình móc câu.

(còn tiếp).

Share this post


Link to post
Share on other sites

TRỐNG ĐỒNG ĐẠI TỘC ĐÔNG SƠN LÀ TRỐNG NÒNG NỌC

(2 - tiếp theo)

(Bài nói chuyện trong buổi ra mắt sách Giải Đọc Trống Đồng Nòng Nọc, Âm Dương Đông

Nam Á ngày 13 tháng 7 năm 2008 tại Little Saigon, Orange County, California, Hoa Kỳ).

Nguyễn Xuân Quang

B. Chữ móc câu

Posted Image

Trên trống Nam Ngãi II có một vành hình người thể điệu hóa (stylized) thành người chim hình móc câu và có những vật hình thoi trong có những hình móc câu. Các nhà khảo cổ học ở Việt Nam hiện nay gọi những hình thoi này là những “vật hình trâm” tức là những vật nhọn như cây trâm cài tóc của phái nữ.

Posted Image

Trống Nam Ngãi II có vành hình người thể điệu hóa thành người chim hình móc câu và có những“vật hình trâm” hình thoi trong có những hình móc câu.

Hiện nay không ai hiểu người thể điệu hóa thành hình chim móc câu và “vật hình trâm” hình thoi này có nghĩa là gì? Hình móc câu này chính là một chữ nòng nọc. Giải đọc được chữ nòng nọc móc câu này là ta biết được người chim móc câu này, “vật hình trâm” hình thoi này có nghĩa là gì và ta suy ra trống Nam Ngãi II là trống gì?

Xin quí vị hãy theo tôi giải đọc chữ móc câu này. Khác với chữ nòng thuần âm ba vòng tròn đồng tâm ở trên, chữ móc câu này có phần thân hình nọc, là chữ nọc nên có mang một yếu tố dương. Phần cong mang âm tính. Vì chữ nòng nọc này có nòng, có nọc, có âm, có dương ta phải đọc theo âm (duy âm), theo dương (duy dương) và theo âm dương nhất thể (âm dương còn quyện vào nhau chưa tách ra làm hai cực âm và dương riêng rẽ) (Oneness, Totality, Unity, Two in One).

Có hai cách đọc:

-Đọc theo hai chữ riêng rẽ nòng O và nọc I:

Trường hợp này chữ móc câu coi như có hai phần là hai chữ riêng rẽ: phần thân thẳng là chữ nọc (I) và phần cong hình móc là chữ nòng O mở ra.

-Đọc theo một chữ duy nhất nòng-nọc nhất thể.

Bây giờ chúng ta hãy

1. - Đọc theo hai chữ riêng rẽ nòng O và nọc I:

O mở ra là dạng nòng O mang dương tính. O mở ra hoặc do chuyển động mở ra, chuyển động là dương (tĩnh là âm) hoặc do hiệp

(accord) với nọc dương nó đi theo (chữ viết nòng nọc cũng hiệp theo tính âm dương giống như Pháp ngữ hiệp theo giống đực giống cái).

a. Đọc theo duy âm (phần cong âm đọc trước: ta có nòng O dương tức nước dương, Mặt Trời Nước, nước chuyển động: mưa, sóng, biển…

Ta hãy lần lượt đi từ cổ chí kim xem hình móc câu có nghĩa là gì?.

.Hình móc câu khắc, vẽ trên đá (petroglyph)

Trước hết ta hãy trở về thời xa xưa xem những hình móc câu này khắc, vẽ trên đá có nghĩa là gì?

Thổ dân Mỹ châu có biểu tượng sấm như sau:

Posted Image

Biểu tượng sấm của thổ dân Mỹ châu.

Biểu tượng sấm này có chữ viết nòng nọc móc câu ở bên trái có nghĩa là nước dương, nước chuyển động tức mưa; hình bên phải có nét ngang bằng ở trên cùng biểu tượng cho bầu trời, Cõi Trên và tia chớp hình chữ S gẫy phát xuất từ bầu trời nét ngang. Chữ S gẫy ba khúc hình chữ “chi” “zigzag” do ba nọc (III) tạo thành tức quẻ Càn, lửa vũ trụ, lửa trời có một khuôn mặt là chớp. Ngày nay hình chữ S gẫy này dùng làm dấu hiệu cho tia chớp, điện cao thế (high voltage). Mưa-chớp là sấm. Ta cũng thấy rất rõ khi phân tích hình ngữ bên phải “chớp từ trời” ta có hai nọc mũi mác (>) là hai dùi làm ra lửa liên hệ với chớp.

.Dấu tích chữ móc câu trong các hình ngữ.

Kế đến ta tìm dấu tích chữ móc câu này trong các nền văn hóa cổ có chữ viết hãy còn là hình ngữ.

.Linh tự N của Ai Cập cổ

Ai Cập cổ có hai linh tự diễn ta mẫu tự N. Một chữ diễn tả bằng hình sóng nước.

Posted Image

Mẫu tự N diễn tả bằng hình sóng nước.

Ta thấy N liên hệ với nước. Điều này thấy rõ trong Việt ngữ, ta có gốc na- là nước như (ruộng nước), (âm cổ của là nước ngọt, nước lã), nác (nước), mẹ như áng ná cha mẹ, nạmẹ như có nạ là mạ thiên hạ (tục ngữ) (mẹ, thuộc dòng âm, nước)… Người cổ Việt có thể đã phát âm N là /na/ là nước (Tiếng Việt Huyền Diệu) .Chữ N thứ hai diễn tả bằng vương miện đỏ (red crown) trên có chữ viết nòng nọc móc câu.

Posted Image

Mẫu tự N diễn tả bằng vương miện đỏ.

So sánh hai chữ N này ta thấy hiển nhiên chữ viết nòng nọc móc câu có một nghĩa là nước. Ở đây vương miện có chóp hình nọc mũi mác (răng sói, răng cưa) mang dương tính. Mầu đỏ của vương miện cũng là mầu nọc, mầu dương. Như thế vương miện cho thấy chữ nòng nọc móc câu rõ ràng là mang ý nghĩa nước dương, nước chuyển động. Chữ N này là chữ N mang dương tính (thái dương của nước dương) trong khi chữ N hình sóng nước mang âm tính (thái dương của nước âm vì sóng là nước chuyển động và nhọn đầu là dương, thái dương). Qua hai linh tự N này ta thấy mẫu tự cũng có âm dương. Vậy thì tiếng nói, ngôn ngữ cũng mang tính âm dương. Tiếng Việt cũng có âm dương (Tiếng Việt Huyền Diệu).

Như đã biết ở trên Ai Cập cổ thuộc dòng mặt trời âm nòng Khôn. Khôn dương là thiếu âm khí gió và Khôn âm là nước. Triều vua có vương miện trắng hình túi thuộc ngành Khôn dương, khí gió, không gian. Vương miện này có chỏm hình nọc dương nhưng đầu tròn (không nhọn) là nọc mang âm tính diễn tả thái dương của âm và màu trắng cũng là mầu âm, mầu khí gió (trong suốt). Triều vua có vương miện trắng này thuộc ngành Khôn dương thái dương, Mặt Trời Gió thái dương.

Posted Image

Trong khi triều vua có vương miện đỏ hình thác nước thuộc ngành Khôn âm, nước. Vương miện đỏ có góc cạnh mang dương tính. Vương miện này có chỏm hình nọc mũi mác nhọn mang dương tính diễn tả thái dương của dương và màu đỏ là mầu dương, lửa, thái dương.

Triều vua có vương miện đỏ này thuộc ngành nước dương, nước lửa, nước thái dương, Mặt Trời Nước thái dương, một khuôn mặt tương ứng với Lạc Long Quân. Hiển nhiên ta thấy chữ viết nòng nọc móc câu trên vương miện đỏ là nước mang dương tính, nước thái dương.

.Chữ vân (mây) trên giáp cốt thời Trung Hoa cổ

Nguồn gốc của Hán tự yún (vân, mây) thấy qua triện văn, cổ văn, kim văn (chữ viết trên đồ đồng còn gọi là chung đỉnh văn) và xa xưa nhất là trong giáp cốt văn đều có chữ viết nòng nọc móc câu hay dạng biến thể của chữ này.

Posted Image

Nguồn gốc của Hán tự yún, vân, mây (Wang Hongyuan, The Origins of Chinese Characters,

Sinolingua Beijing, 2004).

Chữ viết nòng nọc móc câu đẻ ra chữ yún, mây, tiền thân của mưa.

. Mũi hình móc câu của Thần Mưa Chac Maya

Hãy trở lại với cái mũi hình cong như móc câu rất kỳ dị của thần Mưa Chac của Maya. Bây giờ thì ta đã hiểu rõ tại sao. Mũi thần Chac chính là chữ nòng nọc móc câu có một nghĩa là mưa. Mũi chính là tên của Thần Mưa Chac. Ở đây ta thấy rõ là cả thế giới hiện nay và ngay cả người Maya không ai hiểu tại sao thần Chac có mũi kỳ dị như thế. Chữ viết nòng nọc đã giúp giải nghĩa được những điều bí ẩn trong các nền văn hóa cổ của nhân loại. Chữ viết nòng nọc do tôi khám phá ra sẽ mở ra một chân trời mới trong việc nghiên cứu các nền văn hóa cổ của nhân loại. Mũi móc câu của Thần Mưa Chac cũng khẳng định là chữ nòng ba vòng tròn trên mũi của Thần Chac cũng có cùng một nghĩa là mưa, nước. Ta có từ ghép mưa móc (ơn mưa móc) với móc có nghĩa là sương, một hình thức liên hệ với mưa bụi. Theo qui luật từ ghép ta có mưa = móc. Điểm lý thú là chữ viết nòng nọc móc (câu) = mưa. Một điểm cũng cần nói thêm cho đủ ở đây là Dịch thường được suy diễn ra đem dùng vào tướng số. Ta thấy Thần Mưa Chac có mũi móc câu, nhe răng nanh trông thật dữ tợn, độc ác, tà ma bởi vì mưa, sấm thuộc phía âm nên có một khuôn mặt âm nhiều khi thái quá, “âm u” quá trở thành mưa gió, bão tố, thiên tai. Cái mũi móc câu của Thần Mưa Chac có một khuôn mặt tà ma. Nên suy diễn ra, cho rằng xem tướng mũi biết được tính tình, lòng dạ con người. Các mụ phù thủy gian ác của Tây phương thường có mũi khoằm như móc câu. Các bà các cô ngày nay nhiều người đi sửa mũi lại cho ngay thẳng để khỏi bị chê là không… thẳng thắn (!).

.Hình bóng chữ viết nòng nọc móc câu trong các tôn giáo

Tiếp đến ta tìm hình bóng chữ viết nòng nọc móc câu trong các tôn giáo:

-/Vũ Trụ giáo của người Dayak, Borneo, Nam Dương

Người Ngaju, có cây dù payong biểu tượng cho Cây Đời, Cây Tam thế, Cây Vũ Trụ.

Posted Image

Dù payong biểu tượng Cây Tam Thế của người Dayak.

Dù (ô) có ba tầng lá biểu tượng cho Cây Tam Thế. Vòm nóc dù biểu tượng cho vòm không gian, vũ trụ, vòm trời ứng với Cõi Trên, Không Gian, Thượng Thế. Chỏm dù đầu mũi lao nhọn mang hình bóng Núi Trụ Thế Gian ứng với Cõi Đất, Trung Thế. Đuôi dù uốn cong hình chữ móc câu có nghĩa là nước ứng với Cõi Nước, Hạ Thế hay Âm Thế. Thân dù biểu tượng cho Trục Thế Giới thông thương Tam Thế, Ba Cõi. Nếu lật ngược cây dù lên, đuôi móc câu cây dù trở thành hình chiếc mũi của vị Thần Mưa Chac của Maya mang nghĩa

nước ở Cõi Trên tức Mưa.

-/Ấn giáo

Trong Ấn giáo dấu tích của chữ viết nòng nọc móc câu có nghĩa là nước cũng còn thấy ở hình tượng thần Ganesha. Thần Ganesha có bốn tay cầm bốn biểu tượng ứng với Tứ Tượng là Lửa, Gió, Đất và Nước của Vũ Trụ tạo sinh.

Posted ImagePosted Image

Tượng Thần Ganesha của Ấn Giáo.

Tay phải phía trước cầm nọc nhọn như ngà voi biểu tượng cho Tượng Lửa dương, tay trái phía trước cầm cái túi tròn biểu tượng cho Tượng Gió dương, tay trái phía sau cầm rìu lưỡi ngang biểu tượng cho Tượng Đất dương và tay phải phái sau cầm chùy hình lá sen trên có phụ đề những hình móc câu biểu tượng cho Tượng Nước dương. Ảnh hưởng của Vũ Trụ giáo trong Ấn giáo rất sâu đậm (ví dụ như thờ nọc nòng, nõ nường, linga-yoni). Ở đây Thần Ganesha tay cầm bốn biểu tượng của Tứ Tượng mang nghĩa sinh tạo của Vũ Trụ giáo mà ngày nay trong Ấn giáo hiểu sinh tạo theo nghĩa duy tục là may mắn, Thần Ganesha được cho là vị thần may mắn (sinh tạo, sinh sản, sản xuất nhiều là may mắn, Việt ngữ mắn là đẻ nhiều như mắn con, ngày xưa đẻ nhiều là may, là hên, qua từ ghép may mắn ta có may = mắn).

.Chữ viết nòng nọc móc câu trong xã hội ngày nay

Ngày nay hình móc câu cũng biểu tượng cho sóng (nước chuyển động, nước dương).

Posted Image

Sóng diễn tả bằng hình móc câu.

b. Đọc theo duy dương

Phần nọc thẳng đọc trước: ta có nọc-nòng lửa-nước hay chớp-mưa tức sấm. Chữ viết nòng nọc móc câu có một nghĩa liên hệ với sấm và thấy trong các biểu tượng của sấm. Thường thường Thần Mưa và Thần Sấm là một. Điều này thấy rõ là Lạc Long Quân là Thần Biển cũng có một khuôn mặt là Thần Mưa, Thần Sấm Mưa, ứng với quẻ Chấn. Chấn có một khuôn mặt là sấm. Áp dụng qui luật từ ghép vào từ ghép chấn động ta có chấn = động (động là sấm). Lạc Long Quân sấm mưa có hậu thân là ông Sấm Dông Phù Đổng thiên vương. Lạc Long Quân Thần Biển có khuôn mặt Mưa, Sấm Mưa, ban ngày nước biển bốc hơi, ban đêm hơi nước gặp lạnh tụ lại thành mây. Mây bay về núi tạo thành mưa. “Nước đi ra biển lại bay về nguồn” (Tản Đà). Lửa chớp trong mưa tạo thành sấm. Một số nhà làm văn hóa Việt “bi quan” cho rằng thân phận người Việt Nam có định mạng là chia ly, phân tán, dân Việt chia rẽ vì Cha Tổ Lạc Long Quân và Mẹ Tổ Âu Cơ đã chia tay nhau, đã ly thân, ly dị nhau, mỗi người đi một ngả, Mẹ lên núi, Cha xuống biển. Những tác giả “yếm thế” này đều “tán phét”.

Làm gì có chuyện phân ly, chia rẽ (người Việt thuần túy, chính chuyên con Rồng Lạc Long Quân cháu Tiên Âu Cơ không chia rẽ ngoại trừ Việt gian). Đêm đêm Cha Biển Lạc Long Quân biến thành mây bay về nhà ở đầu non “mây mưa”, ân ái với Âu Cơ. Vì thế mà truyền

thuyết mới nói là Thần Sấm có nhà ở đầu non. Làm gì có chuyện Cha Mẹ Tổ của chúng ta ly thân, ly dị.Thần Mưa Chac của Maya cũng như Lạc Long Quân có một khuôn mặt sấm mưa. Theo duy dương mũi móc câu của Thần Mưa Chac liên hệ với sấm mưa. Theo biến âm kiểu chắc chắn, ta có Chac = Chấn (sấm). Vậy Thần Mưa Chac có một khuôn mặt liên hệ với sấm mưa vì vậy mà mặt mày mới dữ chằng như ông thiên lôi. Vì thế mà chữ viết nòng nọc móc câu cũng thấy trong nhiều biểu tượng của sấm, ví dụ như biểu tượng sấm của thổ dân Mỹ châu ở trên và Thổ dân Mỹ châu cũng có con chim biểu nổi tiếng là chim sấm sét hay lôi điểu (thunderbird).

Posted Image

Chim sấm sét lôi điểu của thổ dân Mỹ châu.

Sau cổ chim có hình móc câu có nghĩa là nước chuyển động, mưa. Mỗi cánh có ba nọc que (III) là quẻ Càn, lửa vũ trụ hay chớp. Mưa-chớp là sấm. Thân chim cũng có hình móc câu mưa, đuôi có ba nọc que (III) Càn, lửa vũ trụ hay chớp, gộp lại mưa-chớp cũng là sấm. Con chim sấm sét này có những chữ viết nòng nọc diễn tả sấm mưa.

Tóm lại đọc theo hai chữ nòng và nọc riêng rẽ chữ viết nòng nọc móc câu có nghĩa là nước dương, nước chuyển động như mưa, sóng, biển, liên hệ với sấm mưa…

2. Đọc theo một chữ duy nhất nòng-nọc

Đọc theo cách này, âm dương còn ở dạng nhất thể (âm dương còn quyện vào nhau chưa tách ra làm hai cực âm và dương riêng rẽ), có một nghĩa là sinh tạo, tạo hóa.

.Mũi Phật nhất thể hình móc câu.

Mặt Phật trên tháp Bouddanath, Kathmandu, Nepal có mũi hình móc câu. Theo Phật giáo Nepal mũi Phật hình móc câu có nghĩa là chúng sinh, vạn vật đều ở dưới dạng nhất thể.

Posted Image

Mặt Phật có mũi hình móc câu trên tháp Bouddanath, Kathmandu, Nepal (ảnh của tác giả).

Quan niệm nhất thể này Phật giáo lấy từ Vũ Trụ giáo, từ Dịch lý. Theo Dịch, mọi thứ ở cõi đời này và ở vũ trụ này đều do âm dương sinh ra cả. Ta thấy rất rõ mũi Phật hình móc câu mang nghĩa nhất thể qua sợi dây chuyền cổ (kỷ vật bà xã tác giả mua ở Nepal).

Posted Image

Sợi dây chuyền cổ của Nepal.

Mũi Phật hình móc câu nhất thể tương đương với đĩa thái cực của Trung Hoa hay Trứng Vũ Trụ, với con mắt thứ ba ở giữa trán của Phật có hình vòng tròn có chấm. Đây cũng là linh tự Ra của Ai Cập cổ. Ra là Thần Mặt Trời Tạo Hóa (Sun as Creator) của Ai Cập cổ. Vị thần này lưỡng tính phái, bán nam bán nữ (nhất thể). Ông khạc nhổ ra con gái và thủ dâm ra con trai. Vòng tròn có chấm là một chữ viết nòng nọc có một nghĩa là nhất thể. Vòng tròn là nòng âm và chấm là nọc dương (dưới dạng nguyên thể, sinh tạo). Chữ vòng tròn có chấm thấy rất nhiều trên trống đồng nòng nọc, âm dương. Ngoài ra mũi Phật hình móc câu chính là con số 1 gọi là ek của Nepal. Ek có gốc từ Phạn ngữ eka là 1. Ek ruột thịt với Việt ngữ ít hàm nghĩa là một như thấy qua từ ghép ít một hay một ít, nghĩa là theo quy tắc từ ghép ta có ít = một (Tiếng Việt Huyền Diệu). Ek, eka, ít ruột thịt với Anh ngữ each, mỗi một. Hiển nhiên một là nhất thể. Ta cũng thấy Hán Việt vũ trụ có nghĩa là nhất thể. biến âm với với vỏ là cái bao, cái bọc, cái nang tương ứng với nòng, với bầukhông gian và trụ là nọc biểu tượng cho

mặt trời. Vũ trụ là nòng nọc, âm dương, không gian-mặt trời dưới dạng nhất thể. Điều này cũng đúng với Anh ngữ universe. Uni- là một và -verse là quay về. Lúc khai thiên lập địa mọi thứ đều ở dưới dạng hỗn mang (chaos) sau đó mới quay về một mối, dưới dạng nhất thể gọi là universe. Cuối cùng phần chính của sợi dây chuyền cổ có hình bầu nậm mang một nghĩa là âm dương nhất thể.

Như thế chữ viết nòng nọc móc câu đọc theo một chữ có âm có dương có nghĩa là nhất thể tương đương với đĩa thái cực của Trung Hoa, với Trứng Vũ Trụ, với linh tự Ra của Ai Cập cổ, với chữ viết nòng nọc vòng tròn có chấm, với số 1 của Nepal...Ở đây ta cũng thấy rõ có tác giả cho là đĩa thái cực cũng biểu tượng cho sấm (C.A.S Williams, Encyclopedia of Chinese Symbolism and Art Motives, The Julian Press, NY, 1960).

Vì sấm có biểu tượng là chữ viết nòng nọc móc câu nhất thể, sinh tạo và đĩa thái cực cũng là nhất thể sinh tạo. Hình chữ S phân chia âm dương trong đĩa thái cực ruột thịt với hình móc câu. Ta cũng thấy rất rõ tại sao sấm mang một nghĩa sinh tạo, tạo hóa (tiếng nổ big bang thuở khai thiên lập địa cũng là một thứ tiếng sấm). Lạc Long Quân với khuôn mặt Chấn Sấm có một khuôn mặt Sinh Tạo, Tạo Hóa ở Cõi Tạo Hóa, tương đương với Đế Minh (Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc). Trống là biểu tượng của sấm do đó trống nói chung và nhất là trống đồng nòng nọc, âm dương mang ý nghĩa sinh tạo, tạo hóa, trống đồng nòng nọc, âm dương diễn tả Vũ Trụ tạo sinh và là trống biểu tượng của Vũ Trụ giáo.

Tóm lại

Chữ móc câu là một chữ nòng nọc có nghĩa là:

-đọc theo hai chữ riêng rẽ nòng và nọc: nước dương, Mặt Trời Nước, nước chuyển động, mưa, sóng, biển, sấm...

-đọc theo một chữ duy nhất nòng-nọc có nghĩa là nhất thể, thái cực, trứng vũ trụ, vũ trụ, universe...

Hiểu rõ như thế rồi, ta nhận diện ra hình người thể điệu hóa thành chim hình móc câu và các “vật hình trâm” hình thoi trên trống Nam Ngãi II dễ như trở bàn tay. Người chim hình móc câu là người thuộc đại tộc Mặt Trời Nước. Bằng chứng cụ thể nhất là trên mặt trống có những hình thuyền. Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, tộc này thuộc Âu-Lạc Mặt Trời Êm Dịu An Dương Vương dòng Mặt Trời Nước Lạc Long Quân. Còn dưới bốn đỉnh của vật hình thoi có bốn chữ viết nòng nọc móc câu là bốn nước, bốn mưa và bốn đỉnh nhọn hình thoi là bốn chữ nọc nhọn mũi mác hay răng sói, răng cưa ( >), có một nghĩa là lửa. Bốn đỉnh hình thoi là bốn lửa-nước, bốn chớp-mưa có nghĩa là sấm bốn phương trời. Ở tâm hình thoi có chữ viết nòng nọc vòng tròn có chấm mang nghĩa là vũ trụ, nhất thể, sinh tạo, sấm. Vậy hình thoi biểu tượng cho sấm rền vang bốn phương trời chính là lưỡi tầm sét (sky iron), búa thiên lôi hay

dóng sấm (thunderbolt).

Posted ImagePosted Image

Dóng sấm hình thoi là dạng thể điệu hóa của dóng sấm kép.

Trống Nam Ngãi II là trống muộn nên dóng sấm đã thể diệu hóa tối đa phát gốc từ hình dóng sấm kép (double thunderbolt), ngày nay còn thấy nhiều trong Phật giáo Nepal, Tây Tạng.

Không còn gì để nói nữa, trống Nam Ngãi II có người dòng Mặt Trời Nước, có dóng sấm, búa thiên lôi là trống Sấm Mưa dòng Người Mặt Trời Nước, đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt thuộc liên bang Âu-Lạc An Dương Vương dòng mặt trời Nước, Thần Sấm Mưa Lạc Long Quân. Nếu quí vị nào con nghi ngờ chưa tin thì trống này còn nhiều chi tiết khác nữa để khẳng định trống là trống sấm mưa, vững tin nhất là trống cũng có bốn tượng cóc...

Kính thưa quí vị,

Có một vị nào đó thắc mắc sẽ nêu lên câu hỏi là tại sao trống Cổ Loa II là sấm mưa mà trống Nam Ngãi II này cũng là sấm mưa, vậy thì giữa hai trống có gì khác biệt? Xin thưa như đã thấy là có sự khác biệt giữa hai chữ viết nòng nọc hai vòng tròn đồng tâm có dấu nòng vòng tròn rỗng tí hon trên trống Cổ Loa II có nghĩa là nòng âm nước, phía ngoại mang tính chủ, trong khi chữ viết nòng nọc móc câu trên trống Nam Ngãi II có yếu tố nọc dương có nghĩa là nòng âm nước mang dương tính, phía nội mang tính chủ. Ngoài ra trên trống Nam Ngãi II còn có bốn vành hai vòng tròn đồng tâm có chấm tí hon ở giữa đối nghịch với chữ hai vòng tròn đồng tâm có dấu nòng vòng tròn rỗng tí hon ở giữa trên trống Cổ Loa II. Chấm vòng tròn tí hon đặc là dấu nọc, dương (đặc là đực như tre đặc là tre đực) ngược với dấu nòng vòng tròn rỗng tí hon là dấu nòng âm. Trống Cổ Loa II là trống sấm mưa phía ngoại và trống Nam

Ngãi II là trống sấm mưa phía nội của dòng mặt trời Nước. Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, Trống Cổ Loa II là trống sấm mưa phía ngoại của liên bang Âu-Lạc An Dương Vương và trống Nam Ngãi II là trống sấm mưa phía nội của liên bang Âu Lạc An Dương Vương dòng mặt trời Nước Lạc Long Quân. Ở đây ta thấy dấu chỉ âm dương trong chữ viết nòng nọc rất quan trọng. Ta cũng thấy người chim hình móc câu là người thuộc phía nội của đại tộc Mặt Trời Nước vì hình móc câu quay về phía tay phải tức chiều dương, những người

này di động theo chiều ngược kim đồng hồ tức chiều dương trong khi mũi móc câu của Thần mưa Chac quay về phía tay trái tức chiều âm ăn khớp với chữ viết nòng nọc hai vòng tròn đồng tâm có dấu nòng o tí hon mang âm tính chủ.

Như thế qua hai chữ viết nòng nọc vừa giải đọc xong ta thấy chữ viết nòng nọc là cái chìa khóa để mở ra kho tàng trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn. Đọc được chữ viết nòng nọc là giải đọc được trống. Tất cả những cái gọi là “hoa văn” trên trống đồng đều là những chữ viết nòng nọc, âm dương. Tôi chưa thấy ở một nơi nào, trong bất kỳ một nền văn hóa nào mà có một sự qui tụ nhiều chữ viết nòng nọc như ở trên trống đồng nòng nọc. Trống đồng là quyển Từ Điển chữ viết Nòng Nọc. Chữ viết nòng nọc trên trống đồng nòng nọc được viết với một ngữ pháp tuyệt hảo, rất “có học” trong khi ở những nơi khác viết sai ngữ pháp, rất “i tờ rít”, rất “bình dân học vụ”. Người Đông Sơn là những bậc thầy, bậc sư về chữ viết nòng nọc và Dịch nòng nọc. Trống đồng nòng nọc, âmdương là bộ sách về Ngữ Pháp Chữ Viết Nòng Nọc chuyên chính, chính thống, tuyệt hảo, có thể làm mẫu mực giúp giải đọc một cách chính xác tất cả các nền văn hóa cổ của nhân loại mà hiện nay đang được giải thích sai lạc. Ta biết rõ nòng nọc là nền tảng của Dịch. Trống đồng là bộ Dịch Nòng Nọc bằng đồng, tuy nhiên, đây là bộ Dịch diễn tả bằng hình ảnh duy nhất của nhân loại. Muốn học

Dịch một cách dễ hiểu, dễ nhớ, một cách chính thống không bị “mắc

Dịch” hãy học Dịch bằng hình ảnh trên trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn. Dịch Đông Sơn bằng hình ảnh đã ghi khắc rành rành trên trống đồng không có vấn đề “san định” lại, thêm bớt, nói xàng qua xàng lại, lang ba vi bộ, đi chân chữ bát hay bẻ vụn ra

(triết lý ra).

Kính thưa quí vị,

Tôi đã phải mất hơn 10 năm mới đọc được hết chữ viết nòng nọc trên trống đồng nòng nọc, âm dương. Có những nhóm chữ viết nòng nọc như cái gọi là“họa tiết lông công” trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I chẳng hạn, tôi đã phải mất hơn ba năm mới giải đọc được.

Kính thưa quí vị,

Câu hỏi được đặt ra là sự hiện diện của chữ viết nòng nọc trên trống đồng của đại tộc Đông Sơn đã đủ để kết luận là trống đồng là trống đồng nòng nọc, âm dương chưa? Chắc chắn có vị cho là chưa đủ. Tôi cũng đồng ý như thế. Ta còn cần phải biết thêm bản thể của trống đồng từ hình thức tới nội dung có mang ý nghĩa nòng nọc hay không?

Vậy bây giờ chúng ta hãy xem bản thể của trống đồng ra sao?

(còn tiếp).

geovisit();Posted Image

Share this post


Link to post
Share on other sites

TRỐNG ĐỒNG ĐẠI TỘC ĐÔNG SƠN LÀ TRỐNG NÒNG NỌC

(3)

(Phần 3 bài nói chuyện trong buổi ra mắt sách Giải Đọc Trống Đồng Nòng Nọc, Âm Dương Đông Nam Á ngày 13 tháng 7 năm 2008 tại Little Saigon, Orange County, California, Hoa Kỳ).

Nguyễn Xuân Quang

Bản Thể Trống Đồng Của Đại Tộc Đông Sơn Mang Tính Nòng Nọc.

Kính thưa quí vị,

Trên trống đồng có chữ viết nòng nọc thì bản thể từ hình thức cho tới nội dung của trống đồng phải liên hệ với nòng nọc, âm dương.

A.Hình thức hay thể chất trống đồng của đại tộc Đông Sơn mang tính nòng nọc.

I. Trống đồng là trống nòng nọc, âm dương

Trống đồng có chủ đích là làm với mặt đáy để hở. Trống đồng hở đáy là trống đồng nòng nọc, âm dương. Mặt trống kín, đặc là mặt đực (tre đặc là tre đực). Mặt trống có mặt trời là mặt dương. Mặt đáy hở, hổng là mặt âm. Mặt đáy hở là một vòng tròn trống không, một cái lỗ hổng trống không. Hổng có một nghĩa là không như hổng thèmkhông thèm. Không là trống không, hư không, không gian.Trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn có mặt đáy hở khi để đứng ở vị trí đánh trống là dương khi lật lên thành một vật có mặt hở mang âm tính.

Posted ImagePosted ImagePosted Image

Trống đồng Ngọc Lũ I Cồng, cối hay nồi. Bát hương Tam Thế Bát Tràng (Bảo Tàng Viện Lịch Sử, Hà Nội).

Khi lật ngược lên, trống trở thành cồng (hay gồng), cối hay một vật đựng như nồi mang âm tính. Cồng mang âm tính thấy rõ qua câu tục ngữ lệnh ông không bằng cồng bà và câu:

Muốn coi lên núi mà coi,

Coi bà "Triệu Ẩu" cưỡi voi đánh cồng.

Cồng là khuôn mặt âm của trống đồng vì thế mới nói là cồng (của) và bà Triệu đánh cồng chứ không đánh trống. Khi ta lật ngược một trống Tam Thế, Vũ Trụ Nguyễn Xuân Quang VI tức Heger I hình cây nấm như trống đồng Ngọc Lũ I chẳng hạn (xem chương Cơ

Thể Học Trống Đồng Nòng Nọc, Âm Dương Đông Nam Á) ta có được một cái bát nhang (hương) Tam Thế của Vũ Trụ giáo. Cũng cần nói thêm là ở những bát hương Tam Thế này, theo đạo thờ cúng tổ tiên ông bà của Vũ Trụ giáo chỉ cắm ba cây nhang: một cây dâng cúng cho những bậc siêu phàm, tạo hóa của Thượng Thế, Cõi Trên, một cây dâng cúng cho nhân thần của Trung Thế, Cõi Giữa (nhân thế) và một cây dâng cúng cho thần linh của Hạ Thế, Cõi Dưới và chỉ lạy ba lạy (Phật giáo và các tôn giáo khác có thể cắm ít hay nhiều

nén nhang, lạy ít hay nhiều lạy và giải thích theo cách khác dựa trên giáo thuyết của các tôn giáo đó). Điểm này cũng cho thấy rõ bát hương Tam Thế là một vật thờ thì ngược lại trống đồng nòng nọc, âm dương cũng là một vật thờ Tam Thế, Vũ Trụ của Vũ Trụ giáo.

Tóm lại về vật thể, thể chất trống đồng của của đại tộc Đông Sơn có một nét đặc thù là trống chỉ có một mặt và hở đáy để diễn tả nọc nòng, dương âm. Những trống làm bằng đồng nhưng có hai mặt kín, không hở đáy và không có mặt trời ở tâm trống như trống kiểu

nhà Thương của Trung Hoa không phải là trống đồng nòng nọc của đại tộc Đông Sơn.

Tôi gọi trống đồng của đại tộc Đông Sơn là trống đồng nòng nọc, âm dương là trống có nét đặc thù là làm bằng đồng có mặt trống đặc là nọc, dương và đáy để hở, trống không là nòng, âm.

Như thế, về thể chất trống đồng của đại tộc Đông Sơn có hai khuôn mặt nòng nọc, âm dương, là trống nòng nọc, âm dương.

II. Dùi trống đồng là dùi nòng nọc, âm dương.

Kính thưa quí vị,

Trống mang ý nghĩa biểu tượng thì dùi trống cũng phải mang ý nghĩa biểu tượng. Trống đồng của đại tộc Đông Sơn là trống nòng nọc âm dương, vậy thì dùi đánh trống đồng nòng nọc, âm dương bắt buộc phải là dùi nọc nòng, dương âm. Bắt buộc, bắt buộc và bắt buộc.

Mặt trống dương đi đôi với dùi trống âm và ngược lại. Câu hỏi được đặt ra là dùi trống âm dương có hiện hữu không? Câu trả lời là có. Chứng tích dùi trống có hai khuôn mặt âm dương còn thấy rõ là cặp dùi trống tế, dùi trống thờ (ritual drumsticks) của người Lenapse,

một tộc thổ dân Mỹ châu ở miền Đông Bắc Mỹ châu.

Posted Image

Cặp dùi trống tế của người Lenapse, ở miền Đông Bắc Mỹ châu (Owusu, Heike, Symbols of Native America, Sterling Publishing New York, 1999, p.224-225).

Dùi trống dương đầu bịt kín lại có khắc một khuôn mặt đàn ông. Kín, đặc mang dương tính. Khe chữ V bịt kín lại thành hình tam giác ngược, khi đánh cầm dùi đâm xuống mặt trống âm (có trang trí biểu tượng âm), khe tam giác ngược này trở thành hình tam giác thuận delta, một biến dạng của chữ viết nòng nọc mũi mác, răng cưa, răng sói (/\) có nghĩa là đực, dương, bộ phận sinh dục đàn ông. Dùi trống âm có khắc một khuôn mặt đàn đàn bà có hai bím tóc buông xuống hai bên mặt. Khe để hở mang âm tính. Khe chữ V này cũng cường điệu hơn. Chữ V là một chữ viết nòng nọc có nghĩa là nòng âm, bộ phận sinh dục đàn bà. V là dạng dương hóa, dạng thái dương của chữ viết nòng O. Như đã biết O chuyển động mở ra thành những dạng dương hóa như hình chữ U, chữ V. U là dạng thái dương của O thái dương vì U có hai nhánh đứng là hai nọc, là thái dương) của phía âm, ngoại (âm vì vẫn còn phần đáy bầu tròn mang âm tính), trong khi V là dạng thái dương của O (vì có hai nhánh là hai nọc là thái dương) của phía dương, nội (dương vì có mũi nhọn mang dương

tính, không còn phần nào hình cong mang âm tính nữa). O, U, V có cùng gốc nòng O nhưng khác nhau về tính âm dương. Điều này ta còn thấy rất rõ trong Việt ngữ, ta có O = U = V (ốc tu oa = tu u a = tù và). Người Huế gọi mụ, cô là O, người Bắc gọi mẹ là U và người Bình Định gọi mẹ là Vú (ta có từ láy vú vê nghĩa là vú = vê = V). Rõ như ban ngày O, U, V có cùng gốc nòng O nữ. Ta cũng thấy rõ Việt ngữ ví (ngày nay dùng như một tiếng lóng) chỉ bộ phận sinh dục nữ, Pháp ngữ vagin, Anh ngữ vagina đều khởi đầu bằng chữ V. Dan Brown trong The Da Vinci Code cho rằng Leonard da Vinci trong bức tranh The Last Supper đã vẽ khoảng hở ở giữa Chúa Jesus và vị tông đồ tên John ngồi bên trái Chúa có hình chữ V này, là cố ý dùng làm Code cho biết John là một nhân vật nữ (xem bài đọc thêm The Da Vinci Code và Chữ Nòng Nọc Trên Trống Đồng Nòng Nọc, Âm Dương Đông Nam Á). Leonard da Vinci đã dùng một chữ viết nòng nọc làm code.

Dùi trống đực dùng đánh vào trống cái và ngược lại dùi trống cái đánh vào trống đực cho âm dương giao hòa với nhau. Như thế dùi trống nòng nọc, âm dương là có thật, vậy dùi trống dùng đánh trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn phải là dùi nọc

nòng, dương âm và cũng là một điều có thật. Cũng xin lưu tâm là thổ dân Mỹ châu đến từ duyên hải Á châu nên tín ngưỡng thờ trống và dùi trống âm dương của đại tộc Đông Sơn và thổ dân Mỹ châu Lenapse giống nhau là điều có thể có, nếu không muốn nói là một

chuyện tất nhiên. Thật vậy những cảnh đánh trống trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I và các trống họ hàng cho thấy rõ dùi đánh trống đồng nòng nọc, âm dương cũng có hai khuôn mặt âm dương.

Posted Image

Một cảnh đánh trống trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I.

Ta thấy rất rõ dùi trống rỗng, đầu trên kín là đầu dương và đầu dưới hở là đầu âm.

Dùi trống đồng nòng nọc là dùi âm dương. Thân dùi rỗng cho thấy dùi trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn có thể làm bằng một thân cây rỗng như cây tre, một đầu kín để lại mắt tre là đầu đực và một đầu rỗng cắt bỏ mắt tre là đầu cái. Ống tre thờ của

tộc Kalimantan ở Borneo có thể là một hình ảnh của dùi trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn vì trên ống tre này cũng khắc triết thuyết vũ trụ tạo sinh dựa trên nguyên lý âm dương giống như trống đồng nòng nọc, âm dương. Ống tre cũng là một vật

thờ như trống đồng nòng nọc, âm dương.

Posted Image

Ống tre thờ ở Kalimantan, Borneo (A.B. J. B. Kempers, Plate 22.07).

Dùi trống đồng nòng nọc, âm dương làm bằng thân cây như cây tre giải thích tại sao ngày nay đào được hành ngàn trống đồng nòng nọc, âm dương mà không tìm thấy một chiếc dùi trống nào cả. Lý do hiển nhiên là các dùi làm bằng thực vật đã tiêu hủy với thời gian. Có một vị nào đó sẽ nêu lên thắc mắc là tại sao không làm dùi trống âm dương bằng đồng có một đầu hở một đầu kín? Câu trả lời là làm được trống đồng nòng nọc thì làm dùi trống âm dương bằng đồng không có gì là khó cả. Tuy nhiên người đại tộc Đông Sơn không làm có thể vì một lý do dựa vào đức tin tín ngưỡng. Đó là dùi đồng đánh xuống trống đồng sẽ làm hư mặt trống nhất là làm hư hại mặt trời. Mặt trời là linh hồn, là trái tim của trống và được thờ phượng như một vị thần. Làm hư hại mặt trời được tin là phạm tới đấng thiêng liêng toàn năng, sẽ gặp phải những đại họa khôn lường.

III .Cách đánh trống phải tuân theo luật nòng nọc, âm dương.

Trống đồng là trống nòng nọc âm dương và dùi trống đồng là dùi dương âm, hiển nhiên cách đánh trống đồng phải tuân theo luật âm dương. Qua hình dàn trống trên trống đồng nòng nọc Ngọc Lũ I ở trên, ta thấy rất rõ cách đánh trống trên trống đồng nòng nọc rất đặc biệt không giống cách đánh trống ở bất cứ loại trống nào khác. Người đánh trống cầm dùi thẳng đứng đâm thẳng xuống mặt trời ở tâm trống. Phải dùng đầu âm hở của dùi đánh thẳng từ trên xuống mặt trời dương cho âm dương giao hòa. Cách đánh trống đặc biệt này người Mường gọi là “chàm thấu” (“đâm trống”).

Ngày nay cách đánh trống đồng nòng nọc trong các “festival” ở Việt Nam và ở nhiều nơi khác đều sai cả, thậm chí còn đùng đầu dùi

trống đặc (đực) đánh vào mặt trời dương tức là đánh theo kiểu đồng tính luyến ái nam (gay). Cũng xin lưu tâm là các trống ở hình dàn trống được để trong một cái giá cho phần đáy hở của trống hổng khỏi mặt đất, để không bị mặt đất bít kín lại, có nghĩa là mặt đáy vẫn

hở, vẫn giữ được âm tính, trống vẫn còn là trống nòng nọc, âm dương. Trống để mặt đáy bít kín lại không còn là trống đồng nòng nọc, âm dương nữa. Một điểm nữa là những người đánh trống đồng nòng nọc, âm dương ở hình trên đều ngồi. Vì sao? Vì vị thế ngồi là âm còn đứng là dương. Trống đồng nòng nọc, âm dương để ở vị thế đánh trống tức mặt đực, dương hướng thiên mang dương tính nên ngồi ở vị thế âm đánh trống cho dương âm giao hòa. Trong khi đó cối mang âm tính, giã chầy vào cối phải ở tư thế đứng tức dương cho âm

dương giao hòa.

Nói tóm lại, nhìn dưới diện đại cơ thể học (gross anatomy) trống đồng hở đáy là trống nòng nọc, dương âm. Dùi đánh trống đồng nòng nọc là dùi dương âm và cách đánh trống đồng phải theo luật âm dương. Về hình thức hay thể chất, trống đồng là trống đồng nòng

nọc, âm dương.

.B NỘI DUNG

Chủ điểm nội dung của trống đồng là nòng nọc, âm dương. Ta thấy rất rõ phần trọng tâm, phần chủ yếu, chính yếu của trống đồng là phần tâm trống. Tâm trống của bất cứ trống đồng nòng nọc, âm dương nào của đại tộc Đông Sơn cũng có hình mặt trời có vòng tròn

bao quanh đầu tia sáng. Vòng tròn là vỏ bọc của không gian, vỏ của Trứng Vũ Trụ. Mặt trời là dương, Không gian là âm.

Posted ImagePosted ImagePosted Image

Mặt trời nằm trong không gian mặt trời không gian.

Mặt trời-không gian là nòng nọc, âm dương, là Trứng Vũ Trụ, là Vũ Trụ, Universe, Tạo Hóa. Rõ như dưới ánh sáng mặt trời, chủ thể của trống đồng là nòng nọc, âm dương biểu thị cho Vũ Trụ Tạo Sinh, trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn là giáo biểu của Vũ Trụ giáo.

Sau đây là định lý của tôi về trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn:

Điều kiện ắt có và đủ để một trống đồng được cho là thuộc về họ trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn thì về thể chất hay hình thức, trống đó phải để hở đáy và về nội dung, ở tâm mặt trống đó phải có mặt trời nằm trong vòng tròn

không gian.

Những trống làm bằng đồng không có hai diều kiện trên không phải là trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn.

.Mặt trời nòng nọc, âm dương.

Tổng quát có hai loại mặt trời nòng nọc, âm dương. Mặt trời nọc dương là mặt trời có tia sáng hình nọc nhọn. Còn mặt trời nòng âm là mặt trời hình đĩa tròn không có tia sáng hình nọc nhọn bắn ta ví dụ như mặt trời trên lá cờ Nhật, con cháu của Thái Dương Thần Nữ Amaterasu, như mặt trời Ai Cập cổ đã nói ở trên.

Mặt trời trên trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn cũng mang tính nòng nọc, âm dương. Hầu hết các mặt trời trên trống đồng nòng nọc của đại tộc Đông Sơn đều là những mặt trời có nọc tia sáng mũi mác mang dương tính. Mặt trời đĩa tròn không có ánh sáng mang tính thuần âm (nữ) như mặt trời của Thái Dương Thần Nữ của Nhật không thấy trên trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn vì trên trống đồng nòng nọc, mặt trời bắt buộc phải có cả dương và âm tính. Mặt trời đĩa tròn không có tia sáng mang tính thuần âm (nữ) chỉ thấy trên cồng (cục u tròn trên cồng chiêng có thể có một khuôn mặt là mặt trời thuần âm) và thấy trên gương đồng (gương là biểu tượng của phái nữ). Điều này cũng giải thích tại sao người Nhật thờ mặt trời nhưng không có trống đồng nòng nọc, âm dương vì mặt trời của Nhật là mặt trời thuần âm nữ (trong khi trống đồng nòng nọc, âm dương có khuôn mặt dương mang tính trội vì trống có nghĩa là đực như gà trống và là biểu tượng cho đực, cho ngành mặt trời dương, có nọc tia sáng). Trong mớ tài liệu có trong tay, tôi không thấy một trống nào chỉ có mặt trời hình đĩa tròn thuần âm nữ không có ánh sáng mà chỉ thấy có một mặt trời đĩa tròn mang âm tính nhưng mặt trời này có ánh sáng hình vòng tròn trên trống đồng Đào Xá (xem dưới).

Posted Image

Mặt trời đĩa tròn mang âm tính có nòng ánh sáng trên trống đồng nòng nọc Đào Xá.

.Ánh sáng mặt trời trên trống đồng nòng nọc cũng mang tính nòng nọc, âm dương.

Ngay cả ánh sáng mặt trời trên trống đồng nòng nọc của đại tộc Đông Sơn cũng mang tính âm dương. Có hai loại ánh sáng: ánh sáng dương hình nọc nhọn mũi mác như thấy hầu hết trên các trống và ánh sáng âm hình nòng vòng tròn, như thấy trên trống Đào Xá. Trống này có 6 vòng ánh sáng nòng âm. Số 6 theo Dịch là số lão âm (âm già). Trong 8 quẻ đầu từ 0 đến 7 của 64 quẻ Dịch, ta có những số chẵn là số âm: 0, 2, 4, 6. Số 0 là số âm sơ sinh, số 2 là số âm trai trẻ (ứng với 20 tuổi), số 4 là số âm trưởng thành (ứng với 40 tuổi) và số 6 là số âm già, lão âm (ứng với 60 tuổi, vì thế mới có câu hát “em ơi, có bao nhiêu, 60 năm cuộc đời”), trung bình tuổi thọ của phái nữ ngày xưa chỉ có 60 năm, sau đó coi như là già lão sống được năm nào là được “bonus” năm đó, trong khi đó theo duy dương, số 7 là số lão dương ứng với 70 tuổi, các ông sống được 70 tuổi coi là thượng thọ là vậy). Âm già biến thành dương (đàn bà già không còn kinh trở thành đàn ông, trong khi đàn ông già hết tinh khí, hết hùng khí trở thành đàn bà. Vì thế về già đàn bà “thống trị” đàn ông, điều này thấy rõ nhất ở các “cụ bà” Việt Nam vì xã hội Việt Nam vốn đã theo âm dương đề huề). Số 6 lão âm, âm già mang dương tính cao nhất tức thái dương. Số 6 là số âm thái dương. Mặt trời trên trống Đào Xá là mặt trời âm có ánh sáng nòng âm thái dương (có âm có dương mới thích hợp với trống đồng nòng

nọc, âm dương).

Điểm tối quan trọng cần lưu tâm là loại ánh sáng âm nòng vòng tròn gần như không thấy ở đâu cả ngoại trừ trên trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn. Hai loại ánh sáng âm dương nòng vòng tròn và nọc mũi mác này chỉ thấy đi cặp đôi với nhau trên trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn cho thấy trống đồng của đại tộc Đông Sơn là trống nòng nọc, âm dương. Hai loại ánh sáng âm dương còn ở dưới dạng nòng nọc này trên trống đồng nòng nọc của đại tộc Đông Sơn khẳng định là chữ viết nòng nọc là chữ viết diễn tả bằng hình vòng tròn và hình nọc là có thật, ta thấy được, sờ thấy được (không phải do tôi bịa đặt ra), nền văn hóa Đông Sơn là một nền văn hóa nòng nọc tối cổ hay là di duệ của một nền văn hóa tối cổ của nhân loại.

Tóm lại về thể chất và nội dung trống đồng của đại tộc Đông Sơn là trống nòng nọc, âm dương.

Như thế qua chữ viết nòng nọc, qua hình thức và nội dung của trống, ta đã thấy trống đồng là trống nòng nọc, âm dương, vậy thì tất cả những gì còn lại của trống đồng nòng nọc, âm dương đều phải mang tính nòng nọc. Bắt buộc. Bắt buộc. Và bắt buộc.

Vì thì giờ có hạn, tôi sẽ lướt qua thật nhanh các khía cạnh chính yếu còn lại của trống đồng nòng nọc, âm dương để chứng minh cho quí vị thấy rõ rằng trống đồng một trăm phần trăm là trống nòng nọc, âm dương.

(còn một kỳ nữa).

trích www.hungsuviet.us

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bài viết trên đây chỉ là những nhận xét thô thiển của một cá nhân, với số sách sử tham khảo rất giới hạn. Chúng tôi mong mỏi được quí vị thức giả trong và ngoài nước, có tinh thần tự do, vô tư và không bị hạn chế bởi bất cứ một áp lực chính trị nào, chỉ giáo và đóng góp ý kiến rộng rãi, để làm sáng tỏ vấn đề: “Nhà Triệu là một triều đại chính thống, có công với dân tộc Việt Nam, hay Nhà Triệu chỉ là một nhà nước xâm lược?”

Xin được bày tỏ sự đồng cảm với tác giả - nhà nghiên cứu Song Thuận - tôi luôn khẳng định rằng: Triệu Đà là nhà nước chính thống trong các triểu đại Việt Nam - đây là điều mà tiền nhân đã khẳng định và ghi nhận:

Từ Triệu Đinh Lý Trần xây nên độc lập.

Bình Ngô Đại cáo - Nguyễn Trãi

Phủ nhân điều này là bất kính với tổ tiên, phủ nhận tổ tiên và cội nguồn dân tộc. Khi mà các đại danh nhân của dân tộc đã ghi nhận điều này.

Về mặt khoa học - những tư liệu lập luận của tác giả Song Thuận rất sắc sảo. Để kết luận quốc gia đó thuộc về dân tộc nào không phải chỉ căn cứ duy nhất vào huyết thống của người đứng đầu quốc gia mà còn rất nhiếu yếu tố khác. Thí dụ - Nếu ông Obama trúng cử tổng thống Hoa Kỳ thì Hoa Kỳ là lãnh thổ hải ngoại của Kenya thuộc Châu Phi chăng?

Tôi hy vọng rằng: Sự đóng góp - nhân danh khoa học của mỗi con người Việt Nam trong việc tìm về cội nguồn dân tộc sẽ dần làm sáng tỏ chân lý.

Nhân đây cũng phải cảm ơn Lạc Tường đã cất công "sợt" trên mạng để sưu tầm được những tài liệu này.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Lăng Văn Vương Triệu Mạt

Quốc Vinh, BBCVietnamese.com

Posted Image

Đây là lăng của Triệu Mạt, cháu nội của Triệu Đà. Lăng tình cờ được phát hiện năm 1983 khi xe xúc đất va vào một bức tường đá trong khi đào đất để cất một trung tâm thương mãi tại khu vực nầy ở Quảng Châu. Nhân vật Triệu Đà và nước Nam Việt là những sự kiện quen thuộc trong lịch sử Việt Nam.

Nguồn:http://www.bbc.co.uk/vietnamese/inpictures/story/2006/12/061227_nanyuetomb.shtml

Share this post


Link to post
Share on other sites

Trích đoạn từ bài viết:

Chữ Hán truyền vào Việt Nam từ bao giờ và bằng cách nào?

Vũ Thế Khôi

.................

Nêu ý kiến chữ Hán chỉ bắt đầu được truyền bá (được dạy và học có chủ định) từ vương triều của Triệu Đà, chúng tôi căn cứ 2 sự kiện có trong sử sách Trung Hoa và Việt Nam, đó là:

a) sử gia Việt Nam dẫn sách Thuỷ kinh chú của Trung Hoa, khẳng định rằng dưới triều đại Nam Việt quốc các Lạc tướng của Hùng Vương vẫn cai trị dân như cũ, tức Triệu Đà chủ trương sử dụng các hào trưởng người Việt có uy tín và lực lượng, lại thông hiểu ngôn ngữ và phong tục tập quán địa phương, để quản lý dân Lạc Việt; vậy thì để thông đạt các chiếu chỉ, mệnh lệnh, tất nhiên nhà Triệu phải tổ chức dạy cho họ chí ít biết đọc và viết được chữ Hán, tức là đến thời điểm ấy mới nảy sinh nhu cầu khách quan về một văn tự làm công cụ cho hệ thống hành chính thống nhất bao gồm người Hoa (ở triều đình trung ương) và người Việt (ở phủ, huyện, làng xã).

B) Triệu Đà, để tranh thủ hậu thuẫn của người Việt nhằm xưng đế, cát cứ một phương, độc lập với đế quốc Hán, đã chủ trương dung hợp văn hoá Hoa - Việt, tạo ra những dòng họ hỗn huyết Hoa-Việt và dung hợp tự nhiên hai văn hoá Hoa và Việt.

Sự kiện thứ hai này là nhân tố thuận lợi thúc đẩy việc bắt đầu truyền bá chữ Hán vào đến tận làng xã, chúng tôi đã cố gắng chứng minh chi tiết hơn như sau:

Triệu Đà vốn người Hán ở đất Chân Định, nay thuộc tỉnh Hà Bắc-Trung Quốc, cho Trọng Thuỷ cầu hôn Mỵ Châu đương nhiên nhằm mục đích thôn tính Âu Lạc. Nhưng sau khi đã tiêu diệt triều đình An Dương Vương, theo Sử ký Tư Mã Thiên, Triệu Đà tiếp tục chủ trương đó: dùng Lữ Gia mà chính Sử ký Tư Mã Thiên gọi là "Việt nhân" (đúng hơn phải nói là người Hán đã Việt hoá do sống giữa cộng đồng người Việt, cũng như Lý (Bôn) Nam Đế - V.T.K.) và ghi nhận Gia "làm Thừa tướng 3 đời vua... Con giai lấy con gái vua, con gái lấy con giai, anh em tôn thất của vua...; ở trong nước rất được tôn trọng, người Việt tin ông, nhiều người làm tai mắt cho ông, ông được lòng dân hơn vương". Chẳng những thế, bản thân Đà đã chủ động thích ứng với phong tục, tập quán của người Việt: trong thư dâng Hán Văn Đế (179-156 trước CN) ông viết: "Lão phu ở đất Việt đã 49 năm, hiện đương bồng cháu". Thâm ý của câu đó, họ Triệu khi tiếp sứ thần nhà Hán là Lục Giả, đã giải thích khá cụ thể bằng hành động "xoã tóc, ngồi chò hõ (tức ngổi xổm, chồm hỗm theo phong tục người Việt, chứ không búi tóc, ngồi quỳ gối theo nghi lễ Trung Hoa - V.T.K.) mà tiếp" và cũng khá thẳng thừng đáp lại lời Giả trách Đà "phản thiên tính" (tức quên phong tục mẹ đẻ là người Hán!): "Tôi ở trong xứ mọi rợ lâu ngày, quên hết lễ nghĩa rồi" (tức không theo lễ nghi của người Hán nữa!). Có thể nói rằng họ Triệu và họ Lữ (Lã) là những đại biểu sớm nhất của các dòng họ cổ đại hoà trộn hai huyết thống Việt và Hoa được sử sách ghi lại, tức cũng xác nhận vào thời điểm đó mới bắt đầu hình thành nhân tố thuận lợi thúc đẩy sự truyền bá chữ Hán và giao lưu văn hoá Trung-Việt.

Việc Triệu Đà chủ trương dung hợp hai nền văn hoá Hoa và Việt, gần đây được chính một số học giả Trung Quốc khẳng định. Sau khi tham dự Hội thảo Thâm Quyến, trên đường về qua Quảng Châu, nhân ghé thăm khu mộ của cháu Triệu Đà là Văn Vương Triệu Muội, chúng tôi mua được sách Lĩnh Nam chi quang, miêu tả việc khai quật khu mộ đá này năm 1983. Các tác giả sách viết: Triệu Đà ... "thúc đẩy chính sách dân tộc "hoà tập Bách Việt", xúc tiến quá trình dung hợp dân tộc Hán - Việt và phát triển kinh tế - văn hoá" .

Khách quan mà nói, quan điểm về sự dung hợp hai nền văn hoá Việt và Hoa dưới triều đại Triệu Đà trong toàn cõi Nam Việt quốc đã từng được một số nhà sử học Sài Gòn nêu lên khá sớm, nhưng đúng như nhà sử học Đào Hùng, Phó tổng biên tập báo Xưa & Nay, nhận định trong Lời giới thiệu công trình cực kỳ lý thú của nghiên cứu sinh tiến sĩ năm thứ nhất Đại học Văn khoa Sài Gòn Tạ Chí Đại Trường, xuất bản năm 1989 tại Hoa Kỳ, đến đầu năm 2006 này mới được in lại ở Việt Nam, nhan đề Thần, người và đất Việt: "Trải qua một thời gian dài giới nghiên cứu chúng ta thường bị những động cơ chính trị chi phối nên việc nghiên cứu không thể tránh khỏi những thiên kiến". Có thể nói một trong những thiên kiến như vậy là quan điểm chính thống trong giới sử học miền Bắc coi nhà Triệu là kẻ xâm lược, mà đã là kẻ xâm lược thì phải xấu, không thể có đóng góp gì đáng bàn nữa! Trong công trình nói trên, với một phương pháp nghiên cứu khách quan, không bị lập trường chính trị o ép, nhà sử học Tạ Chí Đại Trường xuất phát từ luận điểm về sự liên tục văn hoá và căn cứ thực tế lịch sử về giao lưu văn hoá của cộng đồng người Việt với Hán, Chămpa và các tộc người khác, đã phát biểu những ý kiến xác đáng, nêu một nhận xét táo bạo, nhưng theo chúng tôi, không phải không có lý, rằng: "Ranh giới Giao [tức Giao Chỉ] - Quảng [tức Quảng Đông, Quảng Tây] còn nhập nhoà trong trận chiến Lý-Tống (1075-1077) khi Lý đem quân qua châu Khâm, châu Liêm có người giúp đỡ, nội ứng...", tức theo ông, trải qua hơn nghìn năm vẫn tồn tại những truyền thống bắt nguồn từ sự dung hợp văn hoá Hoa và Việt từ thời Triệu Đà khiến ít ra một bộ phận dân chúng vùng Lưỡng Quảng không hề mặc cảm đạo quân viễn chinh của Đại Việt là những kẻ dị chủng xâm lược.

Bốn chục năm trước đây, khoảng năm 1962/63, chúng tôi từng được nghe một vị sư già ở chùa Thầy nói xương cốt dưới hang chùa là của binh lính Lữ Gia không chịu ra đầu hàng, bị quân Hán vây đến chết đói ở dưới đó. Ngay ở Hà Nội cho đến năm 1979 vẫn còn phố Lữ Gia (nay là phố Lê Ngọc Hân). Tại một số địa phương trên đất Việt Nam ngày nay dân chúng vẫn thờ Triệu Đà và Lữ Gia. Chẳng hạn, ở làng Đồng Xâm xã Hồng Thái huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình vẫn còn di tích một đền lớn uy nghi, được xếp hạng như di tích thờ vị Tổ nghề chạm bạc truyền thống. Thực ra, Tổ nghề Nguyễn Kim Lâu chỉ được thờ trong một cái am nhỏ ở địa điểm khác. Đây cũng lại là một bằng chứng về cái sự "bị động cơ chính trị chi phối", khiến người ta phải làm sai lệch sự thật về ngôi đền này, bất chấp thư tịch lịch sử và địa chí. Danh sĩ cuối đời Lê là Hoàng giáp Ngô Thì Sĩ (1726-1780) viết rành rành trong công trình nổi tiếng Việt sử tiêu án: "... làng Đường Xâm quận Giao Chỉ (nay là Đường Xâm huyện Chân Định) có miếu thờ Triệu Đà..." Huyện Chân Định sang triều Nguyễn thuộc phủ Kiến Xương tỉnh Nam Định, đến năm 1894, phủ Kiến Xương cắt về tỉnh Thái Bình mới lập, sau bỏ phủ, đổi gọi là huyện Kiến Xương. Năm 1924 nhà địa dư học Ngô Vi Liễn còn ghi ở chương "Tỉnh Thái Bình" trong sách Địa dư các tỉnh Bắc kỳ : "Đền Triệu Vũ Đế ở làng Thượng Gia, phủ Kiến Xương, hội về ngày mồng 1 tháng tư"). Cũng sách của Ngô Vi Liễn cho biết: làng Thượng Gia thuộc tổng Đồng Xâm (sách đời Nguyễn Gia Long còn gọi là tổng Đường Xâm).

Tâm thức dân Việt không phải ngẫu nhiên vẫn tôn thờ Triệu Đà. Ngoài công "hoà tập Bách Việt", phát triển kinh tế và văn hoá, biến cả miền Lĩnh Nam thành ánh hào quang (=Lĩnh nam chi quang), họ Triệu đã Việt hoá từng cùng dân Việt chống ngoại xâm. Sử ký Tư Mã Thiên viết rằng thời Triệu Minh Vương (chắt của Triệu Đà) con là thái tử Anh Tề phải vào làm con tin tại triều đình nhà Hán, lấy gái Hán ở Hàm Đan họ Cù, đẻ ra con trai là Hưng, sau được nối ngôi, nên Cù thị trở thành thái hậu Nam Việt quốc; hồi còn trên đất Trung Quốc, đã là vợ Anh Tề, Cù thị vẫn dan díu với người huyện Bá Lăng là An Quốc Thiếu Quý, nay thấy Thiếu Quý sang làm sứ giả, lại cùng gian dâm, rồi khuyên vua quan Nam Việt xin "nội thuộc" nhà Hán... "bọn Lữ Gia bèn làm phản, ra lệnh trong nước: "Vương tuổi còn trẻ, thái hậu là người Trung Quốc, lại dan díu với sứ giả, chỉ muốn nội thuộc...". Lữ Gia bèn cùng em đem quân đánh giết vương, thái hậu cùng các sứ giả của nhà Hán...; lập Vệ Dương hầu Kiến Đức, người con trai đầu của Minh Vương, vợ (Đại Việt sử ký toàn thư ghi "mẹ" - V.T.K.) là người Việt, làm vua..., đem quân đánh bọn Thiên Thu (tướng nhà Hán), diệt được họ cách Phiên Ngung (nay là Quảng Châu) 40 dặm. Gia sai người phong gói cờ tiết của sứ giả để ở cửa ải, khéo nói dối để tạ tội, rồi đem quân đóng giữ những nơi hiểm yếu" (chúng tôi nhấn mạnh - V.T.K.) .

Rõ ràng vương triều họ Triệu cùng vị Thừa tướng "Việt nhân", "được lòng dân hơn vương", là những người đầu tiên , trước Hai Bà Trưng cả 144 năm, đã chống quân xâm lược nhà Hán. Cuộc kháng chiến của họ dẫu được dân Việt ủng hộ, vẫn thất bại do tương quan lực lượng quá chênh lệch ở thời buổi nhà Hán vừa mới diệt Tần lên làm chủ Trung Hoa, đang trở thành một đế chế hùng mạnh. Nhưng cũng như một người xưa, Tiến sĩ Vũ Tông Phan, đã viết về Hai Bà Trưng trên tấm bia lập năm 1840, hiện vẫn dựng giữa sân đền thờ Hai Bà ở Đồng Nhân-Hà Nội: "Việc làm của kẻ trượng phu không thể lấy thành hay bại mà bàn luận" .

Sử sách nước ta qua các thời đại khác nhau có quan điểm khác nhau về vương triều Nam Việt. Đại Việt sử lược, bộ sử thời Lý-Trần (TK XII-XIII) chép "Nhà Triệu" ngang hàng với các "Nhà" Ngô, Đinh, Lê (Đại Hành), Lý. An Nam chí lược (đầu TK XIV), do Lê Tắc viết trên đất Trung Quốc nên không dám dùng chữ "kỷ" mà Tư Mã Thiên chỉ dành riêng cho các triều đại hoàng đế Trung Hoa, gọi Triệu là "thế gia" ("Triệu thị thế gia") ngang hàng các "thế gia" Đinh, Lê, Lý, tức vẫn coi là một triều đại thuộc sử Đại Việt. Nguyễn Trãi coi quốc thống Đại Việt trước nhà Lê gồm cả Triệu, Đinh, Lý, Trần. Trong Bình Ngô đại cáo năm 1427 ông tuyên bố:

Xét như nước Đại Việt ta,

Thực là một nước văn hiến.

Cõi bờ sông núi đã riêng,

Phong tục Bắc Nam cũng khác.

Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước.

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên đều chủ một phương.

Theo tinh thần đó Đại Việt sử ký toàn thư chép nhà Triệu như một triều đại chính thống của Đại Việt. Đến cuối thế kỷ XVIII, Việt sử tiêu án và Đại Việt sử ký tiền biên của Ngô Thì Sĩ phê phán chép sử Việt như thế là sai và đưa nhà Triệu ra ngoài, gọi riêng là "ngoại thuộc", để phân biệt với giai đoạn "Bắc thuộc" sau này, khi nước ta "nội thuộc" Trung Quốc. Quốc sử quán triều Nguyễn theo như thế, có lẽ còn vì lý do năm 1804 vua Gia Long xin đặt quốc hiệu là "Nam Việt", nhưng hoàng đế nhà Thanh không chuẩn cho, hẳn e ngại sự tái diễn việc cầu hôn một công chúa Trung Hoa và xin lại đất Lưỡng Quảng mà Quang Trung đã đặt ra. Để rạch ròi, triều Thanh đề nghị quốc hiệu "Việt Nam", nhưng vua Gia Long không chấp thuận, tự đặt quốc hiệu là Đại Nam. Đến đầu thế kỷ XX, khi nước ta đã thành thuộc địa của Pháp, quyền uy Trung Hoa không còn tác dụng nữa, sử gia Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược (viết 1919, in 1921) mới lại đưa "nhà Triệu" vào quốc thống Đại Việt.

Nguồn: http://www.phamthihoai.org

Share this post


Link to post
Share on other sites

Ghi chép thêm về nguồn gốc dân tộc Việt Nam

Cung Ðình Thanh, Nguyễn Văn Tuấn, Nguyễn Ðức Hiệp

I.Có lẽ, phát biểu rằng thế kỷ 21 là thế kỷ của văn hóa chắc không quá đáng, bởi vì một khuynh hướng chung hiện nay là các quốc gia trên thế giới đang (hay sắp) qui tụ với nhau thành nhiều nhóm dựa trên văn hóa, mà không dựa trên ý thức hệ (như Chủ nghĩa Cộng sản và Chủ nghĩa Tư bản trong thời gian qua). Trong thế kỷ 21, người ta sẽ hỏi "Anh là ai", thay vì "Anh thuộc phe nào" trong thế kỷ vừa qua. Tức là một sự chuyển biến về nhận dạng từ ý thức hệ sang văn hóa.

Nhưng câu hỏi "Chúng ta là ai" tuy đơn giản, câu trả lời thì không đơn giản chút nào. Tổ tiên chúng ta xuất phát từ đâu, họ đến Việt Nam bằng cách nào, vẫn còn là những vấn đề khoa học, đòi hỏi nhiều nghiên cứu về di truyền học, khảo cổ học, và ngôn ngữ học. Từ thập niên 60 thế kỷ trước, nhiều người, nhất là giới trẻ, đã khao khát muốn tìm về nguồn gốc dân tộc. Nhiều đoàn thể đã tự chọn cho mình cái mục tiêu "về nguồn". Đến khi chiến tranh trên quê hương chấm dứt năm 1975, rồi cả triệu người phải bỏ nước ra đi, sự khao khát tìm về cội nguồn trong những người xa quê hương này lại có phần gia tăng, dù người ta đã phải vất vả nhiều hơn cho cuộc sống mới.

Nhưng khi tìm trong cổ sử Việt, về đời sống tinh thần của người xưa, để thực hiện việc về nguồn này, người ta chỉ gặp một cảnh hoang sơ: ngoài một số truyền thuyết, và những lời răn thực tế trong tục ngữ ca dao, những tác phẩm để lại, phần lớn do người ngoại quốc viết, thường đã bị khoa học ngày nay vượt qua từ lâu, không kể một số không ít đã được sáng tác với dụng ý xuyên tạc sự thực, bôi bác nguồn gốc dân tộc, hạ thấp giá trị văn hóa cổ truyền. Trong cảnh tiêu sơ đến thảm hại đó, cũng đã xuất hiện vài quyển sách có thiện ý muốn viết lại cho trung thực nguồn gốc dân tộc mình (1). Nhưng được thực hiện trong hoàn cảnh tư liệu thiếu thốn, các sách này chưa đạt được mục đích, vả cũng đã nhanh chóng bị khoa học ngày nay vượt qua. Ở trong nước, nhờ có đội ngũ những nhà biên khảo khoa học xã hội đông đảo, có những cơ quan chuyên nghiên cứu về triết học, văn hóa và khoa học xã hội có tổ chức, nên có được nhiều biên khảo chuyên ngành và công phu hơn. Nhất là về phương diện khảo cổ, từ thập niên 60 (thế kỷ trước), ngành này đã đạt được những kết quả vô cùng ngoạn mục. Nhưng những tác phẩm nghiên cứu có hệ thống và khoa học vẫn còn cực kỳ ít, ngoại trừ tập một vài tác phẩm mới xuất bản gần đây (2). Đặc biệt về phương diện triết học tư tưởng, nhiều hội nghị đã được triệu tập, nhưng vẫn đi đến kết luận hết sức lạ lùng là: trong hoàn cảnh tài liệu hiện tại, còn quá sớm để có thể hình thành một tác phẩm loại này(3).

Trong bối cảnh như vậy, chúng tôi, một nhóm tư nhân rất thiếu phương tiện, nhưng đã quyết tâm làm việc trong hoàn cảnh thiếu thốn, không có tài trợ từ bất cứ nguồn nào, đã tự cho mình trách nhiệm góp phần trong việc soạn thảo những tài liệu cung ứng cho khát vọng tìm về cội nguồn, mà chúng tôi biết trước là rất khó khăn, này. Một tập san mang tên Tư Tưởng, với mục đích phi thương mại, chỉ lưu hành trong nhóm thân hữu và các nhà biên khảo có lòng với văn hóa dân tộc, sống rải rác khắp mọi nơi trên thế giới, đã được phát hành từ đầu năm 1999 để làm cây cầu nối những ai muốn thực hiện con đường tìm về cội nguồn. Đến nay Tập san đã ra được 19 số.

Cách đây không lâu, Giáo sư Stephen Oppenheimer, một nhà nghiên cứu y học nhưng từng nghiên cứu về thời tiền sử, có xuất bản quyển sách "Eden in the East" bàn về văn minh Đông Nam Á. Cuốn sách làm chấn động giới nghiên cứu tiền sử Đông Nam Á. Nhận thấy quyển sách có tầm quan trọng đặc biệt đối với việc tìm hiểu nguồn gốc dân tộc, nên một người trong nhóm chúng tôi (Gs. Tiến sĩ Nguyễn Văn Tuấn) có viết một bài điểm sách, và nhân đó, đưa đề nghị "Đặt lại vấn đề nguồn gốc dân tộc và văn minh Việt Nam" đăng trên Tập San Tư Tưởng số 15 tháng 8 năm 2001. Bài điểm sách đã được nhiều tạp chí trong và ngoài nước in lại, và chúng tôi đã nhận được khá nhiều góp ý cũng như phê bình. Vấn đề đặt ra được sự hưởng ứng nồng nhiệt của nhiều người ở trong cũng như ngoài nước. Trong số những tác giả đã khai triển thêm đề tài này bằng những bài phê bình hết sức xây dựng, Tác giả Nguyễn Quang Trọng, trong bài "Về nguồn gốc dân tộc Việt Nam và "Địa đàng ở phương Đông" của Oppenheimer" (Hợp Lưu, số 64) là đáng bàn thảo thêm, và đó cũng là đề tài chính của bài viết này của chúng tôi.

Chúng tôi cám ơn tác giả Nguyễn Quang Trọng và các tác giả khác đã bỏ công viết những bài thảo luận có giá trị về vài điều mà chúng tôi đã nêu ra một cách vắn tắt trong bài điểm sách. Bởi bài viết trước của chúng tôi nằm trong dạng "điểm sách", nên chúng tôi không có cơ hội khai triển thêm những điều đã phát biểu. Trong bài này, chúng tôi muốn trình bày thêm một vài quan điểm chung quanh những ý kiến của tác giả Nguyễn Quang Trọng, và chắc cũng là ý kiến của một số bạn đọc quan tâm khác. Cố nhiên, có một số điểm chúng tôi sẽ không đề cập đến, không phải vì chúng tôi đồng ý (hay không đồng ý) với tác giả, mà chỉ vì muốn hạn chế trong phạm vi những điều có liên quan đến bài điểm sách của chúng tôi.

<H3 class=spip>II.</H3>Trước hết, chúng tôi muốn bàn và phát triển thêm những điểm trong bài viết của Nguyễn Văn Tuấn mà tác giả Nguyễn Quang Trọng cho rằng có thể gây ngộ nhận :

Thứ nhất, về giả thuyết người Hòa Bình tràn lan về phía Nam (Indonesia), lên hướng Bắc (Trung Hoa) và sang hướng Tây (Thái Lan), tác giả Nguyễn Quang Trọng, tuy không bác hẳn, nhưng tỏ vẻ không đồng ý với quan điểm này vì có hàm ý văn hóa Hòa Bình (Bắc Việt) còn trẻ hơn các văn hóa kể trên. Dụng cụ đá ở Hòa Bình có niên đại trẻ hơn dụng cụ đá ở Úc Châu, và "Theo tôi (NQT), chữ "người Hòa Bình" dùng cho các di tích ở nơi khác không có nghĩa là người Hòa Bình - Bắc Việt - vào thời điểm đó (7.000 đến 12.000 năm trước) đã tràn lan đến những nơi khác như Thái Lan, Indonesia, Úc, Trung Hoa".

Thực ra, niên đại văn hóa Hòa Bình là một vấn đề đương đại, vì cho đến nay các nhà nghiên cứu vẫn chưa nhất trí. Cụm từ "Văn hóa Hòa Bình" được giới khảo cổ học chính thức công nhận từ ngày 30-01-1932, do đề xuất của Madeleine Colani, sau khi đã được Đại hội các nhà Tiền sử Viễn Đông họp tại Hà Nội thông qua. Khởi thủy, cụm từ này được dùng để nói đến nền văn hóa cuội được ghè đẽo trên khắp chu vi hòn cuội để tạo ra những dụng cụ từ thời đá cũ đến thời đá mới (Choppers, hay chopping tools). Qua thời gian, tất nhiên cụm từ này đã được đề nghị mang những tên khác nhau và có những ý nghĩa cũng khác nhau. Lúc đầu, nó chỉ nói về nền văn hóa có khoảng không gian là Bắc phần Việt Nam, và khoảng thời gian không quá 5.000 năm trước đây (4). Nhưng khoảng không gian lẫn thời gian trên được nới rộng dần. T. M. Matthews có lẽ là người đầu tiên đã đem Văn hóa Hòa Bình vượt khỏi lãnh thổ Việt Nam đến các vùng Đông Nam Á, và rồi người ta nói đến Văn hóa Hòa Bình ở Miến Điện, Kampuchia, Lào, Mã Lai Á, Sumatra, Thái Lan, Ần Độ, Tứ Xuyên ... Nhưng có lẽ không ai mở rộng ảnh hưởng của Văn hóa Hòa Bình bằng Gs. W. G. Solheim II. Về không gian, ông đã đưa Văn hóa Hòa Bình, phía Đông Bắc đến Phi Luật Tân, Nhật Bản, phía Tây đến Thái Lan, phía Nam đến tận Úc Đại Lợi và phía Bắc bao trùm cả hai nền văn hóa cổ của Trung Hoa là Ngưỡng Thiều (Yan Shao) và Long Sơn (5). Về thời gian, ông không định rõ, nhưng tuyên bố không ngạc nhiên nếu thấy việc thuần hóa cây lúa nước đã có tại Hòa Bình từ 15.000 năm trước Công Nguyên, và những dụng cụ đá mài có lưỡi bén tìm thấy ở Bắc Úc Châu có tuổi khoảng 20.000 năm trước Công Nguyên đo bằng C14 có nguồn gốc từ nền Văn hóa Hòa Bình. Đấy là chưa kể đến dự phóng của ông về niên đại Hòa Bình lên đến 50.000 năm trước khi ông viết "Đông Nam Á và tiền sử học thế giới" đăng trong Viễn Cảnh Châu Á, tập XIII năm 1970 (6). Riêng trong phạm vi nước Việt Nam ngày nay, Văn hóa Hòa Bình được khoa học khảo cổ phân chia thành ba thời kỳ:

• Hòa Bình sớm hay Tiền Hòa Bình, có niên đại tiêu biểu là di chỉ Thẩm Khuyên (32.100 ± 150 trước Công Nguyên (TrCN)), Mái Đá Điều, Mái Đá Ngầm (23.100 ± 300 TrCN).

• Hòa Bình giữa hay Hòa Bình chính thống, tiêu biểu bởi di chỉ Xóm Trại (18.000 ± 150 BC), Làng Vành (16.470 ± 80 TrCN).

• Hòa Bình muộn, tiêu biểu bằng di chỉ ở Thẩm Hoi (10.875 ± 175), Sũng Sàm (11.365 ± 80 BP, BLn - 1541/I).

Tính cách rộng lớn và phức tạp của Văn hóa Hòa Bình đã đến độ có đề nghị đổi tên Văn hóa Hòa Bình thành Phức hợp Kỹ thuật Hòa Bình (7). Chúng tôi đồng ý cụm từ "Văn hóa Hòa Bình" nay được dùng để chỉ nền văn hóa đá mới có đặc tính chung rộng khắp tại Đông Nam Á, Bắc lên đến Nhật Bản, Nam xuống tận Úc Châu, và không nhất thiết nó phải phát xuất từ Hòa Bình, Việt Nam. Nhưng văn hóa thiên di theo con người, và gần đây đã có dữ kiện di truyền học cho thấy có lẽ người Đông Nam Á, gần gốc Phi Châu hơn Đông Bắc Á và người Việt Nam có lẽ là sắc dân cổ nhất của Đông Nam Á (chúng tôi sẽ bàn thêm về điểm này trong phần sau).

Thứ hai, có phải kỹ thuật làm đồ đồng thau (dụng cụ, vũ khí) của cư dân Đông Sơn có trình độ cao nhất, nhì thế giới? Tác giả Nguyễn Quang Trọng không đồng ý với phát biểu này của chúng tôi, ông cho rằng trình độ đúc đồng của cư dân Đông Sơn (từ 700 năm trước CN về sau) quả rất cao, nhưng không thể nói là cao hơn các nơi khác, nhất là những nơi này đã có kỹ thuật đúc đồng xưa hơn Đông Sơn rất nhiều. Tác giả nêu một thí dụ về kỹ thuật đúc đồng ở Sanxingdai (Bắc Trung Hoa) cổ hơn Đông Sơn mấy ngàn năm, Thái Lan, xưa hơn Đông Sơn 1.000 năm, và ở các nơi khác như Irak, Ai Cập, vùng Cận Đông cũng sớm hơn Đông Sơn rất nhiều.

Rất tiếc là tác giả không dẫn chứng được những niên đại chính xác ("mấy ngàn năm" là mấy ngàn? Sớm hơn là sớm như thế nào?), và nguồn gốc của những dữ kiện được nêu ra. Nhưng chúng ta cứ giả thiết kỹ thuật đồng của những nơi này đã có trước mấy ngàn năm, cái niên đại 700 năm trước CN (mà ông gắn cho là niên đại của văn minh Đông Sơn) đi nữa, thì cũng không chắc đã có trước kỹ thuật của văn minh Đông Sơn, bởi một lẽ giản dị, niên đại 700 trước CN chỉ là niên đại của Đông Sơn trễ, Đông Sơn trẻ nhất.

Như sẽ được dẫn chứng dưới đây, Văn hóa Đông Sơn kể từ thời Phùng Nguyên cho đến nay, vẫn có thể coi là nền văn hóa đồng thau có niên đại xưa nhất so với niên đại văn hóa đồng thau ở các nơi khác trong vùng Đông Nam Á và Đông Bắc Á. Bốn nhà nghiên cứu có uy tín khác viết về Văn hóa Đông Sơn đầu tiên ở Việt Nam là V. Gouloubew, R.H. Geldern, B. Karlgrenvà O. Jansé, đều lầm khi cho nền văn minh độc đáo này có nguồn gốc ngoại lai, từ nơi khác truyền đến. Người thì cho nó bắt nguồn từ Trung Hoa; người đi xa hơn, cho nó bắt nguồn từ văn minh Hallstatt ở Ấu Châu, truyền qua vùng thảo nguyên Ấu Á, đến Trung Hoa trước khi truyền vào Đông Sơn (8). Có người lại dựng lên một nguồn gốc xa xôi từ văn minh Mycèle Hi Lạp và theo một hành trình rất nhiêu khê qua trung gian các nền văn minh Trung Ấu, rồi Trung Á, đến đây mới chia hai ngả, một theo đường Tế Xuyên, Vân Nam truyền vào Việt Nam, và một theo lưu vực sông Hà, sinh ra văn hóa đồng thau đời nhà Thương ở Trung Hoa (9). Những nhận xét này tuy có tính ngạo mạn, nhưng có thể hiểu được, bởi lúc đó chưa phát hiện được những nền văn hóa đồng thau nội địa xưa hơn và là tiền thân của văn hóa đồng thau ở Đông Sơn, kể từ Phùng Nguyên, nên các nhà nghiên cứu trên cứ nghĩ, văn hóa đồng thau tìm thấy ở Đông Sơn, là văn hóa đồng thau duy nhất tại Việt Nam. Thực ra, đồng thau tìm thấy ở Đông Sơn chỉ là giai đoạn chót của một nền văn hóa đồ đồng đã có lâu đời ở Việt Nam kể từ Phùng Nguyên. Hơn nữa, thời đó khoa học chính xác chưa tiến bộ, văn minh Tây phương đang hồi cực thịnh, văn minh đồng thau Đông Sơn lại quá rực rỡ, chứng tỏ nó phát xuất từ một nền văn minh tối cổ cực kỳ cao. Những nhà nghiên cứu gốc Tây phương này, có thể do niềm tự tôn làm lu mờ sự khách quan của mình, nên không thể ngờ một nền văn minh lớn, đã để lại những di vật hoành tráng như vậy lại do tổ tiên những người mà dưới mắt họ, thấy đang bị ngoại bang đô hộ, sống lam lũ, nghèo khổ, thiếu văn minh - đã sáng chế ra!

Nhưng sự hiểu lầm đó đến nay đã thuộc về dĩ vãng, ít nhất là sau Hội nghị Quốc tế họp ở Berkeley bàn về Nguồn gốc văn minh Trung Hoa năm 1978, mà các bản tham luận, sau khi các dữ kiện được kiểm nghiệm, so sánh với ý kiến của các học giả khác, đã được xuất bản năm 1980 (10). Cho đến lúc này (tức 1980), người ta thấy đồ đồng Đông Sơn có niên đại xưa nhất (đồ đồng tìm thấy được ở Tràng Kênh thuộc Văn hóa Phùng Nguyên có niên đại C14 = 1425 ± 100BC [bLn - 891] so với đồ đồng cổ nhất của Trung Hoa ở Anyang có niên đại C14 = 1300 BC theo Anderson hay 1384 BC theo Lichi) (11); đồ đồng Đông Sơn cũng có kỹ thuật cao nhất vì đã biết pha với chì khiến hợp kim có độ dai bền đặc biệt (hợp kim đồng ở Thái Lan hay nhiều nơi khác có thể pha chế đồng với sắt, thiếc, antimoin như Đông Sơn nhưng không có chì) (12).

Có lẽ Nguyễn Quang Trọng đã hiểu đồ đồng Đông Sơn theo nghĩa hẹp là đồ đồng tìm thấy ở làng Đông Sơn, Thanh Hóa. Tuy đồ đồng tìm thấy ở đây đầu tiên, nhưng tuổi của nó không phải sớm nhất mà trẻ nhất trong nền văn hóa mang tên Đông Sơn. Người ta đã chứng minh được nó là hậu duệ của những sản phẩm đồng từ Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun trước khi đến vùng Đông Sơn, Thanh Hóa. Bốn nền văn hóa này, mỗi nền văn hóa có những nét độc đáo riêng, nhưng cùng thuộc một chủng tộc làm chủ. Chúng kế thừa nhau một cách chặt chẽ, liên hệ với nhau một cách khắng khít. Bởi vậy khoa học ngày nay gọi chúng một tên chung là Văn hóa Đông Sơn. Như trên đã nói, Đông Sơn là nơi tìm ra đồ đồng ở Việt Nam đầu tiên nhưng lại là giai đoạn sau cùng của văn minh đồng thau này, kéo dài hơn 2.000 năm, khởi đầu từ Phùng Nguyên khoảng 4.000 năm cách ngày nay (C14 Gò Bông = 1850 ± 60 BC [bLn - 3001]).

Đây là một hiểu lầm đến nay thì không còn nhiều người mắc phải và cũng không tai hại như sự hiểu lầm ở điểm 3 dưới đây mà nhiều nhà nghiên cứu về cổ học Việt Nam còn đang lúng túng chưa có câu giải đáp minh bạch.

Thứ ba, về đồ gốm Việt Nam xuất khẩu khắp Đông Nam Á, đến tận Malanesia, trước khi có ảnh hưởng của Ần Độ, tác giả Nguyễn Quang Trọng viết "tôi e rằng có sự nhầm lẫn về điểm này", vì theo tác giả, "Hòa Bình là văn hóa không có đồ gốm, hay có rất ít vào thời kỳ cuối (Bắc Sơn)". Có lẽ tác giả viết như thế vì ông đã căn cứ vào mẫu đồ gốm tìm được ở Hang Đắng thuộc rừng Cúc Phương, có niên đại C14 = 7.665 năm trước đây, mà các nhà khảo cổ Việt Nam cho thuộc thời kỳ Văn hóa Bắc Sơn hay Văn hóa Hòa Bình muộn. Viết như thế là rất thận trọng, cũng giống như sự thận trọng của những nhà khảo cổ học Việt Nam, những người đã đích thân đào những di tích khảo cổ trên đất nước mình và khai quật được những di vật - ở đây là đồ gốm - và khi định niên đại thì những gốm này, ngay cả những gốm cổ nhất, cũng có niên đại trẻ hơn niên đại của gốm ở các nơi khác (Nhật Bản, Trung Hoa, Thái Lan, cả một số những đảo Thái Bình Dương), nghĩa là những nơi mà những ngành khác đã chứng minh được do người thuộc văn hóa Hòa Bình di cư đến đem theo cả văn hóa của mình.

Sự bất lực không giải thích được điều mâu thuẫn này dẫn đến những hiểu lầm đáng tiếc. Gốm là một di vật rất quan trọng nếu không muốn nói là quan trọng nhất trong ngành khảo cổ, vì nó phản ảnh rõ nhất, đầy đủ nhất nếp sống, tư duy, nói chung, văn hóa của người xưa. Vậy thì, dù các ngành khoa học khác cho thấy người thuộc văn hóa Hòa Bình có thể là nguồn gốc của nhân loại Đông Á, mà gốm Hòa Bình lại có niên đại trẻ hơn gốm các nơi khác cũng sẽ làm cho nguồn gốc nhân loại Đông Á từ người thuộc văn hóa Hòa Bình trở thành có tì vết!

Chính vì hiểu rõ sự quan trọng của gốm trong vấn đề giải thích đời sống tiền sử và sự mâu thuẫn có tính sinh tử này mà chúng tôi đã cố công tìm hiểu. Và chúng tôi nghĩ là chúng tôi đã tìm ra được câu trả lời cho vấn đề khó khăn này bằng bài "Gốm cổ tại Việt Nam và vai trò của nó trong văn hóa tiền sử", đăng trong Tập San TƯ TƯỞNG số 12 tháng 2 năm 2001. Những ý kiến đã giúp chúng tôi tìm được câu giải đáp, ngoài những di vật khảo cổ rất phong phú mới tìm thấy ở Việt Nam và Nam Trung Hoa trong những năm gần đây, trước hết, phải kể đến kiến giải của GS W.G. Solheim II, khi ông giả thiết gốm Văn Thừng, đặc trưng của gốm Hòa Bình phải có niên đại 15.000 năm cách ngày nay dù ông chưa có trong tay tài liệu để chứng minh. Tiếp đến, ý kiến của GS S. Oppenheimer trong sách "Địa đàng tại phương Đông" giả thiết về một sự hiện hữu của vùng Sundaland coi như nguồn gốc của nhân loại Đông phương, có thể của cả thế giới. Rồi thuyết về ngôn ngữ học của nhà ngữ học Johana Nichols và các nhà ngôn ngữ mới khác chứng minh ngôn ngữ Đông Nam Á Austronesian và Austro - Asiatic từ miền biển, miền thấp, ngược các con sông tiến lên miền cao, miền núi, chứ không phải từ miền núi xuôi xuống miền biển theo dọc dòng sông (13). Quan trọng nhất là các bằng chứng về di truyền học khẳng định rằng nguồn gốc người Hiện Đại (Homo Sapiens - Sapiens) từ Đông Phi Châu đến Đông Nam Á, rồi từ đó mới thiên di đi các nơi khác (14).

Việc tìm hiểu về đời sống tiền sử, đời sống thời chưa có chữ viết, chúng ta không thể chỉ trông cậy vào một ngành khảo cổ học mà phải phối hợp các ngành đó để tiếp cận sự thực. Và một khi những lý thuyết này có điều gì chồng chéo, mâu thuẫn nhau thì bổn phận của nhà viết cổ sử, các nhà phân tích nói chung phải so sánh, cân nhắc và thực hiện một sự tổng hợp các khoa ngành một cách thận trọng. Nếu sự tổng hợp này vẫn còn khó khăn để rút ra một kết luận, phải biết trong trường hợp này khoa học nào nói tiếng nói quyết định. Ngày nay, di truyền học DNA, tuy sinh sau đẻ muộn, nhưng có độ chính xác cao nhất, và thường nói tiếng nói quyết định khi những mâu thuẫn trong những ngành cổ học khác không giải quyết được vấn đề. Có lẽ cũng nên nói thêm về một điểm nhỏ, Nguyễn Quang Trọng đã nói đến là gốm Lapita nổi tiếng nhất Đông Nam Á tìm được ở các đảo Thái Bình Dương, cụ thể đó là vùng bờ biển phía Tây đảo New Caledonia. Không thấy Stephen Oppenheimer hay Peter Bellwood đề cập đến trong các thuyết "Chuyến tầu nhanh, chậm" hay "chuyến tầu nhanh" của ông là do từ gốm Phùng Nguyên mà ra. Chúng tôi xin nói ngay rằng gốm Phùng Nguyên không phải là gốm cổ nhất ở Việt Nam (Phùng Nguyên nay thuộc vùng Vĩnh Phú, sâu trong đất liền). Những gốm cổ nhất, sau Hang Đắng, là gốm tìm thấy ở bờ biển từ Hạ Long, Cái Bèo, Đa Bút, Quỳnh Văn vào đến Bầu Tró, Sa Huỳnh. Đây là một điều trái với qui luật bình thường của khảo cổ, như đã trình bày trong bài viết trên nên xin miễn nói lại ở đây. Chỉ xin nhấn mạnh rằng khảo cổ học đã chứng minh được gốm Lapita mà Nguyễn Quang Trọng nói ở trên có nguồn gốc từ gốm trong hang động ở Thường Xuân (Thanh Hóa), Quỳ Châu (Nghệ An), Xóm Thân (Quảng Bình), là con đẻ của các gốm Đa Bút, Quỳnh Văn, Bầu Tró nói ở trên (15).

Thứ tư, về quê hương của kỹ thuật trồng lúa mà chúng tôi phát biểu là ở quanh vùng Đông Nam Á đã được giới khoa học trên thế giới bàn luận đến từ lâu, đã tạm thời đi đến kết luận trong đại hội bàn về nguồn gốc dân tộc Trung Hoa ở Berkeley như nói ở trên. Riêng Tập San TƯ TƯỞNG cũng đã nhiều lần bàn đến, cụ thể là trả lời mục Bạn Đọc Góp Ý trong TƯ TƯỞNG số 12 (trang 27 - 28). Chúng tôi xin không bàn vào chi tiết nữa. Trong phần trên, Nguyễn Quang Trọng có nhắc đến bữa cơm tiền sử nấu với gạo của lúa mọc hoang tìm thấy ở hang Diaotonghuan 13.000 năm trước, và một số địa danh đã biết thuần hóa lúa nước từ 9.000 năm trước trở lại đây. Chúng tôi mong sẽ có dịp bàn lại về vấn đề này. Ở đây, chỉ xin nói ngay vào chủ đề điều 4, rằng đề tài này hầu như đã được giới khoa học quốc tế, kể cả khoa học gia hàng đầu Trung Hoa đồng thuận : quê hương lúa nước ở vùng Đông Nam Á.

Quê hương lúa nước ở vùng Đông Nam Á là một sự thực, dù còn nhiều chi tiết cần tìm hiểu, bàn luận thêm. Nay nếu cứ đem những tiểu tiết che lấp đại thể thì vấn đề chỉ thêm rối rắm. Ngay sự thực trước mắt ngày nay cũng cho thấy người Hoa Hán ăn mì, người Hoa Nam, cả Nhật Bản, Đại Hàn và các dân Đông Nam Á khác ăn gạo.

Chính thuyết trình viên người Trung Hoa, GS. Te-Tzu-Chang, phát biểu trước hội nghị quốc tế cũng trình bầy rõ, xét theo lịch sử Trung Hoa, lúa mạch là thực phẩm chính từ thời tiền sử đến nhà Chu, lúa tắc, mạch và đậu nành là thực phẩm thời Xuân Thu - Chiến Quốc, lúa nước chỉ là thực phẩm phổ biến tại Trung Hoa từ đời Hán về sau. Như vậy, phải chăng ông đã khẳng định lúa nước thuộc văn hóa phương Nam, chỉ trở thành thực phẩm chính ở Trung Hoa khi đất đai phương Nam thuộc tộc Bách Việt đã sát nhập vào Trung Hoa (16).

Ngay cả tác giả Nguyễn Quang Trọng sau khi đã nêu ra một số những địa danh từ Trường Giang trở về Nam có niên đại lúa nước xưa hơn vùng châu thổ sông Hồng, cũng xác nhận người Cổ Việt, nhưng đây là U Việt ở vùng Cối Kê (Hemedu ngày nay) đã dậy Hoa Hán trồng lúa nước (chứ không phải dân Lạc Việt ở châu thổ sông Hồng, mà di vật liên quan đến lúa nước tìm được ở Sũng Sàm mới chỉ không quá 3.500 năm cách ngày nay). Mặt khác, ông lại quay sang phía Tây để phát biểu di tích hạt lúa ở Thái Lan tuy xưa hơn ở Việt Nam, nhưng không xưa bằng ở Nam Trường Giang (ông không tin vào niên đại C14 = 9260 - 7620 BP đã dẫn trong sách của S. Oppenheimer), nên quê hương lúa nước không phải ở Thái Lan. Những con số tác giả nêu ra đều có cơ sở. Có điều ông không để ý đến yếu tố quan trọng nhất là toàn bộ đồng bằng Bắc Việt ngày nay đã bị nhận chìm dưới làn nước biển suốt từ 8.000 năm đến 5.000 năm trước đây (5.500 năm trước nước biển mới bắt đầu rút). Đấy là nói đồng bằng ngày nay. So với đồng bằng sông Hồng từ 18.000 năm đến khoảng 30.000 năm trước đây, nó nhỏ hơn nhiều. Lúc ấy, nước biển thấp hơn ngày nay 130m, châu thổ sông Hồng xưa (cứ gọi như vậy) kéo dài đến tận đảo Hải Nam. Vậy nếu lúa nước có được thuần hóa thì di tích phần lớn đã bị hủy hoại (ở phần nước biển đã rút trả lại đất đai như ta thấy ngày nay) hay hãy còn ở sâu dưới lòng biển (ở phần vẫn bị nước biển tràn ngập). Việc không tìm ra di vật lúa nước có niên đại tối cổ (cổ hơn ở phần đất nay là Trung Hoa hay Thái Lan) cũng như việc không tìm ra di vật gốm tối cổ, ngoài lý do nó bị nước biển tàn phá, còn có thể vì nền khảo cổ của ta còn non trẻ lại thiếu phương tiện, nước ta trước đây có chiến tranh lại không quan tâm đến việc kêu gọi các nhà khảo cổ quốc tế tới thực hiện việc thám quật khảo cổ như các nước lân cận, chứ không hẳn vì không có.

Vả lại, dù quê hương cây lúa ở Thái Lan, ở Nam Trường Giang, hay ở châu thổ sông Hồng, vấn đề quê hương của kỹ thuật trồng lúa nước ở quanh vùng Đông Nam Á cũng vẫn đúng, chẳng có gì phải đặt dấu hỏi, đặt nghi vấn cho một sự thực đã được khoa học và dư luận quốc tế chấp nhận như vậy. Theo thiển ý, lý giải như vậy mới không trái với kết quả nghiên cứu di truyền học, hải dương học, ngôn ngữ học như đã trình bày. Và như vậy tưởng mới là tiếp cận sự thực (17).

Thứ năm, về câu phát biểu của chúng tôi rằng trước khi tiếp xúc với người Hán, tổ tiên chúng ta có một nền văn minh rất cao, nếu không muốn nói là cao nhất Đông Nam Á. Thực ra, tổ tiên chúng ta với tổ tiên những người vùng Đông Nam Á, nếu xét tự nguồn gốc thì cũng chỉ là một. Tổ tiên chúng ta và tổ tiên những người thuộc các nước vùng Đông Nam Á chỉ coi như khác nhau trong thời gian sau này mà thôi. Nguyễn Quang Trọng đặt câu hỏi đúng "Thế nào là văn hóa (văn minh) cao nhất Đông Nam Á?" Bởi riêng từ văn minh cũng đã có nhiều nghĩa mà cho đến nay vẫn chưa có nghĩa nào được mọi người cùng chấp nhận, vậy làm sao có thể chấp nhận thế nào là văn minh cao nhất? Nương theo lý luận của tác giả, đại khái ta có thể nói văn minh Tây phương (Western civilization) là cao nhất. Chẳng thế mà suốt hơn bốn thế kỷ qua, nền văn minh này đã thực hiện được những tiến bộ khoa học rất ngoạn mục, chinh phục các phần đất khác trên thế giới, bắt dân các nơi đó làm nô lệ cho họ. Nhưng cũng chính nền văn minh này là nguyên nhân của những cuộc chiến triền miên (thế chiến I, thế chiến II) có thể đưa nhân loại đến chỗ diệt vong. Trong trường hợp này thì văn minh nhất lại đồng nghĩa với man rợ nhất. Nay, nếu lấy tiêu chuẩn của những nhà viết văn minh cổ sử mà xét, thì một xã hội được coi là văn minh khi có được những sáng chế đưa nhân loại thoát khỏi thời kỳ mông muội. Ba sáng chế quan trọng nhất trong tiêu chuẩn này là sự phát minh ra kỹ thuật thuần hóa lúa nước, kỹ thuật hàng hải và kỹ thuật xây dựng đô thị (18). Và theo cái chuẩn này thì những ngưới chủ nhân của Văn hóa Hòa Bình, như các mục trên đã đề cập, được hiểu là những người phát xuất từ Đông Nam Á, tổ tiên của người Bách Việt, đáng gọi là có nền văn minh cao nhất thời ấy, nghĩa là thời mà nhân loại mới bước từ đời sống mông muội sang đời sống văn minh.

Đó mới chỉ nói đến nền văn minh vật chất, chưa nói đến văn minh tinh thần. Khảo về văn minh tinh thần, về triết học tư tưởng của người cổ Việt, thì hiện tại, gần như chưa có ai nói tới một cách có hệ thống. Những tư tưởng Đông phương rất cao thâm như Nho, Lão, Phật . đều nói là hoặc của người Trung Hoa, hoặc của người Ần Độ, không có gì là của tổ tiên người Việt. Nhưng nếu đã khẳng định bằng di truyền học DNA, ngôn ngữ học, hải dương học, khảo cổ học, dân tộc học, tập tục truyền thống học... rằng người Hòa Bình, tức người Bách Việt ở Đông Nam Á đã có sớm nhất và là nguồn gốc của văn minh Đông phương thì cũng phải khẳng định tư tưởng đầu tiên, nền văn minh tinh thần đầu tiên của nhân loại Đông phương cũng do người Hòa Bình này khởi động. Điều này đến nay không có văn bản nào nói như vậy vì từ khi con người sáng chế được ra chữ viết đủ để ghi chép lại thành sách, người thuộc Đại tộc Bách Việt đã mất độc lập về tay người Hoa Hán, vì vậy những văn minh văn hóa của người Bách Việt, nếu có, (và chắc phải có), đều đã trở thành văn minh Trung Hoa. Nằm trong khung "văn minh" đó, tư tưởng của người Cổ Việt cũng đã được mang nhãn hiệu Trung Hoa cả. Tuy nhiên, vẫn còn có nhiều thứ như di vật khảo cổ, văn minh truyền khẩu, tập tục truyền thống . nếu biết "đọc" chúng, biết khai thác thì chúng sẽ cho ta biết nền văn hóa, văn minh tinh thần đó gốc gác nó từ đâu, nội dung chân chính của nó như thế nào. Nay chỉ nói về hoa văn trên trống đồng Đông Sơn, nếu biết giải mã, ta sẽ thấy chúng thuộc một nền văn minh tinh thần rất cao, gần với văn minh hậu nguyên tử, văn minh lượng tử như điều Giáo sư F. Capra đã nói đến (19). Nhưng đó không phải là đối tượng của đề tài này. Nói như vậy chỉ để làm cơ sở để phát biểu rằng, trước khi tiếp xúc với người Hoa Hán, quả người Hòa Bình, tổ tiên chúng ta đã có một nền văn minh rất cao. Còn việc nghi ngờ văn minh này không chắc là "cao nhất", bằng cớ là đã bị người Hoa Hán đánh thua vì họ có kỹ thuật quân sự dựa trên văn minh đồ sắt cao hơn văn minh đồng thau của tổ tiên ta thì lại là một vấn đề khác. Nó không hề phủ định đã có thời tổ tiên ta có nền văn minh cao nhất.

<H3 class=spip>III.</H3>Bây giờ, chúng tôi muốn phát biểu vài điều về vấn đề nguồn gốc dân tộc Việt. Phải nói ngay rằng đây là một vấn đề phức tạp, vì chúng ta vẫn còn thiếu thốn dữ kiện khoa học liên quan đến người Việt để phát biểu một cách khẳng định. Vì thế, người ta vẫn còn suy đoán, và có khi suy đoán thiếu cơ sở. Có thể nói hai giả thiết phổ thông liên quan đến vấn đề này: một là giả thiết [có lẽ chiếm đa số quần chúng] cho rằng người Việt có nguồn gốc từ người Trung Hoa; và giả thiết hai [có lẽ phần thiểu số] cho rằng người Việt có nguồn gốc từ Mã Lai (tức là kết luận của Bình Nguyên Lộc). Chúng tôi cho rằng cả hai giả thiết này đều cần phải xét lại, bởi một lý do đơn giản: hai giả thiết đó thiếu dữ kiện khoa học làm cơ sở, và chưa được phản nghiệm.

Giả thiết về nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt phần lớn dựa vào các dữ kiện khảo cổ và ngôn ngữ. Những dữ kiện về đặc tính cơ thể và các chỉ số nhân trắc (như màu da, xương, sọ, khuôn mặt, v.v..) từng được dùng làm các đơn vị thông tin để nghiên cứu nguồn gốc dân tộc và sự tiến hóa của loài người. Nhưng các đặc tính này thay đổi theo thời gian, và chịu ảnh hưởng vào môi trường sinh sống. Chẳng hạn như chiều cao của con người trong vòng 200 năm qua đã tăng một cách đáng kể do những cải thiện về dinh dưỡng và môi trường sinh sống. Ngay cả cấu trúc xương cũng thay đổi theo thời gian và môi trường. Do đó các đặc tính nêu trên không phải là những thông tin lý tưởng cho việc nghiên cứu lịch sử di truyền của con người.

Những dữ kiện về ngôn ngữ cũng có nhiều khiếm khuyết, vì mức độ tương đương về từ ngữ không thể nói lên một cách đầy đủ khuynh hướng di cư của các sắc dân. Ngay cả việc xác định mức độ tương đồng từ ngữ giữa các ngôn ngữ cũng là một vấn đề mang tính kỹ thuật mà các nhà nghiên cứu vẫn chưa đồng ý về phương pháp làm. Vả lại, sự tương đồng giữa các ngôn ngữ có thể là một hằng số mang tính văn hóa, chứ không hẳn do các cơ chế sinh học và di truyền. Nói tóm lại, những bằng chứng khảo cổ và ngôn ngữ không phải là những loại thông số đáng tin cậy để xác định nguồn gốc dân tộc.

Trong quá khứ, giới khảo cổ học và nhân chủng học dựa vào các bằng chứng về khảo cổ, xương, hóa thạch, v.v. để phát triển lý thuyết, nhưng những đối tượng này hàm chứa nhiều hạn chế thông tin về tiến hóa, vì mối quan hệ phức tạp giữa môi trường và tiến hóa. Hậu quả của sự tập trung vào các đối tượng như thế trong một thời gian dài đã làm cho chúng ta xao lãng các dữ kiện cho chúng ta nhiều thông tin hơn: đó là gien (20). Không giống như xương sọ, những thay đổi trong gien thường xảy ra theo những qui luật mà chúng ta hiểu khá rõ, và vì thế gien và các đặc điểm của gien, như tầng số gien, cấu trúc DNA, phân phối gien, v.v... cho chúng ta những thông tin cực kỳ quí giá về sự tiến hóa của con người. Ngày nay, những tiến bộ phi thường trong ngành di truyền học và sinh học phân tử (molecular biology) trong mấy năm gần đây đã cung cấp cho ngành nhân chủng học một phương tiện cực kỳ quan trọng trong việc xác định lịch sử tiến hóa của con người và mối liên hệ giữa các dân tộc. Giá trị của di truyền học trong việc truy tầm nguồn gốc dân tộc đã được đánh giá cao về mức độ tin cậy. Di truyền học là một cửa sổ để chúng ta nhìn lại quá khứ của chúng ta.

Tuy nhiên, những nghiên cứu về di truyền học trong người Việt còn cực kỳ khiêm tốn, nếu không muốn nói là không đáng kể. Trong thời gian khoảng 10 năm trở lại đây, đã có một số bằng chứng, tuy gián tiếp, nhưng cũng đủ để chúng ta có lý do để xem xét lại lịch sử tiến hóa của dân tộc Việt. Những bằng chứng này là:

• Trong một nghiên cứu trên 103 người ở Hà Nội, các nhà nghiên cứu Việt - Pháp phân tích DNA trong hai gien (HLA-DR và DQB1), và so sánh kết quả này với các sắc dân thuộc châu Đại Dương (Oceania) và Đông Á. Sau khi ước tính khoảng cách di truyền (genetic distance) giữa các sắc dân, các nhà nghiên cứu kết luận rằng cấu trúc di truyền của hai gien này trong người Việt gần với người Thái và người Hoa. Các nhà nghiên cứu này kết luận rằng dữ kiện của họ phù hợp với giả thuyết người Việt có nguồn gốc từ người Trung Hoa và Thái-Nam Dương (21). Tuy nhiên, sau khi xem xét kỹ phần phương pháp nghiên cứu, chúng tôi cho rằng kết luận này rất có thể không đúng, vì : (a) nghiên cứu này chỉ dựa vào hai gien mà thôi (con người có khoảng 35 đến 39 ngàn gien), và với những yếu điểm của mtDNA, các ước đoán về khoảng cách di truyền không ổn định; ( :) ngay cả trong bài báo các nhà nghiên cứu không xây dựng được một cây di truyền nào, và cũng chẳng phân tích phát sinh chủng loại thì không thể phán đoán về chiều hướng di cư hay nguồn gốc dân tộc được.

• Khoảng hai năm sau, các nhà nghiên cứu này lại tiến hành một nghiên cứu khác trên 50 người cũng ở Hà Nội, và cũng qua dùng kỹ thuật PCR (polymerase chain reaction) họ phân tích 6 "restriction enzymes", và ghi nhận khoảng cách di truyền (22) giữa người Việt và người Hoa rất thấp (chỉ 0.0022), nhưng giữa người Việt và Ần Độ thì tương đối cao hơn (0.0468), có nghĩa là quan hệ giữa giống người Việt và Hoa gần nhau hơn so với quan hệ Việt và Ần (23). Nghiên cứu nàycũng có những yếu điểm như nghiên cứu trình bày phần, tức là số lượng gien quá ít (trong trường hợp này chỉ có một gien), và tác giả cũng không tính toán mức độ biến thiên của chỉ số khoảng cách di truyền, nên không thể nào phát biểu khoảng cách giữa Việt - Hoa gần hơn khoảng cách giữa Việt - Ần. Thực ra, sau khi tính toán lại, chúng tôi thấy hai khoảng cách di truyền (Việt - Hoa và Việt - Ần) không có sự khác biệt đáng kể (non-significant)! Tuy nhiên, một nghiên cứu khác trên 5 gien trong nhiễm sắc thể Y trong hai nhóm dân: Bắc Á (Bắc Trung Quốc, Nhật, Hàn Quốc, và Mông Cổ), và Nam Á (Nam Dương, Phi Luật Tân, Thái, và Việt Nam) cho thấy người Việt gần với các nhóm dân Bắc Á (nhất là Hàn Quốc) hơn là các nhóm dân Nam Á (24)! Chúng ta biết rằng, qua nghiên cứu của Giáo sư Chu (14), người Hoa phía Bắc Trung Quốc có cấu trúc di truyền khác với người Hoa phía Nam Trung Quốc. Do đó, phát hiện này quả rất khó giải thích. Càng khó giải thích hơn nữa khi phần lớn những người Việt trong nghiên cứu này là cư dân ở Hà Nội, tức gần miền Nam Trung Quốc.

• Trong một nghiên cứu dùng mtDNA, Ballinger và đồng nghiệp (24) ghi nhận rằng chỉ số biến thiên (trong di truyền học gọi là Fvalue) trong người Việt cao nhất trong các sắc dân vùng Đông Nam Á. Tuy nhiên, các tác giả kết luận một cách mơ hồ rằng các dữ kiện này cho thấy "người Á châu có nguồn gốc từ nhóm dân Nam Mông" (nguyên văn : "The greatest mtDNA diversity and the highest frequency of mtDNA with HpaI/HincII morph 1 were observed in the Vietnamese suggesting a Southern Mongoloid origin of Asians") (25). Thực ra, các dữ kiện mà tác giả trình bày không cho phép họ kết luận như thế, bởi vì họ chỉ 7 nhóm dân Á châu mà thôi, và cũng chỉ nghiên cứu trên vài mẫu gien rất nhỏ. Nhưng qua số liệu của các nhà nghiên cứu này, chúng tôi có thể phát biểu rằng trong hai gien mà họ nghiên cứu, người Việt có lẽ là một sắc dân cổ nhất trong vùng Đông Nam Á.

• Năm 1998, Giáo sư Chu và đồng nghiệp (thuộc Trường Đại học Texas (14)) phân tích 15 đến 30 mẫu "vi vệ tinh" DNA (microsatellites) để thử nghiệm sự khác biệt di truyền trong 24 nhóm dân từ nhiều tỉnh khác nhau ở Trung Quốc, 4 nhóm dân vùng Đông Nam Á (hai thuộc thổ dân Mỹ, một thuộc thổ dân Úc châu, và một thuộc Tân Guinea), 4 nhóm dân da trắng (Caucasian), và 3 nhóm dân Phi châu. Bằng một phương pháp phân tích thống kê có tên là "phân tích phát sinh chủng loại" (Phylogenetic analysis)", một số kết quả đáng ghi nhận như sau:

(i) hai nhóm dân có sự khác biệt rõ ràng nhất là Phi châu và các dân không thuộc Phi châu;

(ii) tất cả các nhóm dân Đông Nam Á "tập hợp" thành một nhóm, và nhóm dân có đặc tính di truyền gần họ nhất là người thổ dân Mỹ châu, kế đến là thổ dân Úc châu, và Tân Guinea (Những kết quả này cũng phù hợp với thời gian định cư ở Úc châu (khoảng 60,000 đến 50,000 năm trước đây, và thời gian định cư ở Mỹ châu (từ 30,000 đến 15,000 năm trước đây);

(iii) các nhóm dân miền nam Trung Quốc phân phối thành ba nhóm, gọi là S1, S2, và S3 (ngoại trừ nhóm S2 là người Hán từ tỉnh Henan, phần còn lại (S1 và S3) gồm các sắc dân trong vùng Yunnan); và

(iv) các sắc dân miền bắc Trung Quốc phân phối thành hai nhóm, gọi là N1 và N2. Nhóm N1 gồm 6 sắc dân nói tiếng Altaic, một nhóm Hán tộc miền bắc từ tỉnh Yunnan. Nhóm N2 gồm 4 sắc tộc thiểu số có lịch sử sinh sống lâu đời ở miền bắc, trong đó có một sắc tộc từ tỉnh Ninxia [6].

Từ những phát hiện trên, chúng ta có thể đặt ra một số mô hình để giải thích, nhưng mô hình thích hợp với dữ kiện của Giáo sư Chu và đồng nghiệp là các dân tộc miền Bắc Á được tiến hóa từ các dân tộc Đông Nam Á châu. Các dữ kiện liên quan đến răng, sọ [26-27] cũng nhất quán với mô hình này. Do đó, Giáo sư Chu và đồng nghiệp kết luận rằng: "Tổ tiên của các nhóm dân Đông Á ngày nay có nguồn gốc từ Đông Nam Á."

• Nhưng nghiên cứu của Giáo sư Chu và đồng nghiệp có một điểm yếu, đó là họ dựa vào vi vệ tinh DNA, một chất liệu di truyền rất "nhạy" (sensitive) và dễ bị đột biến (mutation [28]). Để khắc phục nhược điểm này, một nhóm nghiên cứu khác đã tiến hành một nghiên cứu độc lập và qui mô hơn để xác định nguồn gốc Đông Nam Á của dân tộc Trung Hoa. Nhóm nghiên cứu Mỹ - Trung Quốc phân tích DNA trong nhiễm sắc thể Y [29] trong các nhóm dân Hán (thuộc 22 tỉnh của Trung Quốc), 3 nhóm dân Đông Bắc Á (Buryat, Đại Hàn, và Nhật Bản), 5 nhóm dân Đông Nam Á (Cambốt, Thái Lan, Mã Lai, Batak, và Java), và 12 nhóm dân ngoài Á châu (3 nhóm từ Phi châu, 3 từ Mỹ châu, 2 từ Ấu châu, và 4 từ châu Đại dương). Các nhà nghiên cứu ghi nhận rằng mức độ biến thiên đa hình thái (polymorphic variation) trong các nhóm dân Đông Nam Á cao hơn trong các nhóm dân thuộc vùng Bắc Á. Điều này có nghĩa là các sắc dân ở Đông Nam Á có một quá trình định cư lâu dài hơn là các nhóm dân Bắc Á. Dùng các phương pháp phân tích di truyền quần thể (population genetics), các nhà nghiên cứu kết luận rằng con người thời đó đã di cư từ Phi châu sang đến Đông Nam Á [30] vào khoảng 60 ngàn năm về trước, và sau đó đã di chuyển lên phía Bắc Á (kể cả Trung Quốc ngày nay) và Siberia [29]. Ngoài ra, còn có bằng chứng di truyền cho thấy các nhóm dân Polynesians cũng có nguồn gốc từ Đông Nam Á [31].

Những dữ kiện di truyền học mà chúng tôi tóm lược trên đây tuy chưa hoàn toàn đầy đủ để chúng ta khẳng định nguồn gốc dân tộc Việt, nhưng đủ để chúng ta phát biểu rằng: xác suất mà người Việt có nguồn gốc [hay di dân] từ Trung Quốc là cực kỳ thấp, nếu không muốn nói là con số gần zêrô.

Bây giờ chúng tôi muốn nhân cơ hội này để bàn thêm vài điều chung quanh vấn đề nguồn gốc dân tộc và văn minh Việt Nam. Theo Nguyễn Quang Trọng, dân Đài Loan ở trên núi, ít bị Hán hóa, có thể coi như nhóm dân tiêu biểu cho người nói tiếng Nam Đảo vì họ còn giữ được gien nguyên thủy và còn sống theo văn hóa cổ. Mặt khác, những cư dân sống ở vùng Phúc Kiến, Kim Môn, Quảng Đông, Bắc Việt có thể cũng cùng một gốc với dân cổ Đài Loan này, và quê hương của họ có thể là thềm lục địa chung quanh đã bị biển tràn ngập. Vì vậy, [tác giả viết] "tại sao không thể xem vùng thềm biển này, trước khi hồng thủy đến, là một trung tâm văn hóa lớn của dân nói tiếng Nam Đảo". Dữ kiện ông đưa ra để minh chứng cho thuyết này là chày đập vỏ cây cho mềm để làm khố che thân đã tìm được ở bờ biển Nam Trung Hoa từ Hồng Kong đến Bắc Việt. Về điểm này chúng tôi cũng đã từng đề nghị, ngoài vùng đất Sundaland, đồng bằng Nanhailand, châu thổ sông Hồng xưa, là trung tâm văn minh Đông Nam Á thời đó, cũng có thể là nguồn gốc của văn minh toàn cầu (32). Có điều chúng tôi không khẳng định đây là trung tâm văn hóa của dân nói tiếng Nam Đảo (Austronesian) vì chúng tôi nghĩ, cũng như W. Solheim II, dân thời đó còn nói chung tiếng Austric chưa chia hai Nam Đảo và Nam Á.

Về quá trình tiến triển dân tộc Việt, Tác giả Nguyễn Quang Trọng đưa ra vài đề nghị rất đáng bàn thêm, mà theo cách hiểu của chúng tôi, như sau :

Bước 1: Người cổ thiên di từ Phi Châu đến Đông Nam Á, khi gặp biển Đông ngăn chặn, họ chia theo hai hướng : một lên phía Bắc đến sống ở miền Nam Trung Hoa, và càng ngày càng tiến về Bắc đến tận Mông Cổ; một đi về phía Nam đến thềm Sunda, khi đó còn nối liền lục địa với các đảo phía Nam, đến tận Úc Châu. Tất cả đều là người chủng tộc Australoid (da đen, tóc quăn, mũi to...)

Bước 2: Lớp di dân lên phía Bắc Đông Á, đổi dần nhân dạng vì môi trường lạnh, gió, ít nắng. Khoảng 15.000 năm trước giống này lai với chủng Altaic thiên di từ Tây Á đến đổi thành chủng Bắc Mongoloid (da trắng vàng, mắt hí, tóc thẳng ...)

Bước 3: Chủng Bắc Mongoloid này bành trướng về phía Nam lai với chủng Australoid vào khoảng giữa đất Trung Hoa (nay) để tạo thành chủng Nam Mongoloid (da ngăm đen, tóc gợn sóng ...) Theo tác giả, chủng lai Nam Mongoloid này chính là tổ tiên của người Cổ Việt, Khmer, Thái, Miến, Mã Lai, Nam Dương, cả những người ở hải đảo Thái Bình Dương.

Bước 4: Xin trích nguyên văn của tác giả: "Trên đất Việt Nam, vào thời đồ đá, cư dân thuộc chủng Australoid ban đầu nói cùng tiếng gốc Austric, dần dần phân thành hai nhóm dân nói tiếng khác nhau theo vùng họ ở, vì cách sinh sống khác nhau. Nhóm nói tiếng tiền Nam Á sống phía trong lục địa, trú trong hang động vùng cao (văn hóa Hòa Bình). Nhóm thứ hai nói tiếng tiền Nam Đảo, sống vùng đồng bằng ven biển, vào lúc ấy mức biển thấp, vùng này lan ra xa ngoài đường biển hiện tại trên vịnh Bắc Việt do thềm lục lài thoai thoải. Tại vùng vịnh Bắc Việt, dọc từ bờ biển Móng Cái tới Quảng Ngãi qua đến đảo Hải Nam", và ông kết luận : "Trong chừng mực nào đó, vùng vịnh Bắc Việt, kể cả (đảo) Hải Nam có thể xem là lãnh thổ của một phần tổ tiên người Việt, thuộc thành phần nói tiếng Nam Đảo, từ 15 ngàn năm trước ! Văn hóa Hạ Long và các văn hóa tiền Nam Đảo khác sau đó đã góp phần quan trọng vào sự hình thành văn hóa và con người Việt Nam".

Bước 5: Bắt đầu từ thời đá mới, dân nói tiếng Nam Á trong đất liền và dân nói tiếng Nam Đảo dọc bờ biển đều tăng nhanh nên cùng tràn về châu thổ các sông. Sự hợp chủng của hai sắc dân này có lẽ xẩy ra khoảng 4.000 năm cách ngày nay. Và tác giả đặt câu hỏi phải chăng sự gặp gỡ này đưa đến truyền thuyết Lạc Long Quân Nam Đảo từ phía biển lên và Ấu Cơ Nam Á từ vùng núi xuống, và đi đến kết luận : "Như vậy Tiên Ấu Cơ Nam Á và Rồng Lạc Long Quân Nam Đảo là tổ tiên Lạc Việt lẫn Bách Việt (phía Nam Trường Giang), và những Viêm Đế, Thần Nông của huyền thoại Hán xa xưa, nếu có, có lẽ không dính dáng đến tổ tiên tộc Việt". Cũng theo tác giả: "Cuộc phối hợp văn hóa hoàn tất vào thời Đông Sơn tạo thành một văn hóa chung cho cư dân bản địa".

Bước 6: Cũng xin trích nguyên văn : "Như đã nói ở trên, cuộc sống chung này tương đối hòa bình vì các di tích khai quật cho thấy tại Đồng Đậu, cư dân ?đột nhiên? biết chế tạo vũ khí. Để tự vệ ? Để giải quyết những tranh chấp về quyền lợi và ảnh hưởng ? Từ đó đưa đến những khủng hoảng mất mát chia lìa (năm mươi con theo cha, năm mươi con theo mẹ ?) hoặc đến lúc suy vi sau thời kỳ sung mãn". Và để kết luận, ông cho rằng người dân Việt đã lai nhiều suốt thời tiền sử và trong thời Hoa thuộc, nhưng văn hóa Việt thành hình từ văn hóa bản địa của những tộc nói tiếng tiền Nam Á trong lục địa và tiền Nam Đảo vùng thềm lục địa nên giữ được độc lập quốc gia trong khi toàn vùng Trường Giang đều bị Hán hóa.

Trong những giai đoạn này, ba giai đoạn sau có nhiều điều khó hiểu cần bàn lại, nhiều chỗ hình như chưa được thống nhất, và về thời gian hình như có nhiều chỗ chồng chéo. Có điểm chúng tôi đồng ý (ba giai đoạn đầu), và cũng đã từng chủ trương như vậy, nhưng cũng có điểm chúng tôi không đồng ý.

Nguyễn Quang Trọng giả thiết người Đông Nam Á đi ra hải đảo Thái Bình Dương hay lên phía Bắc đều thuộc chủng Australoid (da đen, tóc quăn, mũi to), rồi vì sống trong môi trường lạnh, gió, ít nắng ở miền Bắc, họ biến đổi nhân dạng với chủng Altaic mà dần dần thành chủng Bắc Mongoloid (tóc thẳng, mắt hí, da vàng trắng). Chủng Bắc Mongoloid này khi bành trướng về phương Nam một lần nữa lại lai với chủng Australoid đã sống trước ở đó mà tác giả gọi là giữa đất Trung Hoa, để thành người Nam Mongoloid (da ngăm đen, tóc dợn sóng ...). Theo tác giả, đây là tổ tiên của người Việt, Khmer, Thái, Miến, Mã Lai, Nam Dương, cả những người ở hải đảo Thái Bình Dương. Điều này cũng tương đồng với một giả thiết mà các nhà nghiên cứu về nguồn gốc người Trung Hoa đã tranh cãi nhau về ba mô hình (33):

Mô hình 1: Giả thiết người Hoa Nam là từ Hoa Bắc di xuống pha trộn với dân bản địa mà hình thành.

Mô hình 2: Ngược lại, giả thiết người Bắc Trung Hoa là hậu duệ của người phương Nam.

Mô hình 3: Dân cư ở cả hai miền tiến hóa và phát triển độc lập.

Như đã thấy, Nguyễn Quang Trọng theo mô hình 1. Mô hình này có ưu điểm là nó có vẻ phù hợp với bản đồ ngôn ngữ ở Trung Quốc, đã một thời được nhiều nhà ngôn ngữ học công nhận. Chúng tôi sẽkhông đi vào chi tiết bởi nó rất phức tạp mà cũng không cần thiết. Nhưng qua phân tích DNA của nhóm Giáo sư Chu (mà chúng tôi đề cập trên đây), mô hình này không còn thích hợp nữa. Nói một cách khác, các dữ kiện di truyền học cho thấy tổ tiên của những người nói tiếng Altaic từ Đông Á đã di cư vào Á châu từ ngã Đông Nam chứ không phải từ ngả Trung Á (14). Nghiên cứu của các nhà nhân chủng học uy tín khác Lugi Luca Cavallli-Sforza (Đại học Stanford), Li Yin (Đại học Stanford và nhiều học giả khác cũng nhất quán với mô hình này (34).

Liên quan đến sự khác biệt về đặc tính cơ thể (người hải đảo da sậm, tóc quăn, trong khi người sống trong lục địa có da vàng, tóc đen, không quăn), chúng tôi thấy có vài điều cần thảo luận như sau:

Thứ nhất, không có gì chứng minh được người Australoid da đen, tóc quăn, mũi to đã lên phía Bắc đến tận Mông Cổ ngày nay. Nếu tại đất nay thuộc lãnh thổ Bắc phần Việt Nam, trong 70 xương sọ mà ta sưu tầm được cho đến ngày nay, 38 xương sọ thuộc thời Đồ Đá (cũng không xác định được niên đại rõ ràng), phần lớn do học giả Pháp tìm ra trước 1945 (29 sọ trên 38 cái) cho là thuộc chủng Australoid, Indonesian, Malanesian Ẫ và 32 sọ, đa số do học giả Việt tìm thuộc thời Đồng Sắt ngược lại, phần lớn là chủng Mongoloid vào những năm chưa có sự chứng minh ngược lại của di truyền học, đã một thời là nguyên nhân cho thuyết nguồn gốc người Việt tại đất liền là do cư dân hải đảo Thái Bình Dương di cư vào (35).

Chúng ta không thấy bảng xương sọ tương tự như ở Trung Quốc. Những xương cốt thường được nói đến nhiều nhất và được coi là tổ tiên của người Trung Hoa là 3 bộ xương do J. Anderson tìm được ở Chu Khẩu Điếm (Chou-Kou-Tien). Thời đó, vì thiếu những phương tiện khoa học đo đạc chính xác nên có người đã cho xương này là tổ tiên của người Hoa có từ rất xa xưa! Sau này nhờ có phương tiện định tuổi bằng C14, Noel Bernard đã chứng minh được niên đại của xương đó chỉ là 16.922 năm trước CN (2k - 136-0; Bernard 1980) (36). Cũng có người chứng minh được đó chẳng phải là xương của một gia đình vì ở ba tầng lớp khác nhau trong hang (Weiderich, 1939), lại thuộc ba chủng khác nhau và chẳng liên hệ gì đến người Trung Hoa hiện nay cả (Wu, 1961) (27). Sở dĩ có hiện tượng đó vì phương pháp cổ điển để tìm chủng tộc và niên đại của các sọ thời trước chỉ là phương pháp so sánh (so cái chưa biết với mẫu đã biết gốc tích). Trong trường hợp đó, giá trị của các kết luận rất tương đối. Xương cốt cổ đào được nhiều nhất ở Yang-Shao là xương thuộc chủng Nam Mongoloid, giống với người Hoa hiện đại mà cũng giống cả với người Việt và các chủng Đông Nam Á khác. Vậy lấy gì để khẳng định người Australoid da đen, tóc quăn, mũi to đã di cư đến tận cực Bắc Trung Hoa ngày nay ?

Thứ hai, giả thiết người Australoid đến Bắc Đông Á, rồi vì sống trong môi trường lạnh, gió, ít nắng nên dần dần thay đổi nhân dạng là cho con người thay đổi hình dạng chỉ do yếu tố môi sinh ngoại tại. Thực sự, muốn có sự thay đổi hình dạng phải có sự đột biến di truyền (28). Đó là một sự kiện sinh học xẩy ra trong tế bào, do sự tương tác giữa môi trường và sinh học. Giả thiết rằng người Australoid lai với người Altaic (các dân tiêu biểu là Buryat, Yakut, Uyghur, Mãn Châu, Hán, Đại Hàn, Nhật) thì lại càng khó hiểu vì người Altaic, theo di truyền học đã chứng minh cũng do người Đông Nam Á di lên chứ không phải từ Trung Á đi lại như trên vừa trình bầy. Có thể họ lai với một sắc dân đến muộn hơn từ Trung Á và Ấu Châu, như sẽ nói rõ hơn ở sau, nhưng đó là chuyện xẩy ra về sau khi băng hà lần cuối cùng đã tan.

Thứ ba, chủng Bắc Mongoloid vì nhu cầu bành trướng, tràn xuống phương Nam, gặp chủng Australoid đã cư ngụ sẵn nơi đây, lai giống mà thành người Nam Mongoloid. Đây là tổ tiên của chủng Bách Việt. Ý kiến này rất mới, chỉ tiếc tác giả đã không đưa dữ kiện chứng minh để có thể kiểm nghiệm lại một cách khoa học. Mặt khác, những dữ kiện khoa học có được đến ngày hôm nay hình như không hỗ trợ cho giả thiết của tác giả. Về phương diện di truyền học, phân tích di truyền của Giáo sư J. Y. Chu và đồng nghiệp, cộng với nhiều phân tích DNA gần đây như trên vừa trình bầy, đã cho thấy ngược lại phát biểu của Nguyễn Quang Trọng rằng người Nam Mongoloid đã từ Đông Nam Á, phía Nam Trung Hoa, bành trướng lên phía Bắc. Nói rõ hơn, người Hoa Bắc là hậu duệ của người Hoa Nam. Cây hệ di truyền từ cuộc nghiên cứu của Giáo sư Chu cũng cho thấy đã không có sự hợp chủng giữa dân Hoa Nam (Nam Mongoloid) với dân Altaic. Chỉ có sự hợp chủng giữa dân Altaic với các dân cư đến muộn hơn từ Trung Á và Ấu Châu, sau thời băng hà cuối cùng (15.000 trở lại đây). Về phương diện khảo cổ học, hầu hết xương cốt tìm thấy được ở văn hóa Ngưỡng Thiều đều thuộc chủng Nam Mongoloid, giống người Trung Hoa hiện đại, cũng giống với những người hiện đại tại các quốc gia Đông Nam Á khác, đặc biệt ở Việt Nam. Không thấy dấu hiệu hợp chủng có tính toàn diện giữa Bắc Mongoloid và Australoid như Nguyễn Quang Trọng phát biểu.

Nói tóm lại, qua các dữ kiện di truyền học gần đây, tuy còn hạn chế (vì những nghiên cứu về di truyền học trong vùng Đông Nam Á, nhất là với người Việt, còn ít), nhưng chúng tôi thấy có thể phát biểu rằng người hắc chủng từ Phi Châu di cư đến Đông Nam Á lục địa, khi tiếp cận biển Đông, thì một phần đi thẳng ra các hải đảo Thái Bình Dương và Úc Châu, lúc đó vẫn còn là hắc chủng; phần khác trụ lại tại Đông Nam Á, ở địa điểm đâu đó, có thể là lưu vực con sông nay mang tên sông Hồng, vì may đã hội đủ cơ duyên nên có đột biến di truyền, và do đó, từ giống hắc chủng (da ngăm, tóc xoăn) đã biến đổi thành giống hoàng chủng (da vàng, tóc đen, sợi thẳng). Từ đó, họ mới bắt đầu di chuyển lên hướng Bắc, nay là đất Trung Hoa. Giả thiết của chúng tôi dựa trên ba cơ sở như sau :

Một, mực nước biển lên xuống. Trước thập niên 60 thế kỷ trước, người ta chỉ biết có độ 5 thời kỳ bằng hà (nước biển xuống), gián băng (nước biển tăng), nhưng ngày người ta đã biết được có đến 20 kỳ trong khoảng 2 triệu năm qua. Riêng trong hậu kỳ Pleistocène khoảng từ 125.000 năm đến 10.000 năm trước ngày nay, nghĩa là khi loài người Hiện Đại (Homo Sapiens Sapiens) đã xuất hiện thì mực nước biển ở Đông Nam Á cũng đã 5 lần lên xuống. Những lần xuống đó là vào khoảng 115.000 năm, 90.000 năm, 55.000 năm, 35.000 năm và lần cuối cùng 18.000 năm cách ngày nay (37). Ở 90.000 năm trước khi nước biển xuống thì người Hiện Đại chưa đến vùng Đông Nam Á. Họ đến khoảng 60.000 năm trước đây, vậy khi nước biển xuống khoảng 55.000 năm trước, chính là lúc người Hiện Đại Đông Nam Á đất liền bắt đầu thiên di ra các hải đảo Nam Thái Bình Dương, vì lúc đó nước biển cạn dần, đã nổi lên những triền đất nối liền với đại lục. Vậy gần như người Hiện Đại từ Đông Phi Châu thiên di đến Đông Nam Á đã có dịp tiến thẳng ra hải đảo vì khí hậu thích hợp và vì thuận đường lui tới. Lúc đó họ vẫn còn thuộc dân hắc chủng. Khảo cổ học đã có dấu tích của người Hiện Đại ở Úc Châu, khoảng 50.000 năm trước đây, ở New Guinéa 40.000 năm .

Hai, điều kiện môi trường và khí hậu. Người Hiện Đại Đông Phi tiến được ra hải đảo Thái Bình Dương nhưng lại chưa thể tiến ngay lên phía Bắc vì lúc đó miền Bắc đang trong thời băng hà. Không khí chỉ ấm dần từ 40.000 năm trước cho đến 21.000 năm trước lại bắt đầu thời kỳ băng hà cuối cùng thường gọi là băng hà Wurm. Sau lần băng hà cuối cùng này, không khí ấm lại dần cho đến nay khoảng từ 15.000 năm trước (34). Chính trong thời kỳ ấm lại giữa hai khoảng băng hà (- 400.000 đến - 21.000 năm) người Hiện Đại đã tiến lên phía Bắc là đất Trung Hoa ngày nay. Khảo cổ học cho thấy dấu tích của họ ở đại lục khoảng 35.000 năm trước, ở Đài Loan khoảng - 30.000, họ vượt eo biển Beringa khoảng - 30.000 (lúc đó nước biển xuống như trước lần biển xuống cuối cùng nên eo biển đã thành một giải đất liền). Ta thấy dấu tích người Hiện Đại ở bờ biển Tây Mỹ Châu khoảng - 30.000. Họ là tổ tiên của văn hóa Maya, còn dấu vết ở Nam Mỹ ngày nay (38). Tất cả những điều trên đã được khoa di truyền hiện đại ngày nay xác định là đúng : người da đỏ ở Mỹ Châu, người thổ dân ở Úc Châu có yếu tố di truyền giống với người Đông Nam Á, và Đông Á (đều thuộc chủng Nam Mongoloid) và khác với người Bắc Á (thuộc Bắc Mongoloid).

Ba, hội đủ tính đột biến di truyền. Về điểm này, còn cần thêm nhiều phân tích, nhiều chứng cớ, mới có thể trở thành một giả thuyết có tính khoa học. Tuy nhiên, khảo cổ học đã chứng minh được những người thiên di lên phía Bắc, cả những người sang Mỹ Châu, không còn hay còn rất ít yếu tố hắc chủng. Không thể kết luận họ lên phía Bắc vì lạnh, vì ánh sáng mặt trời hay nhiều gió mà biến đổi đi như vậy (như từ da đen, tóc xoăn thành da vàng hay trắng, tóc thẳng, mũi nhọn), dù không ai phủ nhận môi trường bên ngoài có làm thay đổi hình dạng con người. Nhưng để thay đổi cả hình dáng, màu da, râu tóc một cách triệt để như da đang đen trở thành trắng hay vàng, tóc đang quăn trở thành thẳng, mắt đang nâu trở thành xanh . thì phải có sự thay đổi nhiễm sắc thể DNA trong gien mà giới di truyền học gọi là có sự đột biến di truyền. Sinh học phân tử cho chúng ta biết rằng đột biến di truyền là một quá trình chậm, do nhiều yếu tố (trong đó có yếu tố môi trường, như tia sáng mặt trời, và tiến hóa) gây nên. Đột biến DNA dẫn đến nhiều thay đổi (và bệnh tật), trong đó có cả những thay đổi về hình dáng cơ thể như tóc, tai, da, mắt.

Tác giả Nguyễn Quang Trọng cho rằng vào thời kỳ Đồ Đá (không minh định đá cũ, đá giữa hay đá mới) dân Cổ Việt lúc ấy thuộc chủng Australoid nói tiếng Austric vì cách sinh sống khác nhau, dần dần phân chia thành hai nhóm: nhóm nói tiếng Nam Á (Austro-Asiatic) sống trên đất liền và nhóm nói tiếng Nam Đảo (Austranesia) sống ở vùng đồng bằng ven biển. Bắt đầu thời đá mới, trước là vì nhu cầu dân số gia tăng, sau vì biển tiến, hai tộc đã phân chia, lại cùng tìm về đồng bằng các sông nay thuộc Bắc Việt, sống đan xen với nhau và kết hợp lại với nhau. Tác giả đã ví sự kết hợp này, mà ông gọi là kết hợp yếu tố văn hóa Biển - Lục Địa, với chuyện Ấu Cơ kết hợp với Lạc Long Quân, một cuộc kết hợp êm thắm vì là kết hợp giữa hai tộc người vốn cùng một chủng tộc và một ngôn ngữ. Chuyện đó xẩy ra vào khoảng 4.000 năm cách ngày nay và ông kết luận "Cuộc phối hợp văn hóa hoàn tất vào thời Đông Sơn (850 trước CN đến 280 sau CN), tạo thành một văn hóa chung cho cư dân bản địa". Về điểm này, chúng tôi xin được nhắc lại quan điểm của chúng tôi đã phát biểu trước đây.

Thứ nhất, vào thời điểm trước khi có nạn Đại hồng thủy cuối cùng (từ 18.000 năm trước, nước biển bắt đầu dâng mỗi năm 1cm, đến 8.000 năm trước nước biển đột ngột dâng cao nhận chìm toàn bộ đồng bằng Nanhailand đến tận Việt Trì ngày nay), dân cư đồng bằng Nanhailand còn thống nhất, nói tiếng Austric chứ chưa chia làm hai Austronesian và Austro-Asiatic.

Thứ hai, vào lúc này (từ 18.000 năm đến khoảng 50.000 năm trước) chắc đã có sự đột biến di truyền, và người nói tiếng Austric ấy chắc đã là da vàng, tóc thẳng mà khảo cổ học gọi là Nam Mongoloid, chứ không còn da đen, tóc quăn, mũi rộng thuộc Hắc chủng, mà khảo cổ học gọi là Australoid. Sự đột biến di truyền xẩy ra vào thời điểm nào thì còn cần có thêm những cuộc sưu khảo, nhất là những thí nghiệm về di truyền học DNA mới có thể khẳng định được.

Thứ ba, khi nước biển dâng, chia Đông Nam Á ra thành Đông Nam Á hải đảo và Đông Nam Á đất liền thì lúc đó người nói tiếng Austric cũng bắt đầu chia hai : phần ở hải đảo và ven biển nói tiếng Austronesian và phần ở sâu trong lục địa nói tiếng Austro-Asiatic.

Thứ tư, chỉ khi nước biển bắt đầu rút (khoảng 5.500 năm cách ngày nay), trả dần lại đồng bằng sông Hồng mới thì người đã di tản đi nơi khác vì nạn Đại hồng thủy nay mới đổ về tái htiết đồng bằng này, và đó cũng là thời kỳ dựng nước Văn Lang. Lạc Long Quân Nam Đảo và Ấu Cơ Nam Á kết hợp với nhau vào lúc này. Và đây là điểm khác biệt giữa chúng tôi với tác giả. Lạc Long Quân gặp Ấu Cơ khoảng từ 5.500 năm trước, từ lúc nước biển bắt đầu lui chứ không phải vào 4.000 năm trước đây khi biển tiến. Nhưng tại sao Lạc Long Quân và Ấu Cơ lại chia lìa, người đem 50 con lên núi, người đem 50 con xuống biển? Sự chia lìa đó xẩy ra vào lúc nào? Truyền thuyết chỉ nhắc lại lời Lạc Long Quân: "Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, ở lâu với nhau không được, nay phải chia ly". Dù có nói thêm một câu: "Hữu sự bảo cho nhau biết, đừng quên". Cái thông điệp mà truyền thuyết đómuốn gửi đi, qua câu nói của Lạc Long Quân, vẫn còn là một bí ẩn.

Nói tóm lại, về vấn đề nguồn gốc dân tộc Việt Nam, đã đến lúc chúng ta đặt vấn đề với giả thiết Bắc xuống Nam, và nghiêm túc thử nghiệm giả thiết Nam lên Bắc. Thực ra, chúng ta cũng chẳng còn quyền lựa chọn nào khác vì khoa học, nhất là khoa di truyền học, đã lựa chọn dùm chúng ta: Khởi thủy, người Hiện Đại (Homo Sapiens - Sapiens) từ Đông Phi đến Đông Nam Á; rồi từ đó họ tiến lên phía Bắc. Sau vì có sự phối hợp với chủng từ Tây Bắc xuống, họ hợp thành cái cốt lõi của dân sống ở Trung Quốc ngày nay. Đó là giai đoạn Nam lên Bắc. Giai đoạn này khoảng từ sau 40.000 năm cách ngày nay cho đến 3.000 năm cách ngày nay thì Trung Hoa bắt đầu có loạn Xuân Thu Chiến Quốc. Đến khi nhà Tần thống nhất lục quốc, nhất là từ khi nhà Hán cai trị Trung nguyên, những dân thuộc Đại tộc Bách Việt ở các nước lưu vực sông Dương Tử xuôi về Nam, không chịu sự đồng hóa của người Hoa Hán đã di dần về phương Nam. Một số những người thuộc nhóm này đã sát nhập với dân Lạc Việt. Giai đoạn này kéo dài cũng cả ngàn năm, nhưng những thiên di từ đời Tần đến đời Đông Hán (khoảng 300 năm trước CN đến 100 năm sau CN) có lẽ là quan trọng hơn cả. Chúng tôi tin rằng đó là một phần của kết luận về nguồn gốc dân tộc Việt Nam.

Cung Ðình Thanh, Nguyễn Văn Tuấn, Nguyễn Ðức Hiệp

Tập san Tư tưởng

Tài liệu tham khảo và chú thích

1. Nguyễn Khắc Ngữ, "Nguồn gốc Dân tộc Việt Nam", Nhóm Nghiên cứu Sử Địa Việt Nam xuất bản, Montréal: 1985; Bình Nguyên Lộc, "Nguồn gốc Mã Lai của Dân tộc Việt Nam", Nhà xuất bản Lá Bối, Sài Gòn: 1971.

2. Gần đây mới thấy có "Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam" của Trần Ngọc Thêm - Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh, tháng 3/2001.

3. Đọc "Một số vấn đề lý luận về Lịch sử Tư tưởng Việt Nam", sách lưu hành nội bộ, Hà Nội: 1984 - Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Triết học xuất bản.

4. Phạm Huy Thông, "Năm mươi năm tìm hiểu văn hóa Hòa Bình", Khảo cổ học, số 1 & 2/1984.

5. W. G. Solheim II, "Thắp sáng lại quá khứ bị lãng quên", Tạp chí National Geographic số tháng 3/1971, bản dịch của Hoài Văn Tử & Vĩnh Như, trong Tập San TƯ TƯỞNG số 2, tháng 4/1999.

6. W. G. Solheim II - Bài đã dẫn [5].

7. Ngô Thế Phong ,"Dấu vết văn hóa Hòa Bình ở Đông Nam Á", Khảo cổ học, số 1 & 2/1984. Chữ Phức hợp Kỹ thuật Hòa Bình (Techno-complex) là đề nghị của C. F. Gorman, học trò của W. G. Solheim II. Xem thêm "The Hoabinhnian and after : subsistence pattern in S.A. during the Latest Pleistocene and Early Recent periods" - Word Archaeology 2: 300-320, 171; "Hoabinhnian: A pebble-teal complex with Early Plant association in S.A.", Science, CL XIII No.3868, 14 Feb 1969.

8. Higham C, "The Bronze Age of Southeast Asia", Cambridge University Press, 1966.

9. R. H. Geldern, "Research on Southeast Asia : Problems and Suggestions", American Anthropologist, No.4, New York, 1996.

10. David N. Keightly (biên tập), "The Origins of Chinese Civilization", University of California Press, Berkeley, Los Angeles: 1983.

11. Li Chi, "The Beginnings of Chinese Civilization", Seattle: 1957.

12. I. R. Solin Khanov, 1979 : 37. Theo Trịnh Sinh, "Những hiện vật đồng đỏ trong văn hóa Đông Sơn", Khảo cổ học số 1/1992; "Nhận dạng trống giả cổ", Khảo cổ học, số 4/1997. Đọc thêm "The Cradle of the East" của Ping-Ting- Ho, phần Appendix I", "Excavation at Non Nok Tha, Northeastern Thailand, 1968", Interim Report, Asia Perapective XIII (1970), p.139; "Early Bronze in Northern Thailand", 1968 của W.G. Solheim II.; "Further Evidence to Support the Hypothesis of Indigenous Origins of Metallurgy in Ancient China" do Noel Barnard đọc trong Hội nghị Berkeley 1978 và in trong The Origins of Chinese Civilization - University of California Press, 1980.

13. "It will use the big rivers as language conduct, but the direction of dipersal is the exact reverse of the Himalaya centrifugal radiation hypothesis" - "Linguistic Diversity in Space and Time" - Johana Nicols, trích theo Eden in the East, trang 138-139.

14. J. Y. Chu và đồng nghiệp, "Genetic relationship of populations in China", Proc. Natl. Acad. Sci, USA 95, 11763-11768, 1998.

15. Cung Đình Thanh, "Gốm cổ tại Việt Nam và vai trò của nó trong văn hóa tiền sử", Tập San TƯ TƯỞNG số 12 tháng 2/2001.

16. Đọc "The Origins and Early Cultures of The Cereal Grains and Food Legumes" của Te-Tzu Chang, Chương 3 trong "The Origins of Chinese Civilization" - sđd [10].

17. Cung Đình Thanh, "Khái niệm về biển tiến ở Việt Nam" và bài "Sự thuần hóa cây lúa nước và ảnh hưởng của nó đối với tư duy người Việt Cổ", Tập San TƯ TƯỞNG số 3, tháng 7/1999.

18. Trích Eden in the East (trang 70-71) của Stephen Oppenheimer: "The prime "home" the most likely of rice - where climatically, the least manipulation is required to grow it - are in tropical Indo-China down to the Malay border Burma Bangladesh and the extreme South coast of China" - Peter Bellwood - "The Prehistory of Southeast Asia and Oceania" - Collins, Auckland, 1978; "Rice, though, was clearly pivotal t the Neolithic stay-athome mainland Indo-China from a very early stage, that is, if the Sakai cave findings are confirmed we now have a strange new image : Instead of the sinocentric model with the Chinese inventing rice cultivation, we have Austro- Asiatic speaking "Southern Barbarians" from Indo-China teaching the knowhow about rice to the Chinese".

19. Fritjof Capra, "The Tao of Physics", Fontana Paperbacks, London, 1983.

20. Con người được cấu tạo bằng nhiều tỷ tế bào. Tất cả các tế bào đều có cấu trúc giống nhau: trong mỗi tế bào đều có một cái nhân (nucleus) nằm chính giữa. Cái nhân này có chứa những chất liệu di truyền mà ta thường gọi là DNA (viết tắc từ chữ deoxyribonucleic acid). Mỗi nhân thường có hàng triệu DNA. DNA gồm có bốn mẫu tự (yếu tố hóa học): A (adeline), C (cytosine), G (guanine), và T (thymine). Một mảng DNA tạo thành một gien. Và nhiều gien tạo thành một bộ di truyền hay nhiễm sắc thể, còn gọi là chromosome. Con người có 23 nhiễm sắc thể.

21. A. Vu-Trieu và đồng nghiệp, "HLA-DR and DQB1 DNA polymorphisms in a Vietnamese Kinh population in Ha Noi", Tập san European Journal of Immunogenetics, năm 1997, bộ 24, trang 345-356.

22. Khoảng cách di truyền (hay còn gọi là genetic distance) là một thông số di truyền học đo lường mức độ khác nhau giữa các nhóm dân. Chỉ số này có giá trị tối thiểu là 0 (tức hai nhóm dân giống nhau về mặt di truyền), và giá trị tối đa là 1 (tức hai nhóm dân hoàn toàn khác nhau).

23. R. Ivanova và đồng nghiệp, "Mitochondrial DNA polymorphism in the Vietnamese population", Tập san European Journal of Immunogenetics, năm 1999, bộ 26, trang 417-422.

24. W. Kim và đồng nghiệp, "Y chromosomal DNA variation in East Asian populations and its potential for inferring the peopling of Korea", Tập san Journal of Human Genetics, năm 2000; bộ 45, trang 76-83.

25. S. W. Ballinger và đồng nghiệp, "Southeast Asian mitochondrialDNA analysis reveals genetic continuity of ancient Mongoloid migration," Tập san Genetics, năm 1992, bộ 130, trang 139-45.

26. C. G. Turner, "Major features of Sundadonty and Sinodonty, including suggestions about East Asian microevolution, population history, and late Pleistocene relationships with Australian aboriginals", Tập san American Journal of Physical Anthropology, năm 1990; bộ 82, trang 295-317.

27. T. Hanihara, "Population prehistory of east Asia and the Pacific as viewed from craniofacial morphology: the basic populations in east Asia, VII", American Journal of Physical Anthropology, năm 1993, bộ 91, trang 173-87.

28. Đột biến (mutation) là một sự kiện sinh học xảy ra ở trong tế bào. Gien được cấu trúc bằng một chuỗi DNA gồm 4 mẫu tự A, G, C, T. Khi một chuỗi DNA bị thay đổi, tức đột biến (chẳng hạn như từ GCAATGGCCC thành GCAACGGCCC) thì các đặc tính sinh học liên quan đến gien, chẳng hạn như mật độ xương, có thể bị thay đổi.

29. Bing Su và đồng nghiệp, "Y-chromosome evidence for a northward mi-gration of modern humans into eastern Asia during the last Ice Age," American Journal of Human Genetics, năm 1999, bộ 65, trang 1718-1724.

30. Yuehai Ke và đồng nghiệp, "African origin of modern humans in East Asia: a tale of 12000 Y chromosomes," Science, năm 2001, bộ 292, trang 1151-1153.

31. Bing Su và đồng nghiệp, "Polynesian origins: insights from the Y chromosome," Tập san Proceedings of the National Academy of Science (USA), năm 2000, bộ 97, trang 8225-8228.

32. Xin đọc bài "Các Vua Hùng dựng nước Văn Lang", Tập San TƯ TƯỞNG số 13, tháng 4/2001, trg 7.

33. Alberto Piazza, "Human evolution: towards a genetic history of China", Nature, Vol. 395, No. 6703, 1998.

34. Li Yin và đồng nghiệp, "Distribution of halstypes from a chromosome 21 region distinguishes multiple prehistoric human migrations", Proc. Natl. Acad. Sci. USA, Vol. 96, pp. 3796-3800, 1999.

35. Kwang-Chih-Chang, "The Archaeology of Ancient China", New Haven, Conn: 1968.

36. Barnard Noel, "Radiocarbon Dates and Their Significance in the Chinese Archaeological Scene: A list of 420 Entries from Chinese", Sources Published up to Close of 1979, Canberra.

37. Hà Văn Tấn dẫn theo Chapell (1987 - 83), "Năm lần nước biển lên xuống ở Đông Nam Á thời hậu kỳ Pleistocène", Khảo cổ học, số 1/1992; và "Sự biến chuyển từ Pleistocène đến Holocène ở Đông Nam Á" cũng cùng số. Cũng có thể xem thêm Tập San TƯ TƯỞNG các số 2, 3, 4, 7, 12, 13, 18.

38. Dẫn theo "The Cambridge Encyclopedia of Human Revolution", Cambridge University Press.

nguồn: dongtac.net

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bài của Thiên Đồng đưa lên có những tư liệu phản ánh một hiện thực khách quan rất khoa học đó là gen di truyền. Vấn đề còn lại là sự giải thích hợp lý.

Ngày mai 19/ 8 Mậu tý tôi sẽ mở hàng loạt topic tại tiểu mục: "Nghiên cứu cổ sử Việt" và đưa bài này vào mục tham khảo.

Share this post


Link to post
Share on other sites