Posted 21 Tháng 4, 2008 Nhắc đến các môn nghệ thuật truyền thống, có lẽ không môn nào không liên quan đến lý học. Võ thuật cũng không ngoài quy luật đó.Tôi xin trình bày những hiểu biết sơ lược của tôi về mảng này. Hiện nay, những môn gọi là võ cổ truyền tại Việt Nam, có rất nhiều môn nguồn gốc từ Trung Quốc. Để nhận diện ra được bài bản nào là võ Việt đối với một số người là tương đối khó khăn. Theo nhận định cá nhân của tôi, các môn võ cổ truyền ở miền Bắc đa số có nguồn gốc xuất xứ từ Tàu ngoại trừ môn võ Hét (Nhất Nam) ở vùng Thanh Nghệ. Còn ở phía Nam, có nhiều thầy võ tuy khoác lên mình chiếc áo “Thiếu Lâm” nhưng thực sự lại là võ cổ truyền Việt Nam. Bởi vì có những dấu ấn của võ Việt không lẫn vào đâu được. Tôi muốn trình bày vài nét sơ bộ về mảng võ thuật của Đàng trong. Khi nhắc đến võ thuật truyền thống, thông thường người ta nghĩ ngay đến võ Bình Định và cho rằng các bài bản được lưu truyền ở đây là của triều Tây Sơn. Tuy nhiên, đây là một ngộ nhận rất lớn. Theo nhận định của một số bạn bè có hiểu biết của tôi, đa số các bài bản võ đang lưu truyền tại Bình Định là các bài bản của triều đình nhà Nguyến. Thời nhà Nguyễn, dân Bình định vốn giỏi võ nên họ luôn có xu hướng lập công danh theo đường võ nghệ. Mà muốn thi thì phải học các bài bản của triều đình. Những bài bản này gọi là “Võ Kinh” hay “Võ Quan” để đối lập với “Võ Lâm” là võ của giới giang hồ. Tuy nhiên, không phải là võ của Tây Sơn đã thất truyền ở Bình định, nhưng nó được truyền rất hạn chế. Đặc điểm của các bài bản võ Tây Sơn dễ nhận ra là các tên thế võ trong bài (gọi là “thiệu”) là những vần thơ Nôm rất dễ hiểu (khác với thơ võ của nhà Nguyễn là thơ Chữ Hán) như những bài Yến Phi Quyền. Đặc biệu bài Song Tô có lời thiệu là thơ Nôm thất ngôn, mang âm hưởng của lòng yêu nước nồng nàn “Quyết tâm giữ vững cõi bờ giang sơn”. Xin lỗi tôi đã đi quá xa. Xin phép trở lại với phần lý học. Những bài “Võ Quan” của triều Nguyễn luôn mang trong nó những tên gọi mang ý nghĩa của lý học, chẳng hạn như: 1. Âm Dương Quyền: Tên của bài này còn gọi là “Ngọc Trản”, đây là bài quyền bắt buộc phải học trong các môn thi cử nhân võ. Tên “Ngọc Trản” có người cho rằng là tên của cái giếng ngọc nơi Trọng Thuỷ (trong truyền thuyết An Dương Vương) tự tử. Trong dân gian, vốn lưu truyền nhiều phiên bản khác nhau của bài quyền này. Ngày nay, một trong những phiên bản đó đã được Liên đoàn võ cổ truyền Việt Nam đưa vào nội dung bắt buộc trong thi đấu. Để biết thêm chi tiết về bài quyền này. Các bạn có thể xem các links sau: http://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%E1%BB%8Dc_tr%E1%BA%A3n_ng%C3%A2n_%C4%91%C3%A0i http://www.vothuat.net.vn/Web/?jumpto=article&articleid=1238 http://www.phucat.net/portal/index.php?option=com_content&task=view&id=50&Itemid=106 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 21 Tháng 4, 2008 Nhắc đến Âm Dương thì nhắc đến lưỡng nghi. Trong làng võ Việt Nam, có một môn phái hiện đại tên Vovinam có bài bản tên là "Lưỡng nghi kiếm pháp". Không rõ bài kiếm này có nguồn gốc từ đâu, nhưng các võ sinh lâu năm của Vovinam đều cho rằng thời Sáng Tổ Nguyễn Lộc, chưa có dạy bài kiếm này. Cũng môn Vovinam, có một bài tên là "Tứ tượng côn". Các môn sinh lâu năm cũng cho rằng trước đây môn này chưa có bài này. Còn các võ sư võ cổ truyền cho rằng đây chính là bài "Roi Lâm" trong võ thuật truyền thống. Vốn là một bài võ trận dùng để khắc chế lăn khiên (đằng bài). Cả lăn khiên và roi đều là hai binh khí đơn giản nhưng rất đặc dị của võ thuật truyền thống Việt Nam. Dân Huế ngày xưa nổi tiếng vể roi (Roi Kinh quyền Bình Định), sau này ở Bình định có cụ Hồ Ngạnh rất nổi tiếng về đường roi "chấm sa mỡ". Share this post Link to post Share on other sites
Posted 21 Tháng 4, 2008 2. Ngũ hành: Đây chính là 5 thế tay (thủ pháp căn bản) Xả (Thuỷ), Đâm (Kim), Lòn (Thổ), Kiền (Mộc), Bứt (Hoả). Nếu các môn võ Trung Quốc nổi tiếng với các môn nội công thì đây chính là môn luyện gân truyền thống của võ thuật Việt Nam. Có thơ rằng: Ngũ hành, phải tập cho ròng Ngọn kim, hỏa nằm lòng mới thôi. hay là Ngũ hành luyện tập ngày ngày Đem vào thảo bộ mới hay diệu kì ... 3. Bát Quái: Đây là 8 thế tấn (luyện chân) căn bản của Võ ta. Bao gồm Long tấn, Xà tấn, Kim kê tấn, Hồi phụng tấn, Hồng Hổ tấn, Bạch Hạc tấn, Hắc Hầu tấn, Lạc Nhạn tấn và Trung bình tấn ứng với 8 phương vị Bát Quái. Ngoài ra còn có 8 bài quyền để luyện tấn bao gồm: Hồng Hổ quyền, Hắc hầu Quyền, Phụng Hoàng Quyền... Khi phát triển vào phía Nam, 8 bài quyền trên chỉ còn giản lược lại một bài quyền duy nhất là "Bát Quái Chân Quyền" (tác giả là cố võ sư Trương Thanh Đăng). Điểm đặc biệt của bài quyền này khác với các bài quyền khác của võ thuật truyền thống là chiếm rất ít diện tích nên rất phù hợp cho luyện tập trong điều kiện chật hẹp. Và võ sinh phải tập cả năm ròng trước khi chuyển sang các phần khác. Cũng tên Bát Quái có bài "Bát Quái Siêu". Như bài Âm Dương Quyền, Đây cũng là một bài bản bắt buộc cho thi cử nhân võ ngày xưa. Siêu là một loại binh khí giống như Đại Đao của Tàu nhưng có một số điểm khác biệt. Ngày nay, bài này đã được liên đoàn võ cổ truyền đưa vào nội dung bắt buộc trong thi đấu với tên là "Siêu Xung Thiên". http://vi.wikipedia.org/wiki/Si%C3%AAu_xung_thi%C3%AAn 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 21 Tháng 4, 2008 Dịch võ đạo: Năm 1970, báo Võ Thuật tại Sài Gòn có đăng một bài giới thiệu môn võ mớI do VS Liên Văn Răng sáng lập: DỊCH VÕ ĐẠO. Từ năm 1971, môn võ này đổi tiên lại là Âm dương võ phái vì tên Dịch võ đạo trùng với tên môn võ của VS Hùng Long. Theo lời của Võ sư Liên Văn Răng, ông đã "hoát nhiên đại ngộ" nguyên lý phản ứng tự nhiên của con ngườI dựa trên nguyên tắc “tùy cơ ứng biến” chứ không dùng một đòn khắc chế. Cảm thông được nguyên lý trên, anh tiếp tục nghiện cứu mọI khái niệm cốt tủy của Kinh Dịch để : “… thấu hiểu nghĩa tinh vi, vào đến chỗ thần diệu mà sử dụng đến cùng…” như Hệ Từ Thượng nói. Và anh bắt đầu áp dụng Lý Dịch vào võ thuật, nói chung, vào động tác của cơ thể. Tất cả các đòn thế của Âm Dương võ phái, những bài thảo và những binh khí cổ điển đều tuân theo nguyên tắc căn bản: “Âm Dương, Cương Nhu, Thực Hư”. Tất cả các thức thế, từ thức căn bản đến chính thế, kỳ thế, biến thế, hộ thế đều được đặt cho danh từ kỹ thuật theo sự biến động của mọi sự mọi vật, các danh nhân lịch sử cùng những địa danh trong nước và danh từ Dịch Lý. Chẳng hạn, trong bài “Tứ Linh Quyền” có những thế được nghiên cứu trong Bát quái thuần càn như: Tiềm Long vật dụng, Hiển Long tại điền, Long dược tại uyên, Phi long tại thiên, Kháng Long hữu hốI, Quần Long vô thủ. Đặc biệt, bài "Hồng Bàng Việt pháp" (Việt: Búa) lấy từ những thế rút ra từ quẻ Tiệm như: Hồng tiệm vu can, Hồng tiệm vu bàn, Hồng tiệm vu lục, Hồng tiệm vu mộc, Hồng tiệm vu lăng, Hồng tiệm vu quì. 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 24 Tháng 4, 2008 Điệu hồn trống trận Tây Sơn Tiếng trống vang trên đất Tây Sơn (Bình Định) hoàn toàn không hề giống tiếng trống của bất cứ nơi đâu trên đất nước, và cũng chẳng nơi đâu trên thế giới này có được tiếng trống như vậy... Nhạc võ Tây Sơn gắn với lò võ nổi tiếng của người Việt ở Bình Định. Tương truyền loại nhạc này do ba anh em người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ đặt ra cho quân khởi nghĩa luyện võ. Với một bộ trống 17 chiếc, người tập võ sẽ dùng hai tay để đánh 12 chiếc, còn lại 5 chiếc đánh bằng đầu, 2 gót chân và 2 khuỷu tay. Người tập võ đánh được 17 trống được xem là "võ thuật như thần". Sau khi ba Ngài mất, mỗi dịp tế lễ để tưởng niệm những vị anh hùng đã lãnh đạo quân sĩ quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi, nhân dân ở quê các Ngài vẫn đánh trống võ. Nhạc võ Tây Sơn trở thành một loại nhạc lễ trong di sản nghệ thuật của người Việt Nam. Như tên gọi, nhạc võ Tây Sơn có hai phần: nhạc và võ. Phần nhạc được phối âm dựa trên tiết tấu chủ đạo của trống chiến trên nền âm cổ truyền (hò, xang, xế,...). Chia thành ba hồi: xuất quân, xung trận - công thành và ca khúc khải hoàn, hoàn toàn không có hồi lui quân hoặc thu quân như trống trận của các triều đại khác cũng như quân đội của nhiều quốc gia khác trên thế giới. Nhiều du khách, kể cả các nhà nghiên cứu đều lấy làm thú vị khi phát hiện ra chi tiết này. Có lẽ do hễ đánh là thắng nên cứ sau mỗi lần công thành là hồi khải hoàn lại có dịp vang lên, về sau những hồi lui quân, thu quân không có dịp được sử dụng (?). Kể cũng không lấy gì làm lạ vì trong đời cầm quân của mình, vị hoàng đế có tên tuổi gắn liền với bài trống độc đáo này là Quang Trung chưa một lần thua trận, đội quân của ông cũng chưa một lần phải lùi bước trước kẻ thù nào. Tuy chỉ có 3 hồi, giản đơn là vậy nhưng nhạc võ Tây Sơn không hề lẫn trộn với bất cứ tiếng trống nào trên khắp năm châu, trống trận Tây Sơn là bản giao hưởng hùng tráng hừng hực hào khí Quang Trung và thấm đượm tinh thần thượng võ Tây Sơn. Khi tiếng trống cất lên, lập tức không gian như vang vọng hồn thiêng sông núi. Nghe như rầm rập tiếng quân đi, voi thét; tiếng lướt gió, chạm nhau của binh khí; tiếng reo hò vang dội của ba quân. Và cả sự trầm lắng tưởng niệm vong hồn tử sĩ trước khi những thanh âm reo vui, rộn rã trong khúc khải hoàn ca chan hòa muôn phương. Thế trận thần tốc, táo bạo năm nào dường như đang hiện diện, rần rật chuyển lan trong từng mạch nhịp của người nghe. Trống trận Tây Sơn không chỉ là hiệu lệnh, là lời động viên, cổ vũ ba quân mà còn là những đòn thế tâm công xoáy sâu, đánh thẳng vào tâm lý của quân thù, góp phần làm nên thắng lợi. Dàn nhạc võ Tây Sơn bao gồm: trống chiến, kèn xona (còn gọi là kèn bóp), chiêng, phèng la. Linh hồn của dàn chiến nhạc là 12 chiếc trống, tượng trưng cho thập nhị địa chi (Tý, Sửu, Dần, Mão...), xếp thành ba bậc trên giá đỡ, ứng với triết lý tam tài (Thiên - Địa - Nhân). Phần võ, nét độc đáo tạo thành nhạc võ Tây Sơn, chính là những đòn thế võ thuật hàm chứa trong từng thủ pháp thể hiện nhạc trống. Một lão võ sư đất Bình Định cho biết: "Trống trận Tây Sơn không chỉ là hiệu lệnh hành quân, là cách các tướng chuyển những mệnh lệnh chiến đấu điều binh khiển tướng. Nó hàm chứa nhiều đòn thế võ thuật siêu đẳng. Khi xưa, người đánh trống trận cũng phải tự chiến đấu để vừa bảo vệ mình vừa bảo vệ tiếng trống, tín hiệu giữ nhịp trận đánh không bị ngắt quãng. Chính vì lẽ đó mà đôi dùi trống, động tác đánh trống, bộ pháp di chuyển cũng là một nghệ thuật tự vệ. Khi đánh trống trận, người đánh di chuyển hết sức linh hoạt, bất cứ bộ phận nào của thân thể cũng có thể sử dụng để đối địch. Tuy nhiên, nếu quan sát kỹ sẽ thấy tính sát phạt của những đòn thế này không cao, nó mang tính răn đe nhiều hơn. Vả lại, người đánh trống cũng được người múa cờ (cũng hàm chứa nghệ thuật tự vệ) hỗ trợ". Cho đến nay để thể hiện trọn vẹn được điệu hồn trống trận Tây Sơn không hề giản đơn. Năm 2000, trong lễ hội kỷ niệm 990 năm Thăng Long - Hà Nội, người dân Thủ đô đã từng thấy, từng nghe âm vang trống trận Tây Sơn qua sự thể hiện của nữ nghệ nhân Nguyễn Thị Thuận, cũng là người thể hiện thành công nhất nhạc võ Tây Sơn hiện nay. Tiếng trống của chị khi rền vang quyết liệt, cổ vũ ba quân xông lên, nhưng cũng có lúc khoan hòa, thúc giục, đủ sức lay chuyển ý chí chiến đấu của kẻ thù. "Ai về Bình Định mà coi Con gái Bình Định đánh roi, đi quyền". Tiếp bước nghệ nhân Nguyễn Thị Thuận là cô bé Cẩm Mai. Một cô gái có vóc dáng mảnh mai bé nhỏ mà lại có thể khiến dàn trống trận Tây Sơn kiêu hãnh ấy bật tung những thanh âm chuyển rung đất trời. Ngay trên nền nhà cổ xưa của ba anh em nhà Tây Sơn (nay là bảo tàng Quang Trung), dòng thác xoáy âm thanh từ đôi dùi trống của cô như gạch nối đưa chúng tôi thǎng hoa về quá khứ hào hùng, như tái hiện khí thế của ngày này 213 năm về trước, khi Quang Trung đại phá quân Thanh giữa Thăng Long thành. Tiếng trống ấy tuy còn non nớt nhưng như lời anh Nguyễn Xuân Hổ, đội trưởng đội nhạc võ bảo tàng Quang Trung, "trong mỗi tiết điệu đã thấm đượm được điệu hồn trống trận Tây Sơn". Để thể hiện thành công nhạc võ Tây Sơn không chỉ cần có sự am hiểu cả hai phần võ và nhạc cổ truyền, mà còn đòi hỏi tâm huyết và sự đồng điệu trong từng tiết điệu, hơn thế thăng hoa được sự giao hòa ấy qua mỗi tiết điệu thể hiện, những điều kiện không dễ tìm thấy trong lớp trẻ hiện nay. Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất thượng võ Tây Sơn, cô bé đã theo thầy luyện võ từ nhỏ. Hai huy chương vàng trong giải võ cổ truyền tỉnh Bình Định hai năm liên tiếp (2000 và 2001) đã chứng tỏ năng khiếu và bản lĩnh quyền võ của cô bé. Mẹ làm việc trong bảo tàng nên ngay từ nhỏ cô bé đã sớm được tiếp xúc với không gian thiêng. Những âm điệu hào hùng của dàn trống trận Tây Sơn chẳng biết từ khi nào đã trở thành sự đam mê của cô bé. Bởi vậy, tuy được chọn làm cộng tác viên biểu diễn võ cổ truyền nhưng cô bé lại hay lén các cô chú tìm đến với những tiết điệu cổ xưa ấy. Phát hiện cái "duyên nghiệp" của cô bé, ông Trần Đình Ký - giám đốc bảo tàng Quang Trung và anh Nguyễn Xuân Hổ đã truyền thụ những tinh hoa, dìu dắt cô bé vào nghề. Không phụ lòng tin, cô bé đã và đang ngày càng khẳng định những nét điệu tài hoa của mình. Về đất Tây Sơn, được nghe tiếng trống trận Tây Sơn, khách xa quê có cảm giác như trăm vạn hùng binh đang lớp lớp xông lên, nhưng trong tiếng trống vang rền đó lại ánh lên một triết lý thấm đẫm chất nhân văn của dân tộc: khoan hòa nhưng kiên quyết. (sưu tầm) Share this post Link to post Share on other sites