Posted 23 Tháng 8, 2010 Ngôn ngữ Bách Việt là Nôm na Các nhà khoa học Trung Quốc khi nghiên cứu về ngôn ngữ của dân tộc Bách Việt đã nhận định rằng Bách Việt ngữ là ngôn ngữ dính黏著語 (chứ không phải ngôn ngữ chắp dính), nó là “đơn âm thành nghĩa” tức nói ra một tiếng là mang một nghĩa rõ ràng, không giống như Hán Ngữ (Hán ngữ thường là hai âm tiết ghép với nhau mới cho ra một nghĩa), về Bách Việt ngữ cổ , khi dịch một âm tiết Việt thành Hán ngữ thường phải dịch thành hai chữ Hán. Nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học Trung Quốc chỉ rõ, sau khi dân tộc Bách Việt đã bị Hán hóa, rất nhiều từ chữ mà họ đã từng sử dụng còn lưu lại nguyên dạng trong từ vựng của không ít ngôn ngữ các dân tộc hiện nay, ví dụ trong ngôn ngữ các dân tộc thiểu số hệ ngữ Choang-Đồng và Miêu-Dao ở TQ, mà vẫn thường được gọi là “phương ngữ miền nam của Hán ngữ”.Thậm chí từ gốc của Bách Việt còn thấy trong ngôn ngữ các dân tộc ở Indonexia, Malaixia, Haiti, Niudilân và các dân tộc Nam Đảo. Ví dụ từ Việt “nhền nhện (nguyên gốc là nền nện”, cũng như “nớn” sau đọc mềm đi là “nhớn”) thì tiếng thổ dân Niudilân là “na nai”, tiếng thổ dân Haiti là “nana nana”, tiếng Khách Gia ở Đài Loan là “la kia”, tiếng Malai-Indonexia là “lawa lawa”; từ Việt “mau lên” tiếng thổ dân Madagatca là “gao len”. Tiếng Nhật Bản cũng có rất nhiều từ là từ ngôn ngữ Nam Đảo. Sở dĩ tiếng Việt chỉ còn là “đơn âm thành nghĩa” vì người Việt đã VO tròn mọi từ đa âm tiết của ngôn ngữ chắp dính Nam Á trong cái “nôi khái niệm” là cái “hình cầu biểu tượng Âm Dương” của người Lạc Việt, như một cái VÒ là cái VỎ chứa đựng mọi khái niệm cũng như VŨ là bầu không gian của vũ trụ chứa đựng tất cả, để nó bị VÒ rụng mất đầu và đuôi còn lại trọi một âm tiết lõi. Bởi vậy từ vựng tiếng Việt chủ yếu là từ đơn âm tiết và từ láy có hai âm tiết dính nhau không thể đảo ngược (nó là do từ một âm tiết sinh ra khi đang tự tách đôi thành hai nửa Âm Dương còn dính nhau trong nôi khái niệm và đang lớn dần lên để biến hình và tách rời hẳn khi nở ra khỏi nôi). Ví dụ khái niệm “đưa một phần tử rời cái tổng thể mà nó vốn gắn bó” tiếng Việt chỉ diễn tả bằng một “tiếng” là “KHỎI”. Từ KHỎI nầy rõ ràng là xuất hiện từ một cái tổng thể là KHỐI, một khối là một tổng thể. Từ KHỐI ở trong nôi khái niệm nó tự tách đôi thành KHÍT-KHAO còn dính nhau, trong nôi ấy “khít” đang trưởng thành dần về phía Âm hơn tức phía ít để rồi nở ra thành KHÉP, “khao” đang trưởng thành về phía Dương hơn là “lao” tức “lào” tức “lão” tức “lãnh” cho đến lớn, như “lồ” của khổng lồ, để rồi nở ra thành KHỎI. Cái nôi ấy là KHÉP…KHÍT-KHAO…KHỎI, đi từ “khép” đến “khỏi” là đi từ “ tĩnh” đến “động”, từ “kín mít” đến “tự do”. Từ KHỎI đã dẫn đến hàng trăm từ đơn âm tiết trong tiếng Việt mà chỉ cần phát âm một tiếng là đủ thấy ý “rời cái tổng thể” , để dùng trong các sắc thái khái niệm khác nhau. Nhưng trong tiếng Hán thì cái từ Việt một âm tiết ấy phải dịch thành một chữ Hán kèm với từ “khai” nữa là hai chữ Hán.Ví dụ tiếng Việt nói “lìa” tiếng Hán phải dịch là “ly khai”, tiếng Việt nói “rụng” tiếng Hán phải dịch là “lạc khai”…Nhưng từ “khai” mới chỉ là một phần khái niệm nhỏ của “khỏi” mà thôi, chỉ khi nào con người đạt đến trạng thái “khỏi” thật sự tức tự do hoàn toàn thì mới phát hiện được tiềm năng của chính mình như Lão Tử từng nói.Cái chuỗi các từ mà từ KHỎI dẫn đến trong tiếng Việt mới chỉ đếm qua loa đã là như sau: KHỎI-khơi-cơi-cời-dời-di-đi-chi-chọi-chói-rọi-cởi-xới-bới-tưới-rưới-rời-sôi-lôi-lái-moi- mổ-sổ-bỏ-trổ-nổ-nở-nã-né-xé-bẻ-rẽ-vẽ-vỡ-rỡ-dỡ-giơ-đổ-xả-ngả-thả-phá-ra-rải-vãi-bày-lấy-lẩy-bẩy-chạy-nhảy-bay-bứng-vung-rụng-tung-bong-tâng-tách-tan-dâng-nâng-tranh-tránh-lánh-lãnh-lĩnh-lỉnh-lan-tràn-đẵn-cắt-chặt-xắt-cất-nhấc-bốc-bóc-móc-róc-dốc-dứt-đứt-rút-tụt-tút-tát-vớt-rắc-lắc-vứt-viết-chiết-vuốt-vuột-bước-tuột-lột-lọc-lọt-rót-rây-sẩy-nẩy-nảy-xảy-sảy-sàng-văng-vần-luồn-tuồn-khuân-chuồn-chuyền-chuyển-chém-ném-nới-tời-xoi-KHỎI. Đủ thấy có độc lập(KHỐI) và có tự do (KHỎI) sẽ đẻ ra tất cả. Độc lập có trước cũng như vũ trụ là MỘT có trước, mới có tự do có sau. Nhưng tiếng Việt cũng có từ hai âm tiết.Ví dụ hai từ hoàn toàn đồng nghĩa với nhau đi ghép với nhau như là một từ hai âm tiết là để chỉ ý nhiều cái cùng chủng loại, như “đồng ruộng” thì “đồng”= “ruộng”= “vuông” là cái diện tích đất nhưng “đồng ruộng” có ý là nhiều diện tích đất, hay “gà qué” thì “gà” là của người Việt nói, “qué” tức “cáy” là của người Tày hay người Hoa nói cùng một con cả nhưng “gà qué” ý là nhiều loại gà, hay “chó má” thì “chó” là của người Việt nói, “má” là của người Tày hay người Lào nói cùng một con cả nhưng “chó má” ý là nhiều loại chó.Trong cách ghép ấy thì qui luật là cứ từ nào có sử dụng trong tiếng Việt trước thì được xếp đứng trước cũng như qui luật bất di bất dịch là chính trước phụ sau. Những kết cấu khác ghép hai hay ba âm tiết thì nó là cụm từ chứ không phải một từ.Ví dụ cụm từ “cu tí” là “con trai”, là do “kẻ”= “cò”= “KÔ”= “con”=“cu”= “tu”= “tí”= “tử”= “ZỬ ” mà chữ nho viết là 子nghĩa là một phần tử, cũng đồng thời mang ý là con trai. Trong các cách phát âm trên của một từ thì “KÔ” là của tiếng Nhật (kodomo là con trai), “tu” là của tiếng Tày (“tu má” là con chó,kết cấu cú pháp chính trước phụ sau), “ZỬ ” là của tiếng Quan Thoại ( “cẩu zử” là con chó, kết cấu cú pháp phụ trước chính sau),còn lại đều là của tiếng Việt.Vậy trong các từ đồng nghĩa ấy cái nào có trước tiên? Rõ ràng là từ “kẻ” có trước tiên vì nó nằm trong biểu ý của chữ nho 子 là một cái KẺ vạch ngang (—) là phần tử Dương, là cái có đầu tiên trong vũ trụ và cái kẻ vạch biểu trưng cho Dương ấy là nét ký tự đầu tiên của người Lạc Việt, còn cái nét 了đó là chữ “rồi” tức “rồi đời” tức “liễu” là kết liễu, kết thúc cuộc đời. Chữ 子 (đọc là “tử” ) biểu ý cho KẺ hay CON thì kẻ nào cũng vậy, con nào cũng vậy, dù là con vật hay con người đều hiện diện từ bắt đầu( — ) cho đến kết thúc(了 )sự tồn tại của nó.Cái âm tiết là “tử” mang lại cái biểu âm cho chữ TỰ mà chữ nho viết là 字 (tức宀 là hình + âm là子 = biểu ý) nghĩa là con (người) ở dưới mái nhà ( mà bộ “miên” 宀 tức từ “mái” nhà của tiếng Việt, tiếng Hán mái nhà gọi là “kai” tức “cài” hay “đậy” là cái nắp úp như lều vải bạt của dân du mục đồng cỏ-kiến trúc nóc bầu tròn như Thiên Đàn ở Bắc Kinh hay các tháp ở Matcơva của Nga là ảnh hưởng văn hóa kiến trúc của dân Tácta Mông Cổ, người Nga là dân Slavơ đã có pha trộn với Tácta, dù dân số đông gấp nhiều lần dân các nước Slavơ khác, người Nga vẫn công nhận mẫu tự Slavơ là do người Slavơ cổ ở Bungari sáng tạo ra, người Bungari là dân Slavơ cổ sau đã có pha trộn với Thổ Nhĩ Kỳ).Con người đã biết làm nhà để ở tức đã văn minh rồi nên mới có chữ. Cũng bởi cái qui luật cụm từ ghép trong tiếng Việt là cái từ có trước đứng trước, cái từ có sau đứng sau nên tôi mới nghi ngờ cụm từ “ông Nam Tào Bắc Đẩu”, rồi “ông Nam Tào” , “sổ Nam Tào” chứ chưa từng nghe thấy từ “ông Bắc Đẩu”, nên mới nêu ra đây để nhờ Thầy Thiên Sứ giải thích giùm. Nghe đến mấy từ ấy ai cũng thấy rờn rợn kính sợ, đúng như “đại uy nỗ” trong tranh ngũ hổ Hàng Trống.Ví dụ nghe bị vào sổ Nam Tào tức hiểu là đã bị vào sổ đen của thần chết. Rồi nghe nói là phải “cúng ông Nam Tào Bắc Đẩu”.Vậy Nam Tào Bắc Đẩu là một ông hay hai ông? hay là Nam Tào=Bắc Đẩu?Tra trong tử điển tiếng Việt thì không thấy có mấy từ đó. Từ điển tiếng Việt (nxb KHXH 1977) có giải thích từ “bắc đẩu” là “chòm sao về phương Bắc,trông như một cái gàu sòng lớn”, từ “nam tào” là “tên một vì sao về phương Nam”, không có từ “ông Nam Tào” và cũng không có từ “ông Nam Tào Bắc Đẩu”.Từ điển Hán Việt (nxb KHXH) có chữ Bắc Đẩu tinh北斗星 là “sao Bắc Đẩu” và chữ Nam Đẩu Tinh南斗星 là “sao Nam Đẩu”. Từ điển bách khoa Việt Nam (nxb từ điển bách khoa Hà Nội 2003) có từ “bắc đẩu” chứ không có từ “nam tào”, và cũng không có từ “ông Nam Tào” hay “ông Nam Tào Bắc Đẩu”. Không biết trong thiên văn học có vì sao “Nam Đẩu” không?mà trong máy tính thì có chữ “bắc đẩu tinh”北斗星, có chữ “nam đẩu”南斗 chứ lại không có chữ “nam đẩu tinh”南斗星, đó là cái mà tôi cần hỏi. Vì “nam tào”= “nam đẩu” thì rõ ràng rồi, đó là do phát âm mà thôi, chữ thì chỉ là một南斗.Còn cái “Ông Nam Tào Bắc Đẩu” như dân gian nói nếu chỉ là một ông là “chòm sao Bắc Đẩu” mà họ thờ một cách kính sợ trong tranh ngũ hổ thì tức là “Nam Tào”= “Bắc Đẩu”, chẳng qua là tên gọi có trước ghép cùng tên gọi có sau mà thôi. Nếu đúng như vậy thì rõ ràng là thuở xưa người ta dùng la bàn gọi là cái “Kim chỉ Nam” để tìm ra hướng “Nam Tào” là hướng của dịch lý chỉ hướng bắc cực, cái tên Nam sau bị con người đổi cách gọi là Bắc chăng ?chứ trục trái đất thì vẫn thế? 6 people like this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 24 Tháng 8, 2010 Anh Lãn Miên thân mến. Xin cảm ơn anh vì bài viết. Hiện chúng tôi đang ổn định lại nhân lực cho trang chủ. Vài ngày sau, xin được đưa bài viết này của anh ra trang chủ Lý học Đông phương. Về phần tôi - xin trình bày cách hiểu của tôi về cụm từ "Nam Tào - Bắc đẩu" như sau: Trong huyền thoại và truyền thuyết Đông phương của người Việt ở Nam Dương tử (Sau này bị Hán hóa) thì Nam Tào và Bắc đẩu là hai ông tiên thừa lệnh Thượng Đế coi giữ sổ sách về sinh tử ở trần gian. Bắc đẩu coi việc sinh, Nam Tào coi việc tử. Bắc đẩu ở trên nên là Dương - coi sổ sinh. Nam tào ở dưới nên là Âm coi việc tử. Trong Hà Đồ phối Hậu Thiên Lạc Việt liên hệ với địa cầu giải thích rất rõ việc Dương trên Âm dưới và các quẻ trong bát quái....vv.... Nhưng chúng ta chỉ thấy có Bắc đẩu tinh là chòm sao Bắc đẩu, không thấy có nam đẩu tinh. Bởi vì Bắc đẩu tinh là cái hiện hữu - Vật là Âm, nên tính là Dương. Nam đẩu tinh là tính quy ước - thuộc giá trị trí tuệ vô hình thuộc Dương - nên tính là Âm. Theo tôi không có chòm sao Nam Đẩu tinh, mà chỉ có "nam đẩu", tức là chỉ có những ngôi sao ở phương Nam. Vậy Nam tào chính là sự đọc trại Nam tòa. Nơi cư ngụ và phán xét của những linh hồn chết do thần Nam Tào quản lý. Vài lời chia sẻ, không tự cho là đúng. Xin để tham khảo. 5 people like this Share this post Link to post Share on other sites