cuongdollars

Mạn đàm Về VÔ Ngà (phẬt GiÁo)

2 bài viết trong chủ đề này

Hãy buông ra Tác Giả: Vô Ngã

Tôi nghe buổi Thuyết Pháp tại chùa Thiên Môn. Xin thuật lại để quý vị cùng nghe. Sau phần thuyết giảng, đến phần Pháp đàm. Thầy mời quý Phật tử đặt câu hỏi để cùng thảo luận.

Tận cuối hội trường, có một ông già, đứng dậy chắp tay cung kính xin hỏi:

- Kính bạch thầy. Con hiện đang bị bệnh. Hết đau đầu đến đau khớp, đau thận, tiểu đường, cao huyết áp. Bây giờ lại bị bại một chân nữa ạ! Suốt đêm qua con trằn trọc mãi không sao ngủ được do bệnh nó hành hạ xác thân… Cúi xin thầy từ bi thương xót chỉ bảo cho con làm sao cho hết đau bệnh? Xin thầy cầu nguyện Đức Phật gia hộ cho con được hết bệnh, khỏe mạnh như xưa …

Thầy lên tiếng nhỏ nhẹ, thong thả nói:

- Thưa bác, thưa đạo hữu. Đức Phật đã dạy: Cõi thế gian tràn đầy đau khổ! Trong đó có định luật: SINH, LÃO, BỆNH, TỬ thì đau khổ vô cùng mà bác thì đang đi vào giai đoạn “Bệnh tật”, tức giai đoạn “Hư hoại”.

Vạn vật là thế; tất cả đều bị luật “Vô Thường” chi phối. Chẳng hạn như cái áo bác đang mặc, khi mới mua về, trông thật đẹp đẽ, mềm mại, óng mướt, tươi thắm… Nhưng nay bác mặc đã lâu rồi; màu đã bạc, gấu đã sờn, vai đã rách và vải đã mục.

Nó đang ở tiến trình “Hư Hoại”.

Không có gì có thể còn mãi được, vì bản chất tự nhiên là như vậy, mà thân xác bác cũng đang như vậy. Ngay khi bác mới sanh ra thì bác trẻ trung, khỏe mạnh, xinh đẹp, rồi bác lớn lên trông rất đẹp trai, kháng kiện.

Giờ đây bác đang già yếu và đang ở thời kỳ bệnh hoạn (Sanh, Trụ, Hoại, Diệt). Vậy bác phải chấp nhận điều đó, bác hãy thấu hiểu bản chất của nó, để bác phải chấp nhận nó mà sống An-Lạc với nó, dù nó ở bất cứ giai đoạn nào.

Bây giờ thân thể của bác đang bắt đầu suy yếu, hư hoại theo tuổi đời chồng chất. Thì bác đừng cưỡng lại điều đó, vì đó là quy luật tự nhiên của thân xác. Chân lý không bao giờ thay đổi đó là:

Sinh ra > Già cỗi > Bệnh hoạn > Rồi chết đi!

Không cách chi làm khác đi được. Thời gian vận hành của định luật đã chín mùi rồi đấy bác ạ!

Ông già đó nói tiếp:

- Bẩm thầy, nhưng con chưa muốn chết vội, vì con và cháu của con chưa khôn lớn. Nhất là còn nhiều công việc con đang làm dở dang chưa hoàn tất, con cần giải quyết cho xong trước đã.

- Ồ! Tất cả chỉ là vậy, bác chẳng làm gì khác hơn khiến bác phải lo lắng. Công việc của thế gian, bác hãy để mặc thế gian cho họ tự giải quyết lấy.

Bác nên hiểu rằng: Giầu hay nghèo, già hay trẻ, đẹp hay xấu, người hay vật. Bất cứ ai, bất cứ vật gì, bất cứ ở đâu cũng không thể giữ mãi tình trạng nguyên thủy như lúc ban đầu được.

Mọi người, mọi vật đều phải thay đổi khác đi theo một định luật: Sinh, Trụ, Hoại, Diệt mà không cách chi sửa đổi được.

Điều mà bác có thể làm được là bác tự quán chiếu, soi rọi về thân xác và tâm thức của bác, để bác thấy tính: “Vô ngã” của vạn vật. Để không thấy có cái gì là “Tôi” hoặc là “Của tôi”, mà tất cả chỉ là Giả có, Tạm có mà thôi.

(Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng = Cái gì có hình có tướng, đều là giả có, chứ không thật có).

Ngay như nhà cửa, sự nghiệp, danh vọng, vợ, chồng, con cái của bác cũng chỉ là: “Của bác trên danh nghĩa, chúng không thực sự thuộc về bác. Chúng thuộc về tự nhiên !!! Như lời bác vừa cầu mong, chẳng những không đạt được. Thân bác vẫn đau đớn như thường và cách suy nghĩ sai lầm của bác còn đau khổ hơn nhiều nữa.

Vì cầu mong mà không được như ý là khổ

(Cầu bất đắc khổ).

Bởi vậy, bác phải nhìn mọi thứ đúng theo bản chất của nó và đừng níu kéo nó, đừng tiếc thương nó: “HÃY BUÔNG NÓ RA”. Bác hãy rũ sạch mọi thứ bên ngoài. “Bác hãy “Buông ra !”. Bác đừng bám víu cha, mẹ, vợ, chồng, con cái, quyến thuộc, tài sản, công danh, sự nghiệp v…v…

Vì những thứ đó bác không thể mang theo được, hoặc bác không “buông”, thì nó cũng phải “buông” bác mà thôi. Cho nên bác “Hãy Buông Ra!”, bởi vì mọi thứ đều là “Không” là “Huyễn” là “Vô Ngã”: “Không tôi và Không của tôi”.

Tất cả rồi sẽ biến mất; chẳng còn gì. Bác phải nhận biết cho bằng được điều này, và sau khi biết rồi thì bác hãy “Buông tất cả”.

Đừng bận tâm về con cái, bây giờ chúng còn trẻ. Rồi mai này chúng cũng sẽ già y như bác ngày hôm nay. Không một ai trên thế gian này có thể trốn thoát được định luật: “Sinh, Trụ, Hoại, Diệt”.

Nếu bác “Buông ra” được mọi thứ thì bác mới thấy được “Chân Lý”. Vậy bác đừng buồn phiền, lo lắng và đừng ôm giữ bất cứ điều gì thì bác sẽ thấy tinh thần thanh thản trong mọi tình huống bác ạ!

Ông già hỏi nữa:

- Bạch thầy, nghe thầy dạy dễ quá, nhưng làm sao con “Buông ra” cho được?

- Nếu bác “Buông ra” không được thì bác sẽ vô cùng đau khổ. Và không chịu “Buông ra” cũng chẳng được. Bởi vì mọi thứ nó không thuộc về của bác, kể cả chính xác thân của bác nữa.

Lúc này bác hãy tập trung tâm tưởng, để cho nó được an nhiên tự tại, còn mọi việc đã có người khác lo.

Bác hãy tự nhủ lòng rằng: “Chung sự” (Tôi hết việc rồi )

Tư tưởng ham sống lâu sẽ làm bác đau khổ. Cho dù bác mong muốn thiết tha tới đâu cũng chẳng được.

Muôn sự đều vô thường và luôn luôn không cố định… “Sau khi sanh ra > Nó biến hoại > Sau khi sanh ra > Nó diệt đi !” Đức Phật cũng thế, bác và cả bàn dân thiên hạ cũng đều như thế. Vậy mà bác muốn xác thân bác còn tồn tại mãi sao được?

Bác hãy nhìn vào hơi thở thì biết. Nó đi vô rồi lại đi ra, bản chất của nó là vậy. Bác chẳng thể ngăn cản sự đi ra và đi vô của nó được.

Bác thử nghĩ coi: “Có thể nào bác thở ra mà không thở vào được chăng?” Tức là hơi thở nó đi vào, rồi nó lại đi ra. Khi nó ra rồi thì nó lại phải đi vào. Tự nhiên là như vậy, không cách chi làm khác được.

Y chang sự quá trình bác Sanh Ra > Rồi Già Nua > Rồi Bệnh Tật > Rồi Chết Đi!

Đó là điều hoàn toàn tự nhiên và bình thường … Nếu bác không sanh ra, thì bây giờ bác đâu có bị đau vì bệnh! Và lấy gì để mai mốt bác chết! Bác có hiểu điều đó không ???

- Bạch thầy, con ngộ được những gì thầy vừa dạy, nhưng con vẫn lo sợ quá chừng!

Thầy cầm ly nước uống nhấp giọng, đoạn thày nói thêm:

- Bác nên hiểu rằng: Vạn sự ở đời đều là như vậy, khi bác nhận thức được đúng đắn thì bác đừng do dự:

“Hãy Buông Ra Tất Cả, Hãy Dẹp Bỏ Tất Cả”. Dù bác không buông nó ra thì mọi thứ nó cũng bắt đầu buông bác ra đó.

Này nhé! Như những bộ phận trong cơ thể của bác nó cũng đang muốn rời xa bác đấy. Vì những bộ phận ấy nó đã sống đủ thời hạn với bác rồi, nên nó sắp ra đi đó.

Bản chất của nó là: “Đã đến, thì phải ra đi”. Bởi thế gian là không có sự bình thường hay mãi mãi, dù bất cứ ở đâu, bất cứ thời nào, bất cứ thành phần giai cấp nào; người giầu có, kẻ nghèo khó, người lớn cũng như trẻ nhỏ, người có học cũng như người thất học v...v...

Cũng không thể có sự bình thường được. Ai ai cũng phải xoay vần theo luật “Vô Thường” chi phối. Quán triệt được điều đó, bác sẽ chả còn quyến luyến bất cứ sự gì.

Bác hãy "Buông ra" chứ không còn nắm giữ được nữa, vì có giữ cũng chẳng đặng. Bác buông ra, thì tâm bác sẽ thảnh thơi, An-Lạc; không buồn mà cũng chẳng vui, không khiếp sợ và cũng chẳng lo lắng. Lúc bấy giờ lòng bác sẽ an ổn với trí tuệ hiểu biết:

“Vạn vật không bao giờ có thể thường còn mãi mãi được”.

“ĐẶC TÍNH PHẢI ĐỔI THAY CỦA VẠN VẬT, KHÔNG BAO GIỜ THAY ĐỔI”.

Nếu bác có nhiều thứ, bác sẽ phải bỏ lại nhiều thứ. Nếu bác có ít thứ, bác sẽ bỏ lại ít thứ; giầu có là giầu có, nổi danh là nổi danh, sống lâu là sống lâu… chẳng có gì khác biệt, mọi sự cũng thế thôi!

Vậy bác hãy Buông nó ra, Buông cho đến khi nào tâm trí bác hoàn toàn An-Lạc! Mọi sự bác không còn cảm thấy khổ đau hay sung sướng. Mọi thứ bác không còn thấy là của bác nữa.

Sung sướng và khổ đau cũng đều Hoại, Diệt và Mất tiêu như nhau… Duy chỉ có một thứ là còn và còn vĩnh viễn là của bác. Đó là “Phật tánh” là vĩnh cửu của bác mà thôi.

- Bạch thầy, con đã ngộ !!!

- Vậy sao! Bác giải thích xem nào?

- Thưa thầy, chỉ có định luật: “Vô Thường” là bất biến, là vĩnh cửu, là thường còn. Ngoài ra, tất cả các Pháp; muôn vàn vạn sự ở đời này đều luôn luôn biến đổi không bao giờ ngừng. Chẳng hạn như:

* THÂN VÔ THƯỜNG:Nay khỏe mạnh, mai ốm đau. Nay đang sống, mai đã chết…

* TÂM VÔ THƯỜNG:Nay đang mến thương nhau, mai chuyển sang hận thù, ân oán nhau…

* TÀI SẢN VÔ THƯỜNG: Của cải nay còn, mai hết. Tức là tiện nghi vật chất không thể tồn tại mãi được… Vật thể này biến đổi chất liệu thành ra vật thể khác. Sự vật không bao giờ cố định cả.

Thầy cười hoan hỷ, đoạn thầy hỏi:

- Đúng, bác hiểu khá đấy, như vậy bác sẽ làm gì khi bác hiểu như vậy?

- Bạch thầy, con sẽ buông ra tất cả mà không bám víu vào bất cứ điều gì trên thế gian này. Để mọi sự chảy xuôi như dòng nước. Tính của nước luôn chảy xuống chỗ trũng (Thủy lưu tại hạ), dù chỗ đó là đất hay cát, hoặc ruộng vườn.

Bản chất của nước là như vậy, con cũng phải giữ tâm như vậy. Tại sao? Bạch thầy, bởi vì nước luôn chảy một cách tự nhiên xuống chỗ thấp mà không có cách nào cho nó chảy ngược một cách tự nhiên lên trên cao được. Đó là định luật của càn khôn vũ trụ mà thầy vừa chỉ dậy cho con.

- Vâng! Bác hiểu được như thế, tức là bác đã thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ của bác rồi đấy. Bây giờ chỉ còn một điều là bác đưa vào thực hành những gì bác vừa chứng ngộ là đạt được “quả Phật” rồi đó.

Ông già ngạc nhiên thưa:

- Bạch thầy, con ngỡ là thành Phật khó lắm chứ! Đâu đơn giản như thầy vừa nói?

- Phật đã có sẵn ngay trong bác rồi. Nguời đời thường mang ông Phật thật, đi tìm kiếm ông Phật ở ngoài, ở chốn xa xôi không sao thấy được, để cầu xin van vái …

Trong lúc ông Phật ở ngay trong mình thì lại bỏ quên.

- Bạch thầy, con vốn ngu tối xin thầy khai thị cho con được rõ ràng hơn, chứ thầy nói như thế làm sao con hiểu được.

- Có khó gì đâu: “Phật Tức Tâm”. Mọi người trong chúng ta đã có sẵn một ông Phật ở trong ta rồi.

Nhưng vì u mê tăm tối, nên tham lam: Sắc, Tài, Danh một cách vô độ mà không hiểu rằng những thứ đó do nhân duyên giả hợp mà tạm có.

Hợp rồi tan, sanh rồi diệt! Ngay như xác thân bác cũng tạm có đó. Rồi trở thành không đó có bao lâu! Tựa hồ như bóng phù du, như ào ảnh, như khói sương … Nhưng vì si mê chạy theo níu kéo nó. Nên thành chúng sanh mà thôi.

Bây giờ bác đã giác ngộ và bác buông ra những thứ mà trước đây bác bám víu vì ngỡ là thật… Vậy là bác đã thành Phật rồi. Bởi Phật và Chúng sanh vốn chỉ khác nhau có một bước:

MÊ LÀ CHÚNG SANH, GIÁC NGỘ LÀ PHẬT

Phật và chúng sanh, chỉ khác nhau có vậy. Thí dụ: Ông Bà thân sinh ra bác, cho bác ăn học tới nơi tới chốn; là con người trí thức đàng hoàng... Nhưng vì u mê! Bác ham chơi, đàn đúm với chúng bạn, sa đà say sưa trác táng, hưởng thụ thú vui vật chất, dẫn đến sa đọa hư hỏng. Khi ấy, bác là kẻ tồi tệ xấu xa… Nay gặp duyên may bác giác ngộ. Thấy được lẽ thật. Bác bỏ con đường hư thân mất nết, trở lại con người thật của mình… Với bằng cấp và kiến thức có sẵn của mình.

Bác tận tụy làm ăn, liêm chánh, giữ uy tín đạo đức… Là bác trở thành người cao sang, quý phái… Như vậy, một con người của bác có hai giai đọan:

(a) Giai đoạn 1: Bác là kẻ xấu xa, cho dù bác có bằng cấp là người học thức.

(:D Giai đoạn 2: Bác là người cao quý. Do bác “Giác Ngộ” được chân lý đạo Pháp…

Tức là trước thì bác là kẻ xấu xa do vì u mê! Sau bác thành người cao quý do bác giác ngộ. Nghĩa là xấu xa hay cao quý cũng chỉ khác nhau có u mê hay giác ngộ mà thôi. Và Phật hay chúng sanh cũng chỉ khác nhau có thế.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Posted (đã chỉnh sửa)

Vấn đề "Vô Ngã" trong Đạo Phật

Nguyên Thảo

"Vô Ngã" là vấn đề tương đối hơi khó và khiến cho nhiều người nghiên cứu về Đạo Phật phải tốn nhiều công sức để truy cứu, tìm hiểu. Nhưng Vô Ngã lại là vấn đề quan trọng trong giáo lý của Đạo Phật. Tại sao Đạo Phật lại chủ trương "Vô Ngã"?

Nếu nói Đức Phật chủ trương "Vô ngã" thì quả thật tội nghiệp cho Đức Phật không biết là ngần nào! Đã nhiều lần trong các Kinh điển Đức Phật thường nhắc đến "các Đức Phật trong ba đời cũng đều hộ trì như vậy". Đức Phật nói điều đó là muốn cho chúng sinh biết rằng con đường tiến đến quả vị Phật là con đường tự nhiên và tất yếu phải đi qua những giai đoạn như thế. Con đường tu và giác ngộ nó không khác trên căn bản, nhưng tùy theo tâm tính, cơ thể "bẩm sinh" mà mỗi con người thực hành một cách có khác, cho nên mỗi con người, mỗi chúng sinh gần như có mỗi một pháp môn khác nhau.

Chúng ta cũng cần lưu ý rằng Đức Phật chỉ tự xưng là "Đạo sư" mà không là Giáo chủ, cũng không bắt người khác phải theo ta, ngay cả giáo hội cũng không có một điều lệ, lời răn nào để o ép một ai. Tất cả tin và theo chỉ là "tự nguyện". Tại sao như vậy? Đức Phật đã từng là một con người như bao nhiêu người khác. Ngài có nhiều tư lự, suy nghĩ về cuộc sống trần thế với sanh, lão, bệnh, tử; và Ngài đã từ bỏ ngôi vị giàu sang phú quý, vợ đẹp con thơ để đi tìm đạo. Ngài cũng đã không thỏa mãn với những gì mà Ngài học được từ những vị danh sư; Ngài cũng thực hành pháp khổ hạnh. Nhưng cuối cùng do quyết tâm của chính mình, Ngài đã ngộ được đạo dưới cội Bồ đề. Và từ đó, Ngài nói về những chân lý, phương pháp mà Ngài đã cảm nhận được để hướng dẫn cho con người làm theo cách đúng hầu tìm đến được sự Giác ngộ, tìm về với Chơn tâm của chính mình; cho nên Ngài chỉ là một Đạo sư, người chỉ đường cho người khác chứ không là một giáo chủ đầy quyền uy và ban phép cho người khác. Còn cái "Chân lý" mà Ngài truyền đạt qua "cái biết" của tri thức, "cái thấy" của Phật nhãn sau khi thành đạo Ngài gọi đó là chân lý của giác ngộ. Đạo của Ngài truyền bá cho chúng sinh, con người là Đạo Giác Ngộ (Phật).

Nếu thông thường chúng ta cứ gọi là Đạo Phật thì chúng ta không thể nhận thức được trọn vẹn cái ý nghĩa của đạo; mà khi chúng ta gọi là Đạo Giác Ngộ để thay thế chữ Phật thì chúng ta mới thấy được cái ý trọn vẹn: Vì với Giác ngộ ta mới thấy là ta không bị mê muội tin theo một tín điều; với giác ngộ ta mới thấy cái sáng suốt của lý trí chúng ta khi chúng ta đến với giáo lý đạo Phật; và ta tin theo cũng từ trong nhận thức của lý trí. Cho nên, những ai tin theo giáo lý đạo Phật một cách thiếu nhận thức của lý trí thì hãy còn thiếu sót khá nhiều. Đó là tính chất rất khoa học trong đạo Phật hay nói một cách khác "Giáo lý đạo Phật không làm cho tín đồ phải mê muội tin theo, hoặc làm cho tín đồ phải mù quáng mà đâm ra cuồng tín hoặc tin mà thiếu nhận thức".

Trong "Phật học từ điển" của Đoàn Trung Còn đã ghi:

Phật: Bouddha (scr).-L' Illuminé (fr.) Cũng đọc: Bụt. Đọc trọn: Phật đà (Bouddha). Phật là tiếng Phạn, dịch nghĩa: Giác giả (Người Sáng-suốt). Ấy là tiếng để xưng bực Viên giác (Giác ngộ hoàn toàn). Phật, Phật đà, tức là người đã tự giác, lại giác ngộ cho chúng sanh, và hai cái hạnh tự giác và giác tha ấy ngài đã làm trọn vẹn rồi. (Tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn).

Con đường mà Đức Phật Thích Ca đã chỉ trong Đạo Phật không phải là con đường tin để được giải thoát mà là con đường thực hành để đến được "bờ giác", đến sự giác ngộ. Sau khoảng hơn 45 năm hành đạo và tùy theo căn cơ của từng chúng sinh hay từng nhóm mà Ngài đã thuyết khác nhau. Vì thế mà có nhiều bộ Kinh được ra đời, nhưng chung quy lại "Vì trình độ của chúng sanh có sai khác, nên có các quả thánh hiền sai khác, chứ không phải Phật pháp có sai khác." (Kinh Kim Cang). Mặc dù vậy, Đức Phật cũng nhắc nhỡ rằng: "Ta cũng như người dùng ngón tay chỉ mặt trăng, các ngươi phải nhơn ngón tay mà xem mặt trăng. Nếu chấp ngón tay cho là mặt trăng, thì chẳng những không thấy được mặt trăng, mà cũng không biết luôn ngón tay" (Kinh Lăng Nghiêm) . Những kinh điển, giáo lý mà Ngài rao giảng hoặc đã nói ra chẳng qua là phương tiện để chỉ đường, hướng dẫn cho chúng sinh theo đó mà tu hành để đạt đến giải thoát, chứ không phải để nghiên cứu. Nhưng thông thường vì kinh điển của Ngài nói quá cao xa, do đó mà chúng sinh đã phải nghiên cứu thật nhiều hầu hiểu rõ hơn để tìm được con đường tu tập cho đúng. Vô hình chung là chúng ta mãi mê nghiên cứu ngón tay hơn là mục đích chính: Nhìn để thấy được mặt trăng. Và cũng do nơi nghiên cứu và phương pháp tu có sai biệt từ hoàn cảnh, môi trường, thời tiết, khí hậu... mà người ta đã phân biệt tiểu thừa, đại thừa; thiền với tịnh; phương pháp của ta hay, của người thì dở...Người ta đã quên rằng Đức Phật từng vạch rõ: Chính từ cái "ngã" và với "cái tâm phân biệt" ấy mà chúng sinh đã rời cõi Chân như để đi vào cõi luân hồi; bây giờ người ta lại hãy còn vẩn vơ về hai chữ "Vô minh".

Cõi Chơn như là một tên gọi khác của Niết bàn, hay còn gọi là Không Như Lai Tạng, Đại Viên Cảnh Trí, Yêm Ma La Thức, Bồ Đề, Pháp Tánh... Nhưng đó chỉ là những danh xưng cùng chỉ về một cảnh giới của người giác ngộ đã đạt được tùy theo khía cạnh của từng đối tượng tu tập, hoặc nghiên cứu.

Nói như vậy, tức là Đức Phật không chủ trương "Vô ngã" mà chính trong tự thể của từng chúng sinh nó đã là vô ngã. Mà chỉ với Vô ngã, chúng sinh mới có thể nhập vào trong cùng một cảnh giới "Chỉ một không hai" (Bất Nhị) tức là Niết Bàn hay bằng những danh từ khác như trên. Nơi đó không còn có "Tâm Phân Biệt" và "Vọng Niệm ".

Đức Phật, trong Kinh Lăng Nghiêm, có thuyết: "Từ nơi Chơn Tâm, vì hư vọng hiện ra các cảm giác thấy, nghe, hay, biết. Do hòa hiệp vọng sanh ra, rồi cũng do hòa hiệp vọng diệt đi", và trong Kinh Viên giác Ngài nói rõ hơn: "Nầy Thiện nam, tất cả chúng sanh từ hồi nào đến giờ, bị nhiều món điên đảo làm mê mờ tính "Viên giác", như người lạc đường, lầm lộn bốn phương. Điên đảo vọng hiện ra thân và tâm, rồi lầm nhận thân tứ đại giả hợp nầy làm thân mình, chấp cái vọng niệm sanh diệt duyên theo bóng dáng của sáu trần cho là thật tâm của mình" (Phật học phổ thông- khóa VIII- trang 16). Chính vì vọng niệm, phân biệt mà chúng sinh đã rời cõi Chơn Như và mượn tứ đại: Đất, Lửa, Gió, Nước tạo nên thân xác của mình. Ngoài ra, tâm còn mượn đến Kiến đại để thành hình sáu giác quan: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý cùng các thức; và nó cũng mượn đến hư không để thân xác được tăng trưởng và lớn lên.

Theo như vậy, chúng ta thấy rằng trong thân xác con người hay của chúng sinh chỉ là những vay mượn từ tứ đại cho đến thức đại cùng hư không; thì thân xác ấy chẳng phải là thân thật của mọi loài, vì khi chết đi thân tứ đại lại hoàn trả về cho tứ đại; giác quan, các thức lại trả về cho kiến đại, hư không lại trả về cho hư không. Thế thì sao được gọi là "Thường"? Cho nên cái thân xác ấy là Vô Thường; cái "Ngã" của chúng sinh cũng chẳng là cái "Thật Ngã" của chúng sinh. Thế cho nên cái "Ngã" ấy chỉ là cái "Giả Tạm" mà thôi!

Trong thế gian, người Duy vật thì cho rằng con người được sinh ra và lớn lên chỉ một lần, chết là hết; cũng giống như những người chủ trương đoạn diệt. Nhưng ý niệm đó không đơn giản! Vì từ xưa đến nay đều có những hiện tượng xảy ra trong đời sống, khiến người ta phải nghĩ đến vấn đề siêu hình và tái sinh: Một con người kể chuyện thời xa xưa ở một địa điểm nào đó mà họ chưa từng tới, sau khi truy tìm thì quả thật có như vậy. Điều ấy cho chúng ta suy nghĩ như thế nào? Những con người chết đi sống lại kể chuyện ở cõi khác, hoặc những hiện tượng kỳ lạ, ta phải suy nghĩ ra sao? Ngày nay những câu chuyện tương tự như thế được sưu tập lại khá nhiều từ Đông sang Tây và được in thành sách hay đăng tãi trong những tạp chí về khoa học huyền bí, như vậy, giữa những kiếp người nó phải có một sự liên kết nào đó; mà trong đạo Phật gọi cái chủ thể ấy là "Tâm", cái tâm của chúng sinh. Cái Tâm ấy vì "Vô minh" do nơi có "vọng niệm" và "phân biệt" mà rời cõi Chơn Tâm, rồi trầm luân vào cõi Luân hồi. Rồi với nghiệp báo khi còn sống trong những kiếp trước đã tạo nên, chúng sinh lại càng chìm sâu vào luân hồi và biển khổ mênh mông: Các nghiệp báo ấy "nhận chìm" chúng sinh vào trong bể khổ.

Cái "ngã" về thân xác đã chỉ là giả tạm. Cái ngã "Tâm" lại là "vọng tâm", cái vọng tâm ấy cần lau chùi, gột rửa để tìm về "chơn tâm" trong sáng theo tự thể của nó, giống như tấm gương, hay viên ngọc bị bùn nhơ, bụi bám làm lu mờ u tối phải được lau chùi: Lau chùi để được trở lại trong sáng, sáng soi. Tấm gương, viên ngọc thì cần đến người khác lau chùi. Còn nghiệp báo của con người, chúng sinh do chúng sinh ấy tạo ra bằng từ hành động, lời nói, ý nghĩ của chính mình qua lòng tham lam, sân hận và si mê mê muội; thì chỉ có chúng sinh ấy tự gột rửa lấy mà thôi. Không một ai có thể thay thế hay làm hộ. Cho nên chúng sinh, con người cần phải tu sửa cho đúng hơn, thiện hơn và đẹp hơn. Đức Phật đã từ là một con người, một chúng sinh bình thường tìm được con đường Giác ngộ Chơn lý; và Ngài chỉ lại con đường ấy cho mọi người, chúng sinh. Ngài khẳng định trong các Kinh: Các Đức Phật trong quá khứ, hiện tại hay trong tương lai cũng phải nương vào con đường ấy mà về đến Niết bàn hay đạt đạo Vô Thượng Bồ Đề. Ngài đã đạt được thì mọi chúng sinh cũng sẽ đạt được: "Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành".

Nhưng sao phải Vô Ngã?

Đi tìm lại cái "Thật Tâm" của mình chưa đủ, chúng sinh còn phải đoạn trừ mọi sát, đạo, dâm vọng. Vì tất cả các món đó đều tạo nên nghiệp: Giết hại thì tất phải chịu bị giết trở lại, nên còn phải có kiếp sau; như vậy vẫn phải bị luân hồi sinh tử. Trộm cắp, gây ân oán, đau khổ cho người khác; lừa đảo, dối trá, gạt người thì cũng phải trả món nợ mà mình đã vay, cho nên cũng không tránh được sự luân hồi. Những đam mê về sắc dục, khiến người ta, chúng sinh lưu luyến không từ bỏ cõi dục, thì cũng không thể rời cõi dục để đạt được đạo. Cho nên, trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật đã dặn dò cùng A Nan: Nếu không đoạn trừ dâm dục sẽ đọa vào ma đạo; không dứt sát hại sẽ đọa vào thần đạo; không bỏ trộm cướp thì đọa vào tà đạo và không trừ vọng ngữ thì thành ma ái kiến, mặc dù chúng sinh đó có tâm trí diệu ngộ, thanh tịnh đến đâu; và như thế tất cũng không đạt được đạo Bồ Đề.

Đó là những điều liên hệ đến cái "Ngã" thân xác. Còn đối với cái "Ngã" của "Tâm" thì sao?

Trong các Kinh Viên Giác, Kinh Kim Cang Đức Phật nói đến các tướng Nhân, Ngã, Chúng sinh và Thọ Mạng tức là nói đến cái "Tâm phân biệt" Ta, Người, Chúng sinh và cái "Tâm giới hạn" Thọ mạng tướng. Đó là những "Vọng tâm" đã khiến chúng sinh tách rời khỏi "Chơn Tâm" đi vào cõi Luân Hồi. Vì sao? Vì trong cõi Chơn Tâm mọi Tâm thức của chúng sinh đều "Viên dung" (hoàn toàn dung hợp, hòa lẫn với nhau, không loại trừ); và Chơn Tâm ấy lại Viên Dung cùng sáu đại khác là Đất, Lửa, Gió, Nước, Kiến đại và Hư Không thành một thể. Thể ấy tuy chung nhưng vẫn có cái riêng, trong mỗi cái riêng vẫn có cái chung theo đúng như câu "Tất cả là một, một là tất cả". Đức Phật đã đưa ra một ví dụ tương đối dễ hiểu là Tâm của mỗi chúng sinh trong vũ trụ vô biên giống như ánh sáng của một ngọn đèn trong căn nhà, tâm của những chúng sinh khác cũng là ánh sáng của những ngọn đèn khác cùng đặt trong cùng căn nhà đó. Tất cả ánh sáng của những ngọn đèn đều chiếu sáng khắp căn nhà, nhưng những ánh sáng từng ngọn đèn không bị lộn lạo lẫn nhau. Điều này được ghi lại trong Kinh Viên Giác như sau:

"Thí như trăm ngàn ngọn đèn, đồng đốt trong một căn nhà, ánh sáng của mỗi ngọn đèn tuy đều chiếu khắp cả nhà, nhưng không có lộn lạo hay lấn diệt lẫn nhau" (Phật Học Phổ Thông- Khóa VIII- trang 51, 52).

Cái thuở các đại còn viên dung thì Thức Tâm của mọi chúng sinh cũng viên dung trong cõi Chơn Tâm, nhưng do vì si mê, không biết lý lẽ và sự việc (Vô minh) mà tâm của từng chúng sinh sinh ra có vọng niệm, phân biệt mà tách rời nhau để rồi mượn tứ đại, kiến đại và hư không cấu thành thân xác giả tạm, vay mượn nên mới có sinh, lão, bệnh, tử và có luân hồi. Mỗi chúng sinh trở nên riêng biệt, sống theo bản năng sinh tồn từng loài mà tranh đấu, chém giết, giành giựt, lừa gạt...lẫn nhau bằng đủ mọi cách. Chính vì vậy mà tạo nên nghiệp để rồi phải chịu theo luật nhân quả trong vòng luân hồi triền miên.

Muốn thoát ra, chúng sinh phải tự mình phấn đấu với mọi dục vọng, tham ái; phải dứt bỏ những nhân xấu, phát triển nhân thiện bằng thực hiện con đường Đạo đế hay áp dụng những con đường trong 37 phẩm trợ đạo, tức là những phương cách giúp đỡ người tu thực hiện để đạt được đạo như: Tứ niệm xứ- Tứ chánh cần- Tứ như ý túc- Ngũ căn- Ngũ lực- Thất bồ đề phần- Bát chánh đạo để tạo cho mình được sự dũng mãnh, tinh tấn, cương quyết thoát khỏi vòng trầm luân, khổ ải hoàn tất được con đường giải thoát, đạt đến Niết Bàn (Diệt đế).

Theo như vậy, chúng ta cũng có thể hiểu rằng vì cái "Ngã" khởi đầu mà "Vọng niệm" và "Tâm phân biệt" khởi sinh, cho nên muốn trở về với lúc ban đầu ta cần phải từ bỏ Tâm phân biệt và vọng niệm, tức là chúng ta không thể thấy cái Ta của mình hơn Người mà thấy cái Ta cũng như Người. Ta, Người cũng như mọi Chúng sinh và Ta, Người, Chúng sinh mãi mãi hòa hợp, viên dung chứ không phải trong một khoảng thời gian ngắn hay thật dài, hoặc trong một thời gian giới hạn nào đó tức là Thọ mạng tướng vậy.

Trong Kinh Viên Giác, Đức Phật đã nói về bốn tướng Ngã, Nhân, Chúng sinh và Thọ mạng như sau:

-Nầy Thiện nam! Các chúng sanh đời sau, bởi không rời được bốn tướng, nên tuy trải qua nhiều kiếp, siêng năng tu hành khổ hạnh, nhưng chỉ thành hữu vi mà thôi, chớ không thể chứng được Thánh quả" (Phật Học Phổ Thông- Khóa VIII- trang167).

Thấy "Cái Ta" (Ngã) hòa hợp chung với Người (Nhân) và Chúng sinh (Chúng sinh) mãi mãi, vô cùng tận (Thọ mạng tướng) tức là đã dứt bỏ đi cái Ngã hay nói đúng hơn là "Vô Ngã". Diệt cái Ngã cá nhân để biến cái Ngã ấy viên dung cùng tất cả mọi cái Ngã của chúng sinh và chung với các đại khác: Đó là một điều cần phải có trong Đạo Phật để người tu hành đạt được đạo Vô Thượng Bồ Đề.

Trong Kinh Kim Cang (Phật Học Phổ Thông- khóa XII), Đức Phật đã thuyết như sau:

-"Phải xa lìa tất cả các chấp tướng, mới gọi là chư Phật". (Trang 109).

-"Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Nếu có người phát tâm Bồ Đề, thì phải dụng tâm như vầy: Ta hóa độ tất cả chúng sanh, nhưng không thấy có mình độ và chúng sanh được độ. Tại sao vậy? Nếu Bồ Tát còn thấy mình độ và chúng sanh được độ, thì Bồ Tát còn tướng ngã, tướng nhơn, tướng chúng sanh và tướng thọ giả, tức nhiên không phải là Bồ Tát". (Trang 134-135). Và:

-"Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Ông chớ lầm tưởng: Như Lai nghĩ rằng: "Ta độ chúng sanh". Tại sao vậy? Nếu Như Lai có nghĩ: "Ta độ chúng sanh", thì Như Lai còn chấp bốn tướng Ngã, Nhơn, Chúng sanh và Thọ giả, tức nhiên không phải Như Lai. Bởi thế nên, Như Lai thật không có độ chúng sanh nào cả". (Trang 168).

Nói tóm lại, sau khi thành Phật hay đúng hơn trở thành Bậc Giác Ngộ, Đức Phật mới nói lại những Chân Lý đã có không biết tự bao giờ và chỉ dẫn con đường để trở thành người giác ngộ mà Ngài cũng như vô số Phật đã thành đạo trong thời quá khứ, hiện tại đang thành cũng như những vị Phật trong tương lai sẽ thành phải trải qua. Con đường đó không khác nhưng tùy theo mỗi con người, chúng sinh vì trình độ có sai khác nên họ sử dụng phương pháp có khác nhau, nhưng chung qui cũng đi đến mục đích giải thoát. Sự ra đời của Đức Phật có hai mục đích chính: Một là chỉ rõ cho chúng sinh để chúng sinh được: Khai (mở ra, biết)- Thị (thấy)- Ngộ (gặp, hiểu biết, nhận thức)- Nhập (thấm vào, hiểu và thực hành) Phật Tri Kiến (những điều mà Bậc giác Ngộ thấy, biết) như mục đích rõ ràng khi Phật thuyết về Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Hai là hướng dẫn con đường, lối tu (Đạo sư) sao cho đúng và tùy theo từng trình độ để chúng sinh có thể thực hành con đường giải thoát đi đến kết quả và thoát được vòng sinh tử, luân hồi tìm về nơi an vui, hạnh phúc, thường hằng. Thực ra con người, chúng sinh tu hành để thành Phật chỉ là tìm con đường trở về nơi chốn cũ mà trước kia mình đã ra đi như Đức Phật đã nói "chúng sinh vốn đã thành Phật từ xưa tới giờ" hay khi thành Phật cũng như là thoát khỏi "giấc mộng ngày hôm qua". Sở dĩ như vậy vì do Vô minh mà con người, chúng sinh mới đi vào cõi mộng. Giấc mộng ấy không thật có cho nên những pháp để thoát khỏi giấc mộng mới được xem là "huyễn ảo" mà thôi.

Chúng sinh bị rơi vào vòng trầm luân, luân hồi vì do sự Vô minh, nhưng đó cũng là điều kiện để tôi luyện cho chúng sinh thành bậc giác ngộ hiểu thấu rõ sự và lý để không bao giờ bị Vô minh một lần nữa, giống như Đức Phật đã tỉ dụ: "Quặng vàng đã được tôi luyện thành vàng thì không bao giờ trở thành quặng nữa".

Cuối cùng, điều kiện "Vô ngã" là điều kiện tất có để chúng sinh có thể hòa nhập vào trong đại thể (sự viên dung của Chơn Tâm cá nhân trong Thức Tâm, cũng như thức Tâm cùng với sáu đại khác) của vũ trụ khi đã thành đạo Vô Thượng. Nếu không, "cái Ta ngã mạn" sẽ tự đào thải mình nằm ngoài vòng đai của Đại thể, đôi khi Cái Ta ngã mạn ấy biến chúng sinh thành một "nhân vật" đem nhiều tai họa đến cho không biết bao nhiêu người bởi vì sự "Tẩu hỏa nhập ma" của chính mình.

Bởi thế cho nên đi tìm Chân lý cũng thật là khó lắm thay!

Edited by nhanqua
1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tạo một tài khoản hoặc đăng nhập để bình luận

Bạn phải là một thành viên để tham gia thảo luận.

Tạo một tài khoản

Đăng ký một tài khoản mới trong cộng đồng của chúng tôi. Dễ thôi!


Đăng ký tài khoản mới

Đăng nhập

Bạn đã có tài khoản? Đăng nhập tại đây.


Đăng nhập ngay