phoenix

NHÀ BA GIAN Ở NÔNG THÔN VIỆT NAM VÀ PHONG THỦY LẠC VIỆT

6 bài viết trong chủ đề này

NHÀ BA GIAN Ở NÔNG THÔN VIỆT NAM VÀ PHONG THỦY LẠC VIỆT

Phong Châu(*)

Ở các vùng nông thôn Việt Nam – nhất là các vùng miền Bắc – các căn nhà 3 gian,1 gian 2 trái, 5 gian là những kiểu nhà rất phổ biến. Sự giàu có hay nghèo hèn của chủ nhân những ngôi nhà, được thể hiện qua qui mô và vật liệu làm nhà; nhưng kiểu dáng hầu như không có sự thay đổi đáng kể. Có thể có một vài biến tấu trong kết cấu kèo, cột, sự nhô ra, thụt vào của các phòng…Ví dụ như kiểu nhà ba gian – Tứ trụ giao nguyên, một thò hai thụt – tức là ngôi nhà ba gian có vì kèo hai lớp hàng ngang, giống như hai tầng cây xuyên. Những căn nhà này được bố trí theo hàng ngang, có mặt tiền rất rộng, có thể có một hay nhiều cửa cùng hướng mặt tiền của căn nhà. Một đặc điểm nữa là kiểu bài trí đồ đạc trong nhà cũng na ná như nhau:

Căn phòng chính giữa được bố trí làm phòng khách và nhà thờ. Ngay sát tường đối diện với cửa cái người ta đặt bàn thờ - Thần, Phật và Gia tiên. Theo phép thờ cúng thường người ta đặt bàn thờ Phật ở chính giữa – nếu đứng từ ngoài nhìn vào – bàn thờ Thần đặt bên tay trái, bàn thờ Gia tiên đặt bên tay phải. Trước bàn thờ, người ta thường có đặt một bộ trường kỷ hoặc bàn ghế tiếp khách. Hai bên cột nhà trước bàn thờ, người ta thường treo hoành phi, câu đối, hoặc như nhà nào nghèo trên vách cũng treo tranh hoặc câu đối bằng giấy. Nhà thường không có chia buồng ngang, nên người ta hay đặt hai bộ ván ở hai bên nhà. Nếu có chia làm hai trái thì một bên nhà người ta để cót thóc hoặc giống cây các loại cho mùa sau. Một bên người ta làm phòng ngủ. Thông thường thì khu vực bếp làm riêng, biệt lập hoặc ngăn cách hẳn với căn nhà.

Có thể nói: Do sự phổ biến và tồn tại rất lâu đời, nên những kiểu nhà trên trở thành một lối kiến trúc đặc thù, rất phổ biến trong văn hóa nông thôn Việt Nam.

Tại sao ông cha ta lại chọn kiểu nhà này?

Nếu xét dưới góc độ Phong thủy thì những kiểu nhà này có những đặc điểm chung như sau :

* Cách bài trí nội thất trong nhà như trình bày ở trên gợi cho ta một ý niệm về sự cân bằng Âm Dương.

* Tất cả các ngôi nhà từ trước đến sau chỉ có một ngăn. Do đó, hướng nhà, hướng phòng, sơn nhà, sơn phòng đều trùng hợp.

Trong Phong thủy gọi đó là nhà Đơn trạch .

* Thông thường các căn nhà đều được bố trí theo hướng cửa chính là Nam hoặc Đông nam. Các cụ thường ví: “Lấy vợ đàn bà, làm nhà hướng Nam”.

Với sự phổ biến kiểu nhà này ở khắp một vùng nông thôn rộng lớn và tồn tại lâu đời, đã chứng tỏ một sự thống nhất về văn hóa xã hội và là một sự lựa chọn có ý thức của tiền nhân. Nhưng tại sao tiền nhân lại chọn kiểu nhà này?

Theo cái nhìn của thuật Phong Thuỷ – dù xét theo phương pháp của Dương trạch tam yếu hay Bát trạch minh cảnh và trong điều kiện kinh tế thời xưa – thì đây là một kiểu nhà bảo đảm tối ưu về mặt phong thuỷ cho một căn nhà, trong sự tương quan nội tại của căn nhà đó (Không tính tương quan của căn nhà với cảnh quan môi trường). Điều kiện cần để có sự tối ưu này là căn nhà hợp hướng với cung mạng của chủ nhà. Những sự phân tích dưới đây, được đặt giả thiết là hướng nhà hợp tuổi chủ nhà.

1) Lập luận theo Dương trạch tam yếu:

Một căn nhà được coi là tốt thì phía sau nhà phải tốt (Tọa sơn tốt – nói theo thuật ngữ Phong thuỷ) và hướng nhà phải tốt. Vì là nhà đơn, nên tất cả các phịng chính và phụ đều có hướng tốt và toạ sơn tốt.

2) Lập luận theo Bát trạch minh cảnh:

Do tất cả các phòng và nhà đều hợp hướng chủ nhà (theo giả thiết đã nêu). Bởi vậy sẽ mang lại sự thống nhất và phát tài cho gia đình.

Đến đây, một vấn đề được đặt ra: Theo đồ hình Hậu thiên bát quái từ bản văn cổ chữ Hán thì Hậu thiên bát quái Văn Vương phân Đông & Tây trạch như sau:

ĐÔNG TÂY TRẠCH

BÁT QUÁI VĂN VƯƠNG

Như vậy, bạn đọc cũng thấy chỉ có người mạng cung thuộc Đông Tứ trạch mới có cơ hội được cặp sơn hướng tốt nhất là Bắc – Nam (Phúc Đức). Còn cặp sơn hướng tốt nhất của người Tây Tứ trạch là Tây Nam và Đông Bắc chỉ thuộc loại trung bình (Sinh khí). Không lẽ thuật Phong Thuỷ Đông phương lại chỉ ưu ái cho người thuộc Đông tứ trạch?

Nhưng với đồ hình Hậu thiên bát quái đã hiệu chỉnh của Nguyễn Vũ Tuấn Anh (Tìm về cội nguồn Kinh Dịch. Nxb VHTT 2002) thì có sự cân bằng giữa Đông và Tây trạch vì cặp sơn hướng Tây Bắc – Đông Nam (Càn & Khôn) cho người Tây tứ trạch (Phúc Đức) tương ứng với cặp Bắc – Nam (Khảm & Ly) của Đông tứ trạch .

Xin xem hình minh hoạ sau:

ĐÔNG TÂY TRẠCH

HẬU THIÊN LẠC VIỆT

Trên cơ sở này chúng ta xem hình minh hoạ dưới đây cho một căn nhà truyền thống theo Phong thuỷ Lạc Việt:

TỌA BẮC HƯỚNG NAM

Khảm & Ly

Phúc Đức trạch thuộc Đông tứ trạch

TỌA TÂY BẮC - HƯỚNG TÂY NAM

Càn & Khôn

Phúc Đức trạch thuộc Tây tứ trạch

Qua hình trên, bạn đọc cũng nhận thấy: Đây là điều kiện tối ưu về phong thuỷ cho một căn nhà ở nông thôn Việt Nam (Với yếu tố cần là hợp hướng với cung mạng chủ nhà) dù luận theo phương pháp của Dương trạch tam yếu hay Bát trạch minh cảnh.

Phải chăng sự hợp nhất trong cách giải thích về Phong thuỷ theo hai trường phái khác nhau cho căn nhà truyền thống của Việt Nam là cơ sở của một giả thuyết cho rằng:

Những phương pháp ứng dụng khác nhau của các trường phái Phong Thuỷ hiện nay, ngày xưa vốn bắt đầu từ một phương pháp thống nhất và nhất quán. Nhưng sự thăng trầm về lịch sử khiến nó bị thất truyền và tán lạc? Chính từ những yếu tố tương tác khác nhau và những phương pháp ứng dụng của nó , mà người Hán sưu tầm được - từ những mảnh vụn còn lại của một nền văn minh Lạc Việt đã sụp đổ - người ta đã coi là những trường phái khác nhau và mâu thuẫn đến khó tin, dù cùng một phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành?

Sự phổ biến trong kiến trúc của một kiểu dáng nhà ở các vùng nông thôn Việt Nam là một yếu tố nữa cho thấy sự thống nhất về văn hóa và tri thức, đã chứng tỏ rằng:

Khoa Phong thủy lưu truyền trong văn hóa Đông phương, nguyên thủy vốn là một phương pháp nhất quán và hoàn chỉnh; thuộc về một nền văn minh một thời huyền vĩ ở miến Nam sông Dương Tử. Khi nền văn minh này bị sụp đổ vào thế kỷ thứ III trước CN, chính nền văn minh Hán đã tiếp thu một cách rời rạc những mảnh vụn của nó và lập thành những cái mà người ta quen gọi là gọi là trường phái; hỗn độn, mâu thuẫn và không đầu, không đuôi và chỉ là phương pháp ứng dụng.

Người viết hy vọng những nhà nghiên cứu quan tâm sẽ đóng góp những ý kiến quý báu.

PHONG CHÂU

-------------

* Chú thích:

Phong Châu là bút danh của Nguyễn Vũ Tuấn Anh khi viết bài này, đã đăng trên một tờ báo nào đó mà lâu ngày không nhớ tên.

Trên đây là một bài viết của ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh đã công bố trên internet. Post lại cho ACE "ngâm" cứu. Bài này còn thiếu đồ hình chưa post được lên. Sẽ bổ sung sau.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Kiến trúc nhà ở của người Lô Lô

Nhà được thiết kế ba gian. Gian giữa nhà (gian khách) rộng khoảng 3,5 m, được dựng có nóc gọi là xà đốc (sảng lè). Khi dựng xà đốc người ta phải xem ngày, giờ đẹp...

Cũng giống như dân tộc Mông, dân tộc Nùng, dân tộc Bố Y… sinh sống ở các huyện phía Bắc tỉnh Hà Giang, kiến trúc nhà ở của người Lô Lô là nhà trình tường (nhà đất). Khi một gia đình nào đó chuẩn bị làm nhà, ngoài việc chuẩn bị đủ vật liệu để làm nhà ra thì công việc chọn đất và hướng làm nhà ở của người Lô Lô rất quan trọng; xem hướng có đẹp và hợp với gia chủ hay không thì mới quyết định dựng nhà. Nhà ở của họ thường có mặt quay về hướng Nam hoặc Đông Nam. Các hộ gia đình dân tộc Lô Lô thường dựng nhà ba gian, có hộ làm năm gian nhưng rất ít.

Khung nhà được làm bằng gỗ tương đối đơn giản được kết cấu dựa trên các kèo gỗ (Lù phù) có từ 3 đến 5 hàng chân. Những vì kèo được liên kết với nhau bằng hệ thống đòn tay, ngang, dọc. Nhà được thiết kế ba gian, gian giữa nhà (gian khách) rộng khoảng 3,5 m. Gian giữa nhà được dựng có nóc gọi là xà đốc (sảng lè), khi dựng xà đốc người ta phải xem ngày, giờ đẹp thì mới dựng. Khi dựng xà đốc chủ nhà buộc một miếng vải đỏ, đóng ba đồng bạc vào thân xà đốc, buộc một túi thóc nếp, một túi ngô nếp lên hai đầu xà đốc. Dựng xà đốc xong, bắt một con gà trống cho uống một tí rượu, rồi thả con gà trống đứng lên xà đốc, làm hai túi bánh dày bố trí hai người đứng ở hai đầu xà tung bánh xuống cho trẻ em trong làng bản ăn. Với ý nghĩa là người ta cầu chúc cho ngôi nhà được xây cất cẩn thận và gia chủ làm ăn phát tài.

Không gian nhà được tổ chức theo quy mô hẹp, khép kín. Nhà ở có ba gian và không có chái. Xung quanh nhà có hệ thống tường rào bao bọc (được xếp bằng đá, đây là nét đặc trưng, nét rất riêng của các dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng cao phía Bắc Hà Giang), trước cửa nhà có một sân nhỏ. Gian chính giữa nhà là nơi tiếp khách và uống nước của gia đình. Gian này có một cửa chính rộng 1,2 m, cao 2 m gồm hai cánh khi mở quay vào trong nhà. Gian chính cũng chính là nơi để thờ tự tổ tiên, gia chủ đặt một bàn thờ nhỏ để các hình nhân khắc bằng gỗ ở bên trên (mỗi hình nhân tượng trưng cho một người trong gia đình đã khuất). Gian buồng được đặt ở bên phía tay trái hướng từ cửa chính vào, ở gian buồng này cũng đặt một cửa sổ ở mặt trước.

Gian bếp phía bên tay phải, gian này là nơi nấu ăn và là gian dành cho trẻ nhỏ, gian này cũng được lắp đặt một cửa sổ. Gác xép là nơi cất giữ và bảo quản lương thực, và khi nhà có đông khách cũng được dùng để ngủ. Muốn lên được gác xép người ta đã làm một thang gỗ có 9 đến 11 bậc và người ta kiêng không làm cầu thang có bậc là số chẵn.

Tường nhà được là bằng đất, đất dùng trình tường không được đổ nước vào để trộn, thường người ta dùng đất có nhiều sỏi hoặc đá xít thì càng tốt, nó giúp cho tường đỡ bị nứt, độ bền cao và có sức chịu lực lớn. Tường nhà có độ dày từ 40 - 50 cm. Mái nhà được lợp bằng ngói máng (ngói âm dương), mái nhà được lợp một hàng úp một hàng ngửa và chồng lên nhau tạo thành rãnh thoát nước khi có mưa. Xung quanh nhà có tường rào bằng đá được xếp đè lên nhau có chiều cao từ 1,5 m - 2 m.

Kiến trúc nhà ở của người Lô Lô nói riêng và kiến trúc nhà của các dân tộc thiểu số sinh sống ở các huyện vùng cao phía Bắc tỉnh Hà Giang nói chung, phong cách kiến trúc của họ có nhiều nét tương đồng. Về căn bản là giống nhau và đều là nhà đất. Tuy nhiên ở mỗi dân tộc lại có quan niệm khác nhau về việc chọn đất, hướng đất để dựng nhà. Đối với dân tộc Lô Lô thì việc dựng nhà, kiến trúc nhà ở luôn gắn liền với cuộc đời của mỗi con người./.

Chuyên đề Dân tộc và Miền núi

Nguồn: http://www.vovnews.vn

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tìm hiều về nhà cửa ở Bến Tre

[ HUIS - NgoiNhaChung.nEt ] Cũng như các tỉnh khác của đồng bằng sông Cửu Long, nhà ở của Bến Tre chủ yếu thường được cất dọc theo đôi bờ các sông, rạch, kênh đào, có con đường đất chạy song song theo dòng nước nối từ nhà này sang nhà khác, kéo dài từ đầu xóm cho đến cuối xóm và có thể tiếp tục đi xa hơn nữa. Dạng thứ hai là loại nhà cất dọc theo các trục giao thông bộ, một bên hay cả hai bên đường còn tùy thuộc vào địa thế của từng nơi.Nhà lớn hay nhỏ đều có sân và vườn (không kể ở các thị tứ, bến sông, bến đò, bến phà, nhà được xây cất sát mép đường để tiện việc buôn bán, bán hàng quán). Thông thường qua ngõ thì đến sân rồi nhà, sau nhà là vườn, nếu đất rộng thì vườn nằm cả hai bên nhà, có trồng cây ăn quả. Quanh vườn là hàng rào cây xanh như bông bụt, chè tàu, kim quýt. Hàng rào mang tính chất quy ước về ranh giới, hay để trang trí hơn là vì mục đích bảo vệ, chống trộm cướp. Cổng vào nhà cũng vậy, thường có ít cửa đóng, đôi khi chủ nhà trồng hai cây bông giấy ở hai bên và uốn giao nhau thành một vòm cong để thêm đẹp nhà. Các quãng dọc theo hàng rào, người ta hay trồng xen những trái cây ăn quả như dừa, xoài, mận, mít hay cây lấy gỗ như so đũa, tràm bông vàng, mù, u, bạch đàn. Tùy theo địa thế rộng hay hẹp và cũng tùy điều kiện kinh tế, sở thích của từng người, mà cách bố trí ngôi nhà trong khuôn viên có khác nhau theo mấy dạng chính sau đây.

1.

2. Sân - nhà - vườn

3. Vườn - sân - nhà - vườn - ao cá

4. Sân - nhà - bến nước (do đất hẹp, nằm sát mé sông hay rạch)

5. Sân - nhà - vườn sau - vườn hai bên (ngôi nhà nằm ở trung tâm khu vườn)

Bến Tre thuộc vùng quanh năm nắng nóng, nhưng nhờ nằm trên các cù lao bao bọc bởi những sông lớn và một hệ thống kênh rạch đan, cắt chằng chịt, nên khí hậu được điều hòa, không nóng quá và cũng không lạnh quá. Do đó, nhà cửa của người Bến Tre nói chung đều xây cất thích nghi với môi trường, đất đai, và thời tiết ở địa phương. Nhà có thể được xây cất lớn hay nhỏ bằng gạch hay bằng lá tùy theo điều kiện kinh tế của gia chủ, nhưng Bến Tre ít có kiểu “nhà đạp”, “nhà đá” (nghĩa là xây cất quá tạm bợ) như ở Bạc Liêu, Cà Mau hay Đồng Tháp Mười. Đại đa số nhà ở nông thôn Bến Tre được làm bằng gỗ, lá. Nguyên nhân chủ yếu vì tỉnh nghèo về vật liệu xây dựng, nếu mua ở nơi khác đường vận tải xa, giá thành cao, thêm vào đó, Bến Tre lại bị tàn phá nặng nề nhất trong cuộc chiến tranh vừa qua. Theo các cụ cao tuổi thì xưa kia Bến Tre có rất nhiều tre và cây cổ thụ như sao, dầu, chứ không như bây giờ, lại có nhiều cây gỗ khác như mù u, trâm bầu, mít, sầu đâu ở ngay nơi vườn. Bến Tre xa núi, không có tranh, nhưng lại giàu lá dừa nước. Dừa nước bền hơn tranh và rơm rạ, dùng lợp nhà, làm vách che cũng đẹp hơn. Lá lợp hàng năm thừa cho nhu cầu trong tỉnh, phải bán sang các nơi khác.

Nếu như ở miền Bắc, mặt nhà quay về hướng nam được coi như là một sự đúc kết có tính quy luật, vừa để tránh được ngọn gió mùa đông bắc, vừa để đón nhận ánh sáng và những tia nắng ấm mặt trời, thì ở miến Nam, người ta vẫn lưu truyền câu" Lấy vợ hiền hòa, xây nhà hướng nam" tuy nhiên đó không phải là một yêu cầu bắt buộc, bởi vì không nhất thiết các nhà đều phải như thế. Việc quay mặt nhà về hướng nào hoàn toàn tùy thuộc vào sự tiện lợi, hợp lý nhất của địa cuộc và cảnh quan chung quanh. Nếu phía trước là con lộ hay dòng sông lớn, thì nhất thiết mặt nhà phải hướng về phía đó, dù là hướng đông hay bắc. Nhà quay mặt ra sông vừa đón làn gió mát từ dòng sông mang lại, vừa chứng kiến cảnh rộn rịp, đông vui của thuyền bè xuôi ngược, tận hưởng cái đặc ân của thiên nhiên "Một cửa thấy sông nước". Ở cùng một xóm, dù quay mặt ra sông rạch, hay quay về phía mặt lộ (đường liên tỉnh, liên huyện, liên xã) thì vườn nhà này thường liền với vườn nhà kia, mà ranh đất là con mương nhỏ ngập nước.

Xưa, việc dựng nhà được quan niệm như là một trong những việc hệ trọng do đó ngoài việc chọn "cuộc đất" vừa ý rồi, còn phải xem ngày lành tháng tốt để dựng nhà, có lễ cúng Thổ địa (thần đất) và tuân thủ một số điều kiêng cữ. Nghèo thì cúng con gà, đĩa xôi, cùng hoa quả. Giàu thì làm đình đám hơn. Nhà khi dựng lên còn có lá bùa bằng mảnh vải đỏ vẽ hình bát quái treo tòn teng dưới đòn dông ở gian giữa. Có người treo nguyên cả cuốn lịch Tàu. Ngày nay, những tập tục mê tín dị đoan về địa lý, phong thủy cũng như một số tín ngưỡng, kiêng kỵ, lạc hậu đã giảm đi khá nhiều. Tuy nhiên một tập tục mang tính cộng đồng của đồng bào cùng xóm cùng làng, tối lửa tắt đèn có nhau vẫn được lưu giữ. Đó là trong làng xóm có người nào làm nhà mới thì những người chung quanh coi như có bổn phận đến giúp đỡ không lấy tiền công. Dưới quyền chỉ huy của người thợ cả, họ mỗi người một việc, thạo gì làm nấy để giúp gia đình chủ lắp ráp, xây dựng ngôi nhà. Nhiều nơi khi dựng nhà, người ta còn bắt vợ lẫn chồng chủ nhà cùng nâng hai đầu cây đòn dông, hay cùng sờ tay vào cây cột cái với hàm ý rằng đây là "của chồng công vợ" tạo nên và họ sẽ sống hạnh phúc với nhau trong ngôi nhà ấy. Gác sang một bên quan niệm dị đoan, ta thấy đằng sau cái động tác tượng trưng ấy một biểu hiện của tinh thần dân chủ, bình đẳng giữa vợ và chồng trong đời sống thôn dã. Khi sườn nhà đã đặt trên các hàng cột, người thợ cả lấy cây "thước tổ" mà ông ta dùng để đo tính toán lắp ráp ngôi nhà đặt trên chiếc bàn ở giữa nhà trên có lễ vật, hương hoa bày sẵn. Mọi người đến giúp dựng nhà đều đứng nghiêm mắt ngước lên phía nóc nhà như biểu thị sự hài lòng và vui mừng chúc tụng chủ nhà mọi sự tốt lành như ý.

Các dạng nhà chính:

Nhà chữ Đinh Đây là loại nhà rất phổ biến trong tỉnh, vùng này cũng có được cấu tạo gồm một nhà trên và nhà dưới, nhưng khác nhà sắp đọi ở chỗ nhà dưới nằm ngang hàng với nhà trên xoay đầu hồi ra phía sân trước, có cửa vào riêng cùng hướng với nhà trên. Nhà trên và nhà dưới cùng một mặt phẳng nên tiện cho việc bố trí bàn ghế khi có tiệc tùng, cưới xin, đám giỗ v.v… Bộ cửa nhà trên gồm nhiều cánh ghép liền với nhau, chứ không phải chỉ có hai cánh như kiểu nhà Châu Âu. Nhà chữ đinh thường có dãy hàng ba phía trước, nên nắng không bị chói, mưa không bị tạt vào bên trong. Có một tập quán lâu đời là nếu xây nhà chữ đinh thì cổng không mở ngay vào cửa chính của nhà trên, mà lại mở vào phía đi vào nhà dọc (của chữ đinh). Tùy sân trước rộng hay hẹp mà chủ nhà đặt ở đó nhiều hay ít chậu kiểng. Cũng có người không chơi kiểng mà áp dụng công thức: sân vườn - nhà - vườn sau. Ở đây có ao cá, chuồng gia súc, gia cầm, nếu vườn rộng thì có thêm cây ăn quả.

Bên cạnh loại nhà chữ đinh thông thường trên đây, một số nơi cải tiến thành loại nhà chữ đinh có sân trong. Theo cấu trúc này, nhà dưới được tách ra khỏi đầu hồi nhà trên, tạo một sân nhỏ phía sau để lấy ánh sáng cho nhà dưới. Đây cũng là nơi đặt thêm hồ nước hay lu chứa nước mưa.

Cách bố cục bên trong nhà chữ đinh nói chung gần giống nhau. Ở nhà chính, bàn thờ được đặt ở gian giữa và các gian hai bên. Trước bàn thờ, bên phải và bên trái là nơi đặt đi văng chân quỳ thay cho phản gỗ ngày xưa. Trước bàn thờ gian giữa là nơi bố trí bộ salông hoặc chiếc bàn chữ U với 6 ghế dựa. Nhà khá giả có thêm một tủ búp phê đựng ly tách, chén, bát đắt tiền và vài chai rượu. Các bàn thờ chạm trổ cầu kỳ ngày xưa, nay được thay bằng chiếc tủ thờ kiểu Gò Công, dùng để đặt bàn thờ bên trên, vừa để đựng những đồ đạc quý giá bên trong.

Nhà sắp đọi

Đây là loại nhà tương đối phổ biến ở nông thôn Bến Tre, gồm một nhà trên (hay nhà trước ba gian và một nhà dưới (hay nhà sau) sắp liền kề cùng chiều dài với nhà trên. Giữa hai nhà có chiếc máng xối chạy suốt từ đầu này đến đầu kia để hứng nước mưa. Nhà sắp đọi thường là nhà lá, cột bằng gỗ mù u, sầu đâu, so đũa, gỗ mít kê trên đá táng. Dãy cột hàng ba phía trước thường làm bằng tre gốc. Ở nơi ven biển thì dùng cây mắm, cây đước hay chà là.

Trên cơ sở nhà sắp đọi, người ta còn cải tiến thành một số kiểu nhà khác, như nhà sắp đọi nối dài (phần nối dài có cửa trông thẳng ra sân trước), hay nhà sắp đọi có sân trong (phần mái nhà dưới được tách cách nhà trên độ hai, ba mét, có lối đi với mái che nối liền hai nhà). Sân trong vừa để lấy ánh sáng cho nhà dưới, vừa là chỗ để dãy lu chứa nước mưa.

Nhà có chái

Thông thường ở nông thôn Bến Tre, nhà ở nông thôn Bến Tre, cũng như Nam Bộ nói chung, gồm có một nhà chính và một nhà phụ. Ngôi nhà chính thường là ba gian, hai mái, hoặc ba gian một chái (khác với miền Bắc là nhà thường không chái). Số gian thường là số lẻ (1-3-5) ít ai chọn số chẵn. Nếu diện tích của hai kiểu nhà bằng nhau, thì nhà ba gian, hai chái nhìn vẫn thoáng hơn, dễ coi hơn nhà ba gian hai chái nhìn vẫn thoáng hơn, dễ coi hơn nhà ba gian một mái chái do tính cân đối của nó. Ba gian giữa được coi như khu vực chính, còn hai chái hai bên thường được làm buồng chứa đồ đạc và làm buồng ngủ cho phụ nữ trong gia đình.

Nhà không chái

Tuy không phổ biến, nhưng loại nhà này thỉnh thoảng ta vẫn bắt gặp ở nông thôn. Những gia đình nghèo, ít người hay chọn kiểu nhà này, vì cấu trúc đơn giản, dễ làm. Chỉ cần một số cây gỗ, tre để làm sườn còn mái che và hai bên vách đứng thì làm bằng lá dừa nước hay ván gỗ. Cũng có một số nhà tường xây theo kiểu này và lợp ngói, tôn, hoặc phi-brô ximăng. Trong trường hợp này, vách hai bên phải bằng gạch. Trong những năm chiến tranh và cả về sau này, ở nông thôn, nhất là dọc theo những đường cái, người ta xuất hiện loại nhà không chái, và chỉ một chái. Phía mặt tiền được làm cao hơn, mái đổ xuôi, về phía sau.

Nhà chữ công

Một số nhà xưa còn lại hay xây theo kiểu này. Ngày nay, loại nhà này ít được phổ biến. Về cấu trúc loại nhà này gồm có nhà trên và nhà dưới như kiểu nhà sắp đọi, nhưng thay vì nhà sắp đọi được bố trí hai mái đâu vào nhau, giữa có máng xối để hứng nước mưa, thì ở đây giữa nhà trên và nhà dưới cách nhau một khoảng sân rộng và được nối bởi một nhà cầu dài từ mái sau nhà trên đến mái trước nhà dưới. Cách cấu trúc này tăng thêm ánh sáng cho cả nhà trước và cả nhà sau.

Nguồn: http://ngoinhachung.net

Share this post


Link to post
Share on other sites

CHUYỆN CỦA NHÀ RƯỜNG[/size]

Người xưa có câu "an cư lập nghiệp", ổn định chỗ mới mong xây dựng được cuộc sống ấm no. Vì vậy, việc xây nhà là việc cả đời người. Dùng những vật dụng chắc chắn là vững chải xây nhà cộng với kinh nghiệm hàng mấy trăm năm, người xưa đã xây dựng nên những căn nhà vừa bền lại vừa kiên cố để có thể "an cư" trong thời tiết khắc nghiệt nắng nóng, mưa dầm ở miền Trung.

Kiến trúc nhà rường

Trong khu vườn rộng rãi của mình, gia chủ không chỉ xem phong thủy để lựa chọn miếng đất tốt, phù hợp với tuổi mà còn chọn hướng nhà. Có được "thế nhà" tốt nhất, người trong nhà sẽ mạnh khỏe, ăn nên làm ra. Nhà rường thường xoay mặt về hướng nam, nắng sáng và chiếu không chiếu thẳng vào trong nhà chỉ xiên ở hai bên vách. Bếp được dựng ở bên trái, vuông góc với nhà chính, cùng trông ra sân. Khi gió Nam và Đông Nam thổi vào thì vách ngăn không cho gió tạt vào bếp làm lửa tràn ra ngoài dễ cháy nhà. Thông thường, trước nhà chính được trồng một dãy cau, sau nhà vườn chuối xanh um sẽ chắn bớt gió mùa Đông Bắc. Nhà không nằm sát vệ đường mà thụt sâu vào ngõ với cổng lớn uy nghi. Đường dẫn vào nhà có hai hàng chè tau xanh mát, cuối đường là một bình phong cao. Vì vậy, muốn vào nhà, khách phải rẽ sang hai bên để vào. Bình phong giúp cho khách tránh không đường đột khi vào cũng như tạo nên nét kín đáo cho ngôi nhà.

Nhà rường chủ yếu được dựng bằng gỗ kiền hoặc gỗ mít. Nóc nhà là cả một bộ khung (giàn trò) với nhiều cột ghép lại mà theo mộng nẽo. Tùy theo số lượng và chiều cao của cột mà nhà rường được chia làm nhiều loại khác nhau. Nhà chia theo căn có: nhà ba gian hai chái và một gian hai chái; chia theo chiều cao hoặc khoảng cách của cột tùy thuộc vào độ dài của trếng (tính bằng thước mộc là 0,40m). Nhà ba gian hai chái có kích thước khác nhau với những tên gọi như: nhà ba hai, nhà ba bảy hoặc nhà bốn hai. Nhà một gian hai chái thì có một cách gọi khác nhau nhà vuông và kích thước tùy theo chủ nhân của ngôi nhà. Từ những con số của cột cái (cột hàng nhất) người ta tính ra kích thước các bộ phận khác như: xà thượng, xà ngồi, quà giàng, xà nách... Nhờ vậy, mỗi cột, xà gỗ làm tách riêng nhưng khi ghép một vào tiền khít và liên kết chặt chẽ với nhau mà không dùng đến một cây đinh thép. Trong bộ phận nóc nhà thì đòn đôông (đòn nóc) là quan trọng nhất. Khi làm lễ cất nóc, người chủ phải xem ngày giờ phù hợp với cung mạng để làm lễ thượng lương.

Mái nhà rường được lợp bằng ngói liệt, với hai lớp dày chồng lên nhau. Do vậy, mùa hè rất mát, mùa đông thì ấm áp. Mái nhà có độ dốc từ 15-30 độ nên chống được những cơn bão mà không bị sụt ngói.

Kỹ thuật điêu khắc cũng là một nét nổi bật của nhà rường. Phần nhiều các xà lùi hạ, gáy quà giang đều được chạm trỗ hết sức công phu. Các hình mây cuộn, hoa lá hoặc đường diềm trang trí được khắc từng nét nhỏ rất tinh vi chạy dọc theo các đòn ngang nhỏ.

Nhà rường ở Kim Long có những điểm khắc biệt so với nhà rường ở nơi khác. Ngoài kiến trúc ba gian hai chái cùng trang trí nội thất: câu đối, hoành phi; người ta còn xây dựng thêm một nhà hiên nhỏ ở ngay trước mặt nhà chính. Nhà hiên dài bằng nhà chính, rộng bằng 1/3; mái lợp tranh hoặc ngói liệt. Nóc nhà hiên được dựng bởi các xà đấu với nhà quà giang mà không có xà nách. Các cột nhà hiên không trong bóng mà vuông vắn, chắc khỏe. Ngôi nhà của ông Lê Hối (1/4 đường Nguyễn Hoàng) và ông Lê Quang Dinh (4/4 đường Hương Bình) vẫn còn giữ được nét kiến trúc đặc biệt đó. Trong số các nhà rường cổ ở vùng Kim Long, nhà anh Dinh mang dạng kiến trúc 1 gian hai chái. Căn nhà vuông này còn toàn bộ giàn trò, rui mèn, đòn tay, liên ba, thanh vọng. Xung quanh được bảo vệ bằng tường vôi, không có cửa hậu. Các đường xuyên thổ, đuôi keo đường chạm lộng, khắc chìm hình áng mây, hoa lá tinh xảo, đường nét mềm mại. Kiến trúc ngôi nhà này gần với kiến trúc ngôi nhà thờ Đặng Huy Trứ ở Hương Trà. Trong nhà, nhiều vật dụng vẫn còn được giữ gìn như: bộ bàn ghế chữ hát (H) có chạm khắc hoa lá, bàn tròn có giá đỡ bốn chân...đặc biệt, trên những hoành phi vẫn còn đọc rõ dòng chữ Hán sơn son thếp vàng: Duy Tân năm thứ 6 (tức năm 1914).

Đa số các cột trong nhà rường đều được kê trên một tảng đá phẳng, do vậy cột ít bị ẩm mốc. Trong ba gian nhà, người ta chỉ ở hai gian và hai chái, gian giữa thường được dùng để thờ gia tiên. Vào thăm nhà, khách không thể không cúi đầu để bước qua ngưỡng cửa, nó vừa chắn mưa hắt vào nhà vừa là vật cản nhỏ khiến khách phải cúi đầu bước vào.

Ơi những nhà rường, nay còn đâu?

Đi dọc con hói nhỏ, chúng tôi không thể tin vào mắt mình khi nhìn thấy một quán nhậu đã "mọc lên" trên ngôi nhà rường cổ. Căn nhà rường dường như còn y nguyên dáng vẻ cổ kính không còn để lại một chút dấu tích. Các đầu xà gỗ hình đầu rồng xoăn theo từng thớ gỗ, những cây cột đen bóng, những cánh cửa buồng khoa màu mun...tất cả như đang còn hiện hữu trong tâm khảm của chúng tôi. Những năm gần đây, nhà rường bỗng trở thành một "của quý" mà người chuộng đồ cổ ưa thích. Những căn nhà gỗ phút chốc có giá bằng cả kho tiền. Nhà rường lần lượt rời bỏ mảnh đất của mình ra đi. Nó được dựng lên trong những sân gạch, trên khu đất của nhà hàng, trong vườn người sưu tập...nhìn những nhà rường ấy chúng tôi thấy sao mà bơ vơ và lạc lỏng đến vậy. Nó như người nhà quê ra phố, những lối nhỏ quen thuộc, vườn cây trái xanh um chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng của du khách. Nó vẫn còn nguyên vẹn từ chân cột đến đòn nọc thế mà ngượng ngịu xúng xính trong tấm áo không phù hợp với mình.

Qua chiến tranh, thiên tai, nhà rường không còn nhiều. Phần lớn bị xuống cấp, chủ nhà vì khó khăn nên cũng mong bán lấy tiền xây nhà khác. Có người, do ông bà tổ tiên để lại, họ xem ngôi nhà là nhà thờ chung nên không muốn thay đổi, họ để mặc ngôi nhà dần dần xuống cấp, hư hỏng. Người khác mong có chỗ ở cho con cháu nên quyết định bán kiếm vài trăm triệu xây nhà mớị..nhiều nguyên nhân nhưng chỉ một hậu quả: nhà rường dần dần mất đi. Tuy vậy, nhiều chủ nhà vẫn còn tâm huyết với vốn cổ cha ông. Họ hiểu giá trị văn hóa vật thể, truyền thống gia đình nên hết sức giữ gìn. Nhờ sự chăm sóc chu đáo, tận tình của ông Lê Hối mà ngôi nhà rường Kim An không không còn bị mối mọt làm hư hại. Nhà sắp được thay một lớp ngói liệt mới. Ông Lê Quang Dinh còn có một kế hoạch hoàn chỉnh hơn. Nhìn ánh mắt và giọng nói của anh khi dẫn khách đi giới thiệu, chúng tôi hiểu rằng: những ngôi nhà rường vẫn đang được những bàn tay nâng niu, trân trọng và gìn giữ. Những thế hệ sau này sẽ không phải tìm đọc qua sách báo hay đi đến những nơi khác để tham quan vốn cổ của chính làng quê mình.

Phục hồi nhà rường- bao giờ?

Nhà rường phần lớn đều bị hư hỏng, sửa chữa cho đúng và có tiền để là một vấn đề lớn đối với mỗi nhà. Do vậy, nhiều người vẫn sống trong những ngôi nhà rường bị dột và mối mọt. Dù rất muốn sửa chữa nhưng mọi việc đều ở ngoài tầm tay. Cá biệt, có ngôi nhà được đầu tư hàng trăm triệu để trở thành một nơi di tích thì chủ nhà không đồng ý. Chủ nhà dường như chưa thấu hiểu hết giá trị văn hóa lịch sử ngôi nhà mình đang ở. Đây cũng là một khó khăn lớn trong công việc trùng tu các nhà rường cổ. Những nhà rường khác hoặc thiếu kỹ thuật khi trùng tu, hoặc không có tiền sửa chữạ..Những khó khăn vẫn chất chồng với những người đang tâm huyết phục hồi vốn cổ dân tộc: Nhà rường.

Đứng trước tình hình đó, Hội kiến trúc miền Trung vẫn không nhụt chí. Nhiều tháng qua, các chuyên gia đã đi khảo sát, lập đồ án tìm hiểu các nhà rường cổ trên địa bàn tỉnh. Hội cũng có kế hoạch đầu tư kinh phí cho các nhà rường nhằm giữ lại nét kiến trúc rường cổ của dân tộc. Đây thật sự là tin vui đối với những nhà rường đang xuống cấp ở Huế.

NGUYỄN LAN

Nguồn: http://mimikhanhvan.multiply.com/reviews/item/1

Share this post


Link to post
Share on other sites

Không gian Mường</b>[/size]

Không lâu nữa, khi địa giới của Hà Nội sẽ mở rộng tới một phần của “Tỉnh Mường Hòa Bình”( chữ của Pierre Grossin, một học giả người Pháp-1926) thì không gian Mường sẽ ra sao?

Kiến trúc sư ….Rùa

Theo truyền thuyết, vào thời vua Hùng, nhờ có Rùa vàng hay Thanh Giang sứ, Thục Vương mới xây dựng xong thành Cổ Loa. Còn theo truyền thuyết Đẻ Đất đẻ Nước, một áng Mo bất hủ của người Mường, thì thầy dạy của Đá Cần- ông tổ kiến trúc của tộc người này lại cũng là cụ… Rùa.

Theo Đẻ Đất đẻ Nước, chính trong cuộc đấu tranh sinh tồn, để không bị sát hại, loài Rùa đã mách bảo người Mường:

“ Bốn chân tôi là bốn cột cái

Hai vỉa sườn là hai mái nhà

Xương sống nên đòn nóc bắc kèo cái

Xương sườn nên rui

Lỗ đầu làm lối lên cửa chạn... »

Dường như để thử thách người Mường, ban đầu Rùa bảo người lấy cây lau làm độ (cột nhà), lấy cây lồ cồ (một loại cây thân mềm) làm đòn tay, lấy cỏ may làm lạt buộc. Đương nhiên ngôi nhà đã bị hư hỏng ngay trong lần đầu tiên Đá Cần và nàng dạ Kịt sử dụng. Lần sau bị bắt lại, Rùa van vỉ hết lời mới được tha chết. Rùa nói với Đá Cần: chặt cây sấu làm xà, đẵn cây lim làm cột, lạt buộc bằng cây giang, lợp nhà ba gian bằng cỏ bái.

Kể từ đó người Mường mới có « đụn chín quà, nhà chín gian » (đụn- túi, bịch) . Thoát khỏi cảnh « sống trong gốc cây búng, dưới bóng cây nhò, ẩn trong gò cây, gò cối » nhưng nhà người Mường vẫn luôn nương dựa, bám víu thiên nhiên. Nhà sàn thường dựa lưng vào núi, quay mặt ra sông, suối. Xung quanh nhà bao phủ màu xanh của cây lá. Dân ca Mường có câu : Hương thơm hoa gì mà thơm ngào ngạt

Thơm hương mít trong nhà

Hay thơm hoa cà ngoài ngõ

Hay thơm hoa bưởi hoa vong...

Người Mường không có không gian sinh hoạt cộng đồng kiểu hạn khuống của người Thái hay nhà rông của người Bana. Người Mường quan niệm: “ngôi nhà không chỉ thuộc sở hữu riêng của gia đình mà còn được xem là sản phẩm thuộc sở hữu chung của cộng đồng” (Đặng Văn Tu- Người Mường với văn hóa cổ truyền Mường Bi-1988). Ngôi nhà Mường có những phân chia không gian rất ước lệ như Trên- Dưới, Trong – Ngoài. Cầu thang chính đi vào phần Trên, phần Ngoài nơi đặt bàn thờ tổ tiên, bếp chính, nơi đàn ông tiếp khách. Cầu thang phụ bên trái dẫn đến bếp phụ, nơi phụ nữ sinh hoạt. Với sự phân bổ mặt bằng như thế này, không gian sinh hoạt cộng đồng đã thực sự ẩn trong mỗi gian nhà.

Thân thiện với thiên nhiên, hòa đồng với đồng bào phải chăng là hai điểm nhấn chính trong bản thiết kế của kiến trúc sư Rùa?

Nhà Lang

Lang là dòng dõi quý tộc, những người có địa vị cao nhất trong mỗi Mường. Nhà lang thường là nhà sàn có kiến trúc lớn nhất, bề thế nhất. Cùng với nhà lang, còn có nhà tạo, nhà ậu, nõ một biểu hiện sự phân biệt các đẳng cấp trong xã hội Mường. Nhà ậu là của những người khá thân cận với lang. Nhà tạo giành cho những người thuộc tầng lớp bình dân. Nhà nõ của những người nghèo khó.

Theo cố giáo sư Trần Quốc Vượng : nhà sàn Mường thường thấp và nhỏ hơn nhà sàn Thái- Tày ở Tây Bắc. Cấu trúc một vì kèo Mường khá đơn giản, chỉ gồm « kẻ », « cang » (quá giang), « toón xay » (đòn tay) « tố ô » ((cột). Nhà sàn Mường thường có 5 gian (voòng).

Theo giáo sư Nguyễn Khắc Tụng : bộ khung nhà Mường hình thành trên cơ sở các vì kèo. Bộ vì kèo chưa phải là bộ phận hữu cơ của vì cột, nó chỉ gá vào đòn tay cái, chân của nó khớp một cách lỏng lẻo vào các đầu cột con. Chưa có sự khẳng định kèo thuộc về bộ khung mái hay của vì cột.

Trong rất nhiều chuyến đi tìm hiểu văn hóa Mường, tôi không mảy may có cơ hội để quan sát một kiến trúc thuần Mường như từng được các nhà khoa học mô tả. Cơ may chỉ mới đến trong lần thăm bảo tàng Mường của họa sỹ Vũ Đức Hiếu. ( Bảo tàng tư nhân đầu tiên về văn hóa Mường mới được thành lập từ tháng 12 năm 2007. ) Đây là nguyên mẫu một nhà lang ở xóm Chiến, xã Nam Sơn, huyện Tân Lạc. Ngôi nhà của gia đình bà Hà Thị Lệ. Ngôi nhà được bố mẹ bà Lệ làm trước khi sinh bà. Năm nay bà Lệ 106 tuổi. Họa sỹ Hiếu cho biết : hầu hết nhà sàn Mường bây giờ đều làm theo kiểu nhà ... Việt. Đây là một ngôi nhà hiện tồn hiếm hoi và đặc trưng nhất cho kiến trúc cổ truyền Mường. Họa sỹ Hiếu cũng cho biết : dựng một ngôi nhà gỗ Việt chỉ mất gần chục ngày. Nhưng dựng riêng bộ khung cột của nhà lang phải mất hơn một tháng. Do các chi tiết gỗ không có mộng, chốt mà chỉ gá, xếp lên nhau nên quá trình thi công đòi hỏi sự chính xác và cẩn trọng hơn.

Từ nhà sàn xuống nhà đất

Nếu hôm nay việc kiếm một ngôi nhà thuần Mường đã là rất khó khăn thì trong tương lai không xa nữa, việc tìm một ngôi nhà sàn trên đất Mường chắc chắn sẽ chung một cảnh ngộ. Xa xưa, người cũng như rùa chỉ có thể tồn tại khi bám vào các nguồn nước. Cuộc sống hôm nay có nhiều dòng chảy khác nên nhà đất, nhà bê tông Việt đang dần thay thế nhà sàn Mường.

Dọc đường quốc lộ số 6, cũng không nhiều khi người ta còn được chiêm ngưỡng không gian Mường. Chỉ vài nếp nhà sàn duyên dáng sau vạt mía đỏ, những luống cải trắng, xa xa núi đá xanh trập trùng. Nếu có đi sâu vào các Mường Động, Mường Chậm, tinh thần Mường chỉ còn thấp thoáng trên những chòi, lều nhỏ bé ngoài nương ngô, ruộng lúa. Những lớp mái lợp lá gianh, lá sàn bò đang từng ngày được thay thế bằng tấm lợp xi măng. Trong gian nhà nhỏ của một đôi vợ chồng trẻ ở xóm Sung 2 thuộc trung tâm Mường Bi rực rỡ đủ loại màu sơn cùng tranh ảnh Trung Quốc...

Mùa khô. Mọi con suối Mường đều khô cạn. Không biết loài Rùa, vật thiêng của tộc Mường, đang tồn tại ra sao? Chỉ thấy rất nhiều những vỏ mai rùa vứt đầy trong xó bếp những nhà hàng đặc sản đang mọc lên nhan nhản dọc tuyến đường Hà Nội- Hòa Bình.

a- nhà lang trong Bảo tàng Mường của họa sỹ Vũ Đức Hiếu

b- nhà ậu

c- Nhà tạo nhỏ bé hơn và được làm toàn bộ bằng tre, nứa, lá.

d- Những lều chòi nhỏ bé như cố gắng níu giữ tinh thần kiến trúc Mường

e- Những phối cảnh thật khó quên

f- Trang trí mới, cũ trong nhà sàn Mường, f8- f10 : Bếp được đẩy ra thành một không gian độc lập với nhà. Mái bếp chủ yếu được lợp bằng lá sàn bò. Nếu luôn có khói bếp, loại lá này có thể dùng được trong 5 năm.

g- Chất liệu tre trong kiến trúc Mường

h- Kho lúa nhà lang

i- Mộ đá cổ rất đặc trưng của người Mường

j- K3 : vật đựng nước để rửa chân trước khi lên nhà sàn

Nguồn: http://blog.360.yahoo.com/blog-F9xq_Swpbqf...cq=1&p=2344

Share this post


Link to post
Share on other sites

Về Bình Dương thăm nhà cổ

Nguyễn Thị Hậu

Bình Dương là một tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ. Cấu trúc địa chất cơ bản là vùng bán sơn địa nhưng có nhiều dạng địa hình tự nhiên như đồi gò, đồng bằng, sông ngòi, rừng nguyên sinh… Nơi đây là vùng đất lý tưởng vì sự đa dạng về thổ nhưỡng và môi trường sinh thái: vừa giàu có về rừng cây gỗ quý nổi tiếng một thời, vừa có chất đất thuận lợi để trồng cây công nghiệp và có cả đồng bằng phù sa màu mỡ.

Trên vùng đất trù phú được thiên nhiên ưu đãi nên nhìn chung dân cư Bình Dương có đời sống ổn định, nền nếp, phong lưu, văn hóa phát triển. Theo Đại Nam Nhất Thống chí thời Tự Đức, Bình Dương xưa thuộc trấn Phiên An, giữa hai huyện Bình Dương (Tân Bình) và Phước Long, dân cư trù mật, nhà ngói, phố chợ liền lạc, là xứ phồn hoa đô hội của đất Gia Định, cả nước không đâu sánh bằng. Ngày nay dấu ấn xứ phồn hoa đô hội ở Bình Dương vẫn còn được lưu giữ qua nhiều ngôi nhà cổ, một loại hình di tích văn hóa độc đáo của vùng đất này.

Làng xã ở Bình Dương thường nằm yên bình, tĩnh lặng giữa thiên nhiên đầy cây xanh của vườn cây trái hay vườn cây cảnh, trên vùng đồi gò đã được khai phá thành vườn tược hay trên những cù lao nằm giữa dòng Đồng Nai. Có lẽ phong cảnh nhà vườn với nếp sống phong lưu thể hiện rõ nhất nơi những căn nhà bề thế, cổ kính trên những cù lao trù phú như cù lao Mỹ Hoà, Mỹ Quới (tên cũ của Bạch Đằng, Tân Uyên) cù lao Rùa, cù lao Thạnh Hội… Cù lao ở đây đã được con người chọn để cư trú từ lâu đời, nơi có nhiều dòng họ giàu có “tam đại đồng đường” trong những ngôi nhà cổ đồ sộ giữa vườn cây trái bạt ngàn, không gian tĩnh mịch và môi trường sinh thái trong lành.

Tại Bình Dương hầu như có đủ các kiểu nhà thường thấy ở Nam Bộ.

Nhà chữ đinh: là loại nhà phổ biến nhất tại Bình Dương. Kiểu nhà này có hai căn, căn nhà trên nằm ngang và căn dưới nằm xuôi, đòn dông của hai căn này thẳng góc với nhau, giống như chữ đinh (丁¡) trong Hán tự. Đặc điểm của nhà chữ đinh là cửa cái của nhà trên trổ ở chiều dài của ngôi nhà, còn cửa cái của nhà dưới trổ ở chiều rộng (tức ở đầu hồi nhà), do đó cửa cái hai căn nhà trên và nhà dưới đều mở ra cùng một hướng, có chung mái hiên trước, tạo sự đồng nhất cho toàn bộ ngôi nhà. Kiến trúc nhà chữ đinh thể hiện ý thức về trật tự phong kiến rất rõ. Nhà trên quan trọng vì là nơi thờ cúng tổ tiên nên thường bề thế, cao hơn nhà dưới, đây cũng là nơi sinh hoạt chủ yếu của nam giới. Nhà dưới là nơi ở chung của gia đình, nơi sinh hoạt thường xuyên của phụ nữ. Dù nhà bằng vật liệu bán kiên cố hay kiên cố, phần lớn nhà chữ đinh tại Bình Dương đều thuộc dạng nhà chữ đinh có cầu nối đặc trưng của miền Trung, tức là nhà có phần trung gian nối vách và mái giữa nhà trên và nhà dưới thành một tổng thể chứ không tách rời nhau.

Để cất được một căn nhà chữ đinh, trước tiên phải có diện tích đất khá rộng, sau nữa chi phí cho vật liệu xây dựng khá cao, vì vậy chỉ những gia đình khá giả trở lên mới có khả năng đáp ứng. Có những ngôi nhà chữ đinh diện tích nhà trên đến 250m2 (ngang 10m dài 25m), được xây dựng bề thế với những cột gỗ lớn, các bộ phận trang trí kiến trúc được chạm khắc tinh xảo. Đi khắp Bình Dương, nhất là những nơi có cư dân lâu đời như thị xã Thủ Dầu Một, huyện Tân Uyên, Dĩ An, Thuận An… đâu đâu cũng có những ngôi nhà chữ đinh cổ xưa với dạng nhà vườn giống nhau. Phổ biến là nhà chữ đinh có kích thước trung bình, mái ngói cổ rêu phong, hiền hòa giữa những vườn cây xanh, tạo cho cảnh quan cư trú một vẻ đẹp yên bình và sung túc.

Nhà chữ Nhị cũng khá phổ biến tại Bình Dương. Loại nhà này có hai căn: nhà trên ở phía trước và nhà dưới liền ngay phía sau nhà trên, do đó hai cây đòn dông của nhà trên và nhà dưới nằm song song với nhau như chữ nhị (二þ). Bố cục mỗi căn nhà thường là ba gian, tuy nhiên sau này người ta cất nhà dưới dài thêm một gian so với nhà trên để lấy ánh sáng. Nhà dưới là không gian cư trú, còn nhà trên chủ yếu dành làm nơi thờ tự. Nhà chữ nhị cũng thuộc loại nhà có diện tích đất tương đối lớn.

Nhà chữ Đinh và nhà chữ Nhị là những ngôi nhà có tuổi khá xưa, phần lớn được xây dựng từ cuối thế kỷ XIX, chủ nhân thường là người giàu có. Tuy đã trải qua trùng tu nhiều lần nhưng nhờ xây dựng bằng các loại gỗ quý, thợ dựng khéo léo và kỹ lưỡng, con cháu có sự lưu tâm giữ gìn nên đến nay vẫn còn khá nguyên vẹn.

Nhà ba gian hoặc ba gian hai chái là loại nhà phổ biến trong dân chúng. Không gian của căn nhà vừa để ở, vừa có chức năng thờ tự và tiếp khách. Nhà ba gian phân bố ở vùng nông thôn và cả thành phố. Để tận dụng diện tích làm nhà ở, theo độ che rộng của mái nhà, người ta xây dựng thêm một hoặc hai chái hai bên nhà ba gian.

- Nhà năm gian hai chái tại Bình Dương được tầng lớp điền chủ, phú gia, trí thức giàu có ưa chuộng. Kiểu nhà này chiếm diện tích đất rộng, kỹ thuật xây dựng công phu, vật liệu tốn kém vì là sự kết hợp giữa kiểu nhà gỗ truyền thống với phong cách kiến trúc và vật liệu xây dựng của phương Tây, thường được xây dựng vào nửa đầu thế kỷ XX: nền nhà cao có bậc tam cấp, tường xây gạch dày, tô hồ quét vôi. Cột nhà có khi là cột bê-tông nhưng vì kèo gỗ và lợp ngói, có trần nhà.

Nhà cổ ở Bình Dương cũng thể hiện tính chất chung của nhà cổ Nam bộ, đó là có kết cấu nhà cột giữa (nhà rôi) và nhà xuyên trính (nhà rường) theo hệ thống khung chịu lực truyền thống như ở miền Bắc, miền Trung. Về sau có thêm dạng nhà đúc kết cấu bê tông chịu lực theo kiểu phương Tây.

Nhà cột giữa thuộc kết cấu cổ truyền, cột cái (cột giữa) kết gắn trực tiếp vào đòn dông và giao điểm của hai cây kèo, tạo thành một bộ vì nhà giản đơn, thích hợp với loại hình nhà thô sơ, bán kiên cố. Hạn chế của nhà cột giữa là không gian nhà chật hẹp do sự hiện diện của hàng cột giữa.

Nhà xuyên trính còn gọi là nhà rường phổ biến hơn nhà cột giữa. Bộ khung sườn nhà này không có hàng cột cái ở giữa nên không gian nội thất khá rộng rãi. Một số nhà rường biến thể là nhà bát dần được xây cất rất qui mô. Mái ngói của dạng nhà bát dần kéo sà thấp xuống (giống như chữ Bát…..trong Hán tự). Bên ngoài nhìn vào kiểu “mái xụ" này thấy nhà có vẻ thấp, nhưng bước vào bên trong sẽ thấy hệ thống kèo cột và trần nhà rất cao làm cho nhà thoáng mát vì kiểu mái đó có tác dụng che mưa và ánh nắng chói chang vùng nhiệt đới, đồng thời hạn chế được tầm nhìn từ bên ngoài. Nhà ông Trần Công Vàng ở thị xã Thủ Dầu Một là một ngôi nhà rường theo kiểu chữ đinh, gồm 5 gian 2 chái, dài 24m, ngang 22m với 6 hàng 24 cây cột, đầu kèo chạm trổ tinh xảo. Cột nhà xưa thường bằng các danh mộc như sao, cẩm lai, gỗ mun.

Bình Dương hiện còn nhiều ngôi nhà cổ có giá trị về kiến trúc và nghệ thuật, niên đại trên dưới 100 năm, chủ yếu tập trung ở thị xã Thủ Dầu Một và huyện Tân Uyên, như nhà ông Trần Văn Tề (phường Phú Cường, thị xã Thủ Dầu Một), nhà ông Trần Văn Hổ (phường Phú Cường, thị xã Thủ Dầu Một), nhà ông Trần Công Vàng (phường Phú Cường, thị xã Thủ Dầu Một), nhà ông Nguyễn Văn Đằng (xã Thạnh Phước, huyện Tân Uyên), nhà ông Đỗ Cao Thứa (xã Thạnh Phước, huyện Tân Uyên), nhà ông Nguyễn Tri Quang (xã Tân An, thị xã Thủ Dầu Một)… Trong số đó có hai ngôi nhà được công nhận Di tích lịch sử văn hóa Quốc gia vào năm 1993, đó là nhà ông Trần Văn Hổ và nhà ông Trần Công Vàng.

Hầu hết nhà cổ ở Bình Dương có giá trị về mỹ thuật kiến trúc và trang trí là nhà chữ đinh. Riêng nhà của một số gia đình giàu có nổi tiếng ở thị xã Thủ Dầu Một, ở huyện Tân Uyên thì có qui mô khá lớn và hình thức đa dạng chứ không chỉ là kiểu nhà chữ đinh truyền thống. Nhà ông Trần Văn Hổ thuộc kiểu nhà 5 gian 2 chái rất rộng lớn, hoàn toàn bằng gỗ chạm trổ kỹ lưỡng từ cột, kèo đến vách. Kiểu nhà này xưa vốn là đặc quyền của tầng lớp quan lại cao cấp thời Nguyễn, thường dân không được phép xây dựng. Nhà ông Nguyễn Văn Đằng theo kiểu nhà chữ công £¨工¤£© có hai gian lớn gọi là Đông lang – Tây lang; hay kiểu nhà chữ khẩu £¨口£© (gồm 4 căn với hướng đòn dông tạo thành hình vuông) của ông Nguyễn Tri Quang. Hầu hết những căn nhà cổ vừa nêu trên đều khẳng định chức năng thờ cúng ông bà tổ tiên và thể hiện niềm tự hào về gia tộc trên các bức đại tự như Trung Nghĩa Đường, Trần Miêu Duệ, Nguyễn Phủ Đường… tại gian thờ chính trong nhà.

Việc xây dựng nhà ngày xưa rất công phu. Gia tộc ông Đỗ Cao Thứa cho biết nhà xây 3 năm mới hoàn thành, do những người “thợ Bắc” thi công. Vì địa thế vùng Tân Uyên thấp nên nhà phải đắp nền cao rất công phu. Đất phải lấy từ ấp Bình Hóa (xã Uyên Hưng) vận chuyển bằng xe bò đến bờ sông, sau đó chở đất bằng ghe qua sông rồi mướn người gánh về đổ đắp nền nhà. Nền cao hơn mặt đất 0,8m, xung quanh nền nhà được bọc móng rất kiên cố bằng những tảng đá ong vốn có nhiều ở miền Đông Nam Bộ.

Nhà cổ tại Bình Dương là dấu ấn thời kỳ phong kiến giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX. Hầu hết nhà cửa thời kỳ này còn tồn tại cho tới nay đều nhờ kỹ thuật xây dựng kiên cố với các loại danh mộc quý, chắc như lim, căm xe, cà chất… Khung sườn các nhà xưa hầu hết sử dụng kỹ thuật lắp ghép tự nhiên (lắp mộng) chưa dùng đinh sắt. Các bức vách gỗ phía trước nhà hoặc vách ngăn giữa gian thờ tự với gian nhà trong, những cây kèo, hoành phi, câu đối, bao lam, bàn thờ, trang thờ, bình phong… đều được chạm trổ tinh xảo theo phong cách chạm lộng, chạm thủng, chạm chìm khéo léo. Ngôi nhà vừa là công trình kiến trúc tài hoa, vừa chứa đựng những tác phẩm điêu khắc phản ánh các giai đoạn của nền mỹ thuật Nam Bộ: giai đoạn sớm là chạm trổ trên gỗ mộc, toàn bộ chỉ để gỗ tự nhiên, giai đoạn muộn hơn là dùng sơn ta để sơn son thếp vàng hoặc cẩn ốc, khảm trai, sơn mài…

Thời kỳ đầu nhà cổ tại Bình Dương được thi công xây dựng và trang trí chạm trổ bởi các nhóm thợ mộc nổi tiếng khéo tay từ miền Trung vào như thợ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Thừa Thiên, Bình Định (thường gọi chung là “thợ Huế”). Bên cạnh đó còn có thợ mộc của “trường phái thợ Thủ” (Thủ Dầu Một) với tay nghề giỏi nức tiếng đã dần đảm trách vai trò chính yếu trong xây cất nhà và trang trí nội thất. “Thợ Thủ” không chỉ hành nghề ở Bình Dương mà còn ở nhiều nơi khác. Người ta rước “thợ Thủ” về xây nhà và nuôi nhóm thợ trong nhà hàng năm để họ chạm khắc trang trí cho ngôi nhà. Những thế hệ nghệ nhân “thợ Thủ” đã trải nghiệm tài nghệ của mình và lưu danh về kỹ thuật xây cất và nghệ thuật trang trí nội thất những ngôi nhà trên khắp Nam Bộ. Trong “Nam kỳ nhân vật phong tục diễn ca” Nguyễn Liên Phong đã nêu:

…“Nhà khéo cất tốn bạc muôn

Tiếng đồn thợ Thủ ráp khuôn kỹ càng”

Những nghệ nhân nghề mộc khéo léo, tài giỏi của Bình Dương xưa đã để lại những tác phẩm nghệ thuật của mình trên các kèo đùi ếch, trên “lá dung” đầu kèo, bao lam, hoành phi, câu đối, bàn ghế, tủ thờ… được chạm, cẩn tinh xảo, làm nổi bật sắc gỗ mộc thanh cảnh, vàng óng, đỏ tươi và sắc mun ánh ngời bóng loáng của sơn ta, của xà cừ… Đặc biệt toàn bộ vách trước những căn nhà truyền thống ở Bình Dương thường được “thợ Thủ” chạm trổ tỉ mỉ tài hoa, tạo nên vẻ đẹp sinh động nhưng tôn nghiêm cho căn nhà. Từng khung vuông, khung chữ nhật của bức vách trước được chạm khắc nhiều đồ án hoa văn các môtíp điển hình như tứ linh, tứ quý, quả lựu, hoa mẫu đơn… Vách trước cũng thường chạm đôi “mắt cửa” hay biểu tượng của âm dương, nhật nguyệt và khung viền cửa trước (bao lam) thường chạm trổ kiểu đòn võng khéo léo.

Nhà xưa ở Bình Dương hầu hết lợp ngói âm dương, nền nhà lót gạch tàu đỏ. Trong nhà theo mô thức trang trí nội thất thống nhất, gồm bộ trường kỷ gỗ đen ở gian giữa phía trước bàn thờ, hai gian nhà hai bên bày hai bộ ván ngựa. Ở một góc nhà có tủ kiếng để chưng bày các cổ vật kỉ niệm. Bàn thờ, nhất là các câu đối trên cột hoặc các bài minh bằng Hán tự đặt trên bàn thờ tổ tiên đều được cẩn ốc hoặc sơn son thếp vàng. Nội dung các câu đối, bài minh hầu hết đều đề cao lòng hiếu đễ với ông bà tổ tiên, nề nếp gia phong, việc kính trọng và phụng dưỡng cha me. Ngoài dấu ấn đặc trưng của tâm thức Nho giáo đương thời thể hiện như yếu tố chủ đạo trong nội dung các câu đối, bài minh… chủ đề trang trí trong những ngôi nhà xưa tại Bình Dương còn thấy một nội dung khác của văn hoá Nho giáo, đó là những bài thơ cổ tả phong cảnh hay là điển tích xưa. Ngoài đồ trang trí nội thất chủ yếu bằng gỗ như tủ thờ, bàn thờ, trường kỷ, bộ ván, mấy bộ bàn ghế… trong nhà còn có nhiều đồ gốm Biên Hòa, gốm Lái Thiêu như đôn tròn, lục giác, đôn voi, chậu kiểng, độc bình. Nhiều ngôi nhà cổ còn có vài vật dụng Tây phương như đèn Măng sông, quạt trần, máy hát đĩa…

Về Bình Dương đắm mình trong không gian tĩnh lặng của những ngôi nhà cổ giữa khu vườn êm ả, tiếng ồn, khói bụi đường xa dường như không len lỏi vào đến nơi đây, cuộc sống xô bồ gấp gáp chốn thị thành dường như không hiện diện ở nơi đây… Chợt thấy mình như được quay về với những ngày xưa yêu dấu…

Tham khảo: Tài liệu của Ban quản lý di tích tỉnh Bình Dương

Nguồn: vannghesongcuulong.org

Share this post


Link to post
Share on other sites