PhươngHồng

SỰ TÍch ĐỨc PhẬt ThÍch Ca MÂu Ni

9 bài viết trong chủ đề này

Posted (đã chỉnh sửa)

SỰ TÍCH ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI

I. VÀI NHẬN ĐỊNH KHI HỌC LỊCH SỬ ĐỨC PHẬT

1. Ngài là một vị Đại Bồ tát ra đời vì bản nguyện độ sanh, vì lẽ đó, lịch sử của Ngài có tính cách siêu việt hơn người thường.

2. Vì lòng từ bi lợi tha và tự chủ trong sự thọ sanh, nên mỗi cử động trong đời Ngài đều hướng về sự giáo hóa trên đường giải thoát.

3. Nên nhận rõ ý nghĩa của lịch sử hơn là câu nệ từng chi tiết nhỏ.

II. THÂN THẾ CỦA NGÀI

Đức Phật Thích ca nguyên tên là Tất đạt đa. Họ Ngài là Thích ca, một chi nhánh của họ Kiều tất la, là một quý tộc. Tên Ngài nói đủ là Kiều tất la Thích ca Tất đạt đa (Kosala akya Siddhrtha). Còn Mâu ni là đức tính trong sạch, vắng lặng của Ngài, chỉ là tiếng để khen ngợi.

Ngài là con vua Tịnh Phạn nước Ca tỳ la vệ (Kapilavastu), mẹ Ngài là Hoàng hậu Ma da. Nước Ca tỳ la vệ tức là xứ Pipaova ở phía Bắc thành Ba la nại (Bénares) ngày nay.

III. NGÀY VÀ CHỖ SINH CỦA NGÀI

Thái tử sinh lúc mặt trời vừa mọc, nhằm ngày trăng tròn tháng hai Ấn Độ, tức là ngày mồng tám tháng tư lịch Tàu. Ngài sinh vào khoảng 563 năm trước Tây lịch. Theo tục lệ Ấn Độ đàn bà có chồng lúc sinh nở phải trở về nhà cha mẹ. Bà Hoàng hậu Ma da trở về ngang qua vườn Lâm tỳ ni của vua Thiện Giác thì sinh Ngài dưới cây vô ưu. Khi mới sinh, Ngài đứng trên hoa sen, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, miệng nói: "Trên trời dưới trời chỉ một mình ta là lớn."

IV. TƯỚNG MẠO VÀ TÀI NĂNG CỦA THÁI TỬ

Thái tử sinh ra có nhiều điềm lạ: quả đất rung động, vừa sinh ra Ngài đã đi bảy bước,... mọi người đều hân hoan đón mừng vị cứu tinh xuất hiện. Thái tử sinh ra đã có 32 tướng tốt báo trước Ngài là một vị xuất chúng và Ngài sẽ thành Phật để dìu dắt muôn loài. Ngài sinh ra vừa được bảy ngày, mẹ Ngài từ trần. Bà dì Ngài là bà Ma ha Ba xà ba đề nuôi nấng chăm sóc Ngài. Ngài rất thông minh, các vị giáo sư danh tiếng dạy Ngài đều phải bái phục.

V. ĐỜI SỐNG CỦA THÁI TỬ

Thái tử sống trong cảnh cực kỳ sung sướng và được sự nuông chiều hết sức của vua cha. Xung quanh Ngài luôn luôn có vũ nữ ngày đêm đờn ca xướng hát để làm vui lòng Ngài. Tuy nhiên, Thái tử vẫn trầm tư mặc tưởng. Trên mặt luôn luôn lộ nét buồn kín đáo và, một đôi khi Ngài đã tỏ với vua cha xin đi xuất gia để tìm phương cứu mình, cứu đời. Đoán biết ý con, vua Tịnh Phạn sinh sợ sệt và tìm đủ mọi cách tăng thêm dục lạc, mong làm khuây được chí nguyện xuất gia của Ngài.

VI. CHÍ NGUYỆN XUẤT GIA CỦA THÁI TỬ

Sau nhiều lần mục kích những thảm trạng già, đau, bệnh, chết và sự bất công mạnh hiếp yếu, khôn lấn dại, trong những cuộc du ngoạn ở bốn cửa thành. Thái tử Tất đạt đa cảm nhận được những nỗi thống khổ của con người. Lòng thương chúng sanh bồng bột nổi dậy, Thái tử không còn vui được nữa.

Với một ý chí cương quyết tìm chân lý, nên trong một đêm kia sau buổi yến tiệc linh đình, Ngài đã cưỡi ngựa Kiền Trắc vượt thành xuất gia với tên hầu cận trung thành Xa nặc; giữa lúc mọi người đang chìm trong bóng tối và mê man theo giấc ngủ. Ngài ra đi lúc 19 tuổi, ngày mồng tám tháng hai vào lúc giữa đêm.

VII. TÌM CHÂN LÝ VÀ TU ĐẠO

Đi sâu vào rừng đến bờ sông Anoma, Ngài cắt tóc và thay đổi y phục trao lại bảo Xa nặc đem về dâng Phụ hoàng và tỏ rõ sự tình. Từ đây, Thái tử đã trở thành một đạo sĩ và dấn thân trên đường tìm đạo. Ngài đi đến thành Vương xá (RajagrÌha) xứ Ma kiệt đà, tìm đến các vị Đạo sĩ Bà la môn mà tham khảo phương pháp tu hành. Sau một thời gian tu luyện, Ngài không thỏa mãn vì cho rằng chưa được rốt ráo. Ngài liền vào rừng Ưu lâu tần loa xứ Phật đà già da (Bouddhagaya) tu hạnh ép xác, một ngày chỉ ăn một hạt mè, hạt gạo và suy nghĩ trong sáu năm, song vẫn thấy vô hiệu. Ngài nhận thấy lối tu khổ hạnh ấy không phải là lối tu giải thoát. Và sau khi nhận bát sữa của nàng Tu xà đề dâng cúng, thân thể bình phục, tâm hồn sảng khoái, Ngài đến dưới gốc cây bồ đề ngồi trên thảm tọa và phát nguyện: "Nếu không tìm ra chân lý thì thà chết ta không rời thảm tọa này". Trải một thời gian thiền quán, Ngài đã chiến thắng được tất cả những tật xấu xa của thân thể và nội tâm. Ngài lại uốn dẹp được mọi sự phá rối của ma vương bên ngoài.

Đầu đêm, Ngài chứng được Túc mạng minh, thấy rõ ràng những đời quá khứ, hiện tại, vị lai; nửa đêm, Ngài chứng được Thiên nhãn minh, thấy được cả vũ trụ bao la; cuối đêm vào lúc sao mai mọc, Ngài chứng được Lậu tận minh, nhận chân nguồn gốc sanh tử luân hồi là sự mê mờ gọi là vô minh, và hoàn toàn giác ngộ.

Ngài đã thành đạo vào lúc sao mai mọc, ngày 8 tháng Chạp. Sau khi thành đạo, Ngài đã than: "Than ôi! Chúng sanh vốn đầy đức tướng trí huệ Như lai, nhưng chỉ vì vô minh che lấp nên phải sanh tử luân hồi đấy thôi!".

VIII. THUYẾT PHÁP ĐỘ SANH

Sau đó, Ngài liền đến vườn Lộc uyển nói pháp Tứ đế độ cho năm ông tỳ kheo (Kiều trần như, Ac bệ, Thập lục ca diếp, Ma ha nam Câu ly và Bạc đề). Từ đó đạo Ngài truyền khắp xứ Trung Ấn Độ và lan mãi khắp hoàn cầu.

IX. NHẬP DIỆT

Trải qua 49 năm trên đường giáo hóa, Ngài đã tận lực gieo rắc ánh đạo vàng khắp đó đây, hóa độ chúng sanh. Vô số người đã được mang ơn pháp nhũ của Ngài mà trở về với chánh đạo. Nhơn duyên đã mãn, những người nên độ đều đã độ xong. Ngài vào niết bàn tại rừng Ta la song thọ, để lại những nỗi thương tiếc tràn ngập cả lòng người. Ngài nhập diệt lúc 81 tuổi, nửa đêm ngày Rằm tháng hai âm lịch.

X. VÀI Ý NGHĨA CẦN NHẬN THỨC TRONG LỊCH SỬ PHẬT

1. Vì lòng từ bi, Ngài ra đời cốt để vạch cho chúng sanh một con đường cao quý ý nghĩa hơn, so với kiếp sống mong manh hiện tại.

2. Tuy sống trang đài danh vọng, Ngài vẫn cảm thấy những nỗi vô vị của vật chất. Và Ngài đã nói rằng: "Hạnh phúc không phải chỉ tìm trong khoái lạc của vật chất".

3. Những cuộc du ngoạn và nhiều lần mục kích những thảm cảnh của con người, Ngài đã cho ta thấy rằng: "Đời là một bể khổ đầy dẫy những bất công, tội lỗi, nếu ta duy trì mãi tình trạng mạnh hiếp yếu, khôn lấn dại, và thiếu một lòng thương thành thật".

4. Anh sáng có thể trở lại với những tâm hồn vị tha rộng rãi, biết hy sinh dục vọng riêng tư. Và chỉ có chân lý Ngài đã tìm ra, sau bao cuộc thử thách chiến đấu với ma chướng mời là phương pháp cứu khổ độ lạc.

5. Sự hy sinh liên tiếp trong vô số kiếp của Ngài, đã làm cho Ngài trở nên một đức Phật đầy đủ phước đức và trí huệ. Muốn cảm thông và được sức gia hộ của Ngài, chúng ta phải thường niệm đến danh hiệu của Ngài và làm theo lời Ngài dạy.

Ban Tu Thư Phật Học

Edited by Phương Hồng :D
2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

"Trên trời dưới trời chỉ một mình ta là lớn."

???

Phải là:

Thiên thượng thiên hạ

Vô ngã độc tôn

Nhất thiết thế gian

Sinh lão bệnh tử

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đúng ra phải là

"Thiên thượng, địa hạ

Duy ngã độc tôn"

Share this post


Link to post
Share on other sites

-Vậy có thể rút ra ý nghĩa gì đối với mỗi người khi đọc xuất thân Đức Phật.

- Phật tại tâm nghĩa là gì?

Xin ý kiến ACE

Share this post


Link to post
Share on other sites

Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn là câu kệ nổi tiếng được Phật sơ sanh tuyên bố khi Ngài đản sanh. Vào đời, Ngài bước đi bảy bước, ngoảnh mặt nhìn sáu phương, bước cuối cùng dừng lại, tay chỉ lên trời tay chỉ xuống đất nói rằng “Trên đời, dưới trời, chỉ mình Ta là tôn quý nhất”.

Lời tuyên bố này, được ghi chép lại trong rất nhiều kinh điển thuộc Hán tạng. Theo kinh Trường A Hàm I, “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử” (Trên trời dưới trời, chỉ mình Ta là tôn quý. Việc cần yếu của Ta là độ chúng sanh thoát ly sanh già bệnh chết – kinh Đại Bổn Duyên).

Kinh Tu Hành Bản Khởi ghi “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn. Tam giới vi khổ, ngô đương an chi” (Trên trời dưới trời , chỉ có Ta là tôn quý nhất. Ba cõi đều khổ Ta sẽ làm cho chúng sanh an lạc – Đại Chính tân tu [ĐCTT], T3, tr.463C).

Kinh Thái Tử Thụy Ứng Bản Khởi, quyển thượng chép “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn. Tam giới giai khổ, hà khả lạc giả?” (Trên trời dưới trời, chỉ có Ta là tôn quý nhất. Ba cõi đều khổ, ai là người có thể đem lại sự an lạc? – ĐCTT, t3, tr.473).

Kinh Phổ Diệu nói “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn” (Trên trời dưới trời, Ta là bậc tôn quý của trời và người – ĐCTT, T3, tr.494A). Kinh Dị Xuất Bồ Tát Bản Khởi thuật “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn” (Trên trời dưới trời, bậc tôn quý nhất không ai bằng Ta –ĐCT, T3, tr.618A). Kinh Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả “Ngã ưu nhất thiết thiên nhan chi trung tối tôn tối thắng. Vô lượng sanh tử ư kim tận hỷ” (Ta, đối với tất cả hàng trời người là bậc tối tôn tối thắng. Vô lượng sanh tử từ này chấm dứt – ĐCTT, T3, tr.625A). Kinh Phật Bản Hạnh Tập “Thế giản chi trung, ngã vi tối thượng. Ngã tùng kim nhật, sanh phần dĩ tận” (Ở trong thế gian, Ta là bậc cao nhất.Từ nay, việc sanh tử của Ta đã đoạn tận – ĐCTT, T3, tr.687B). Ngoài ram còn nhiều kinh sử khác như: Phật Sở Hành Tán (ĐCTT, T4, tr. 1B), Đại Đường Tây Vực ký (q.6), Hữu bộ Tỳ nại da tạp sự (q.20) v.v… đều có thuật lại sự kiện Đản sanh.Tuy có khác biệt đôi chút về phần cuối kệ tụng này giữa những kinh điển, song đa phần vẫn thống nhất ở phần đầu kệ: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”.

Về ý nghĩ của câu “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn” thường được hiệu theo hai phương diện cơ bản như sau:Thứ nhất, tuy có “duy ngã độc tôn” nhưng hoàn toàn vắng mặt cái ta, chấp ngã vì Ngài đã chứng đắc và thành tựu tuệ giác vô ngã. ở đây, chỉ đơn thuần là khẳng định, xác chứng một sự thật của người đã thành tựu giải thoát tối hậu. Ngài khẳng định cho chúng sanh trong ba cõi rằng Ngài đã đoạn tận phiền não, hoàn toàn giải thoát, là Bậc thù thắng nhất, Bậc tôn quý nhất ở thế gian, không có chúng sanh nào có thể sánh với phước đức và trí tuệ của Bậc Như Lai. Duy ngã độc tôn nên được hiểu là Như lai và giáo pháp của Như Lai là tôn quý bậc nhất, không ai có thể vượt thắng, không gì có thể so sánh. “Một người, này các Tỳ kheo, khi xuất hiện ở đời là xuất hiện một người, không hai, không có đồng bạn, không có so sánh, không có tương tợ, không có đối phần, không có người ngang bằng, không có đặt ngang bằng, Bậc tối thượng giữa các loài hai chân. Một người ấy là ai? Chính là Như Lai, Bậc A la hán, Chánh đẳng giác” (Kinh Tăng Chi Bộ I, phẩm một người).

Về một phương diện khác, “duy ngã độc tôn” là một sự khám phá toàn triệt về tự ngã. Vì vô minh, bị trói buộc và sai khiến của tự ngã nên chúng sanh mãi chìm đắm, trôi lăn trong sáu đường sanh tử. Nên khi thành Đạo, Ngài đã tuyên bố: “Ta lang thang trong vòng luân hồi qua bao kiếp sống, tìm mãi mà không gặp kẻ làm nhà, nay ta đã gặp ngươi rồi, ngươi không thể làm nhà được nữa. Cột, đòn tay, xà nhà của ngươi đã tan vụn rồi…” (Pháp Cú -154). Kẻ làm nhà tham ái, chấp ngã xây nên căn nhà ngũ uẩn với chằng chịt phiền não đã bị khám phá và chinh phục.

Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn không hề mang ý nghĩa tự tôn, cao hạ. Ngoài sự khẳng định và xác chứng của vị giải thoát tối hậu, sự khám phá và chinh phục tự ngã đồng thời còn là biểu hiện từ bi vô lượng nhằm độ thoát chúng sanh.

----------------------

Nguồn: Hỏi đáp Phật pháp (Tổ tư vấn báo Giác ngộ)

Hoangnt nghĩ rằng, câu này có vẻ hợp lý như Vietth22:

"Thiên thượng địa hạ, duy ngã độc tôn, tam giới giai khổ, hà khả lạc giả?” : phải có cái gì so sánh trên dưới chứ. Tức có Thiên - Địa - Người.

Dịch nghĩa:

"Trên trời dưới đất, bản ngã thường hằng, ba cõi đều khổ, ai là người có thể đem lại sự an lạc?":

Vì con người mong ước vật chất... không nhận biết được lẽ thường của tự nhiên. Không có gì là số 1 duy nhất cả, ngoài Thái cực, hay Đạo?.

Là câu hỏi của Người đi tìm chân lý, chú mới sinh làm sao có nói được?, ngoại trừ khi chưa giải thích được bằng khoa học như hiện tượng ngoại cảm chẳng hạn...

Share this post


Link to post
Share on other sites

Hoangnt nghĩ rằng, câu này có vẻ hợp lý như Vietth22:

Thiên thượng địa hạ, duy ngã độc tôn,

Tam giới giai khổ, hà khả lạc giả?.

Phải có cái gì ở đâu để so sánh trên, dưới chứ, nhưng ẩn nghĩa là nơi khả dĩ tìm kiếm sự an lạc. Câu trên nói lên suy nghĩa của một người nhận thức 3 giới Thiên - Địa - Nhân, trong đó bản ngã của con người đang tồn tại với thế giới vật chất.

Dịch nghĩa:

Trên trời dưới đất, bản ngã thường hằng,

Ba cõi đều khổ, ai là người có thể đem lại sự an lạc?.

Vì con người mong ước vật chất cũng là bình thường... nhưng lại không nhận biết được sự vô thường của tự nhiên, do vậy vướng vào 3 giới và mới chớm nhận biết nó và mong muốn tìm ra con đường an lạc, không còn sợ hãi nữa (không phải 3 giới thiên, địa, người). Nếu dịch Duy Nhất thì không thể hợp với bất kỳ ý nghĩa nào vì không có gì là số 1 duy nhất cả, ngoài Thái cực, hay Đạo.

Câu nói trên phải là câu hỏi của một người đi tìm chân lý, chứ mới sinh làm sao có nói được như vậy?, ngoại trừ khi chưa giải thích được bằng khoa học hiện đại như hiện tượng ngoại cảm chẳng hạn...

Share this post


Link to post
Share on other sites

SỰ TÍCH ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI

I. VÀI NHẬN ĐỊNH KHI HỌC LỊCH SỬ ĐỨC PHẬT

1. Ngài là một vị Đại Bồ tát ra đời vì bản nguyện độ sanh, vì lẽ đó, lịch sử của Ngài có tính cách siêu việt hơn người thường.

2. Vì lòng từ bi lợi tha và tự chủ trong sự thọ sanh, nên mỗi cử động trong đời Ngài đều hướng về sự giáo hóa trên đường giải thoát.

3. Nên nhận rõ ý nghĩa của lịch sử hơn là câu nệ từng chi tiết nhỏ.

II. THÂN THẾ CỦA NGÀI

Đức Phật Thích ca nguyên tên là Tất đạt đa. Họ Ngài là Thích ca, một chi nhánh của họ Kiều tất la, là một quý tộc. Tên Ngài nói đủ là Kiều tất la Thích ca Tất đạt đa (Kosala akya Siddhrtha). Còn Mâu ni là đức tính trong sạch, vắng lặng của Ngài, chỉ là tiếng để khen ngợi.

Ngài là con vua Tịnh Phạn nước Ca tỳ la vệ (Kapilavastu), mẹ Ngài là Hoàng hậu Ma da. Nước Ca tỳ la vệ tức là xứ Pipaova ở phía Bắc thành Ba la nại (Bénares) ngày nay.

III. NGÀY VÀ CHỖ SINH CỦA NGÀI

Thái tử sinh lúc mặt trời vừa mọc, nhằm ngày trăng tròn tháng hai Ấn Độ, tức là ngày mồng tám tháng tư lịch Tàu. Ngài sinh vào khoảng 563 năm trước Tây lịch. Theo tục lệ Ấn Độ đàn bà có chồng lúc sinh nở phải trở về nhà cha mẹ. Bà Hoàng hậu Ma da trở về ngang qua vườn Lâm tỳ ni của vua Thiện Giác thì sinh Ngài dưới cây vô ưu. Khi mới sinh, Ngài đứng trên hoa sen, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, miệng nói: "Trên trời dưới trời chỉ một mình ta là lớn."

IV. TƯỚNG MẠO VÀ TÀI NĂNG CỦA THÁI TỬ

Thái tử sinh ra có nhiều điềm lạ: quả đất rung động, vừa sinh ra Ngài đã đi bảy bước,... mọi người đều hân hoan đón mừng vị cứu tinh xuất hiện. Thái tử sinh ra đã có 32 tướng tốt báo trước Ngài là một vị xuất chúng và Ngài sẽ thành Phật để dìu dắt muôn loài. Ngài sinh ra vừa được bảy ngày, mẹ Ngài từ trần. Bà dì Ngài là bà Ma ha Ba xà ba đề nuôi nấng chăm sóc Ngài. Ngài rất thông minh, các vị giáo sư danh tiếng dạy Ngài đều phải bái phục.

V. ĐỜI SỐNG CỦA THÁI TỬ

Thái tử sống trong cảnh cực kỳ sung sướng và được sự nuông chiều hết sức của vua cha. Xung quanh Ngài luôn luôn có vũ nữ ngày đêm đờn ca xướng hát để làm vui lòng Ngài. Tuy nhiên, Thái tử vẫn trầm tư mặc tưởng. Trên mặt luôn luôn lộ nét buồn kín đáo và, một đôi khi Ngài đã tỏ với vua cha xin đi xuất gia để tìm phương cứu mình, cứu đời. Đoán biết ý con, vua Tịnh Phạn sinh sợ sệt và tìm đủ mọi cách tăng thêm dục lạc, mong làm khuây được chí nguyện xuất gia của Ngài.

VI. CHÍ NGUYỆN XUẤT GIA CỦA THÁI TỬ

Sau nhiều lần mục kích những thảm trạng già, đau, bệnh, chết và sự bất công mạnh hiếp yếu, khôn lấn dại, trong những cuộc du ngoạn ở bốn cửa thành. Thái tử Tất đạt đa cảm nhận được những nỗi thống khổ của con người. Lòng thương chúng sanh bồng bột nổi dậy, Thái tử không còn vui được nữa.

Với một ý chí cương quyết tìm chân lý, nên trong một đêm kia sau buổi yến tiệc linh đình, Ngài đã cưỡi ngựa Kiền Trắc vượt thành xuất gia với tên hầu cận trung thành Xa nặc; giữa lúc mọi người đang chìm trong bóng tối và mê man theo giấc ngủ. Ngài ra đi lúc 19 tuổi, ngày mồng tám tháng hai vào lúc giữa đêm.

VII. TÌM CHÂN LÝ VÀ TU ĐẠO

Đi sâu vào rừng đến bờ sông Anoma, Ngài cắt tóc và thay đổi y phục trao lại bảo Xa nặc đem về dâng Phụ hoàng và tỏ rõ sự tình. Từ đây, Thái tử đã trở thành một đạo sĩ và dấn thân trên đường tìm đạo. Ngài đi đến thành Vương xá (RajagrÌha) xứ Ma kiệt đà, tìm đến các vị Đạo sĩ Bà la môn mà tham khảo phương pháp tu hành. Sau một thời gian tu luyện, Ngài không thỏa mãn vì cho rằng chưa được rốt ráo. Ngài liền vào rừng Ưu lâu tần loa xứ Phật đà già da (Bouddhagaya) tu hạnh ép xác, một ngày chỉ ăn một hạt mè, hạt gạo và suy nghĩ trong sáu năm, song vẫn thấy vô hiệu. Ngài nhận thấy lối tu khổ hạnh ấy không phải là lối tu giải thoát. Và sau khi nhận bát sữa của nàng Tu xà đề dâng cúng, thân thể bình phục, tâm hồn sảng khoái, Ngài đến dưới gốc cây bồ đề ngồi trên thảm tọa và phát nguyện: "Nếu không tìm ra chân lý thì thà chết ta không rời thảm tọa này". Trải một thời gian thiền quán, Ngài đã chiến thắng được tất cả những tật xấu xa của thân thể và nội tâm. Ngài lại uốn dẹp được mọi sự phá rối của ma vương bên ngoài.

Đầu đêm, Ngài chứng được Túc mạng minh, thấy rõ ràng những đời quá khứ, hiện tại, vị lai; nửa đêm, Ngài chứng được Thiên nhãn minh, thấy được cả vũ trụ bao la; cuối đêm vào lúc sao mai mọc, Ngài chứng được Lậu tận minh, nhận chân nguồn gốc sanh tử luân hồi là sự mê mờ gọi là vô minh, và hoàn toàn giác ngộ.

Ngài đã thành đạo vào lúc sao mai mọc, ngày 8 tháng Chạp. Sau khi thành đạo, Ngài đã than: "Than ôi! Chúng sanh vốn đầy đức tướng trí huệ Như lai, nhưng chỉ vì vô minh che lấp nên phải sanh tử luân hồi đấy thôi!".

VIII. THUYẾT PHÁP ĐỘ SANH

Sau đó, Ngài liền đến vườn Lộc uyển nói pháp Tứ đế độ cho năm ông tỳ kheo (Kiều trần như, Ac bệ, Thập lục ca diếp, Ma ha nam Câu ly và Bạc đề). Từ đó đạo Ngài truyền khắp xứ Trung Ấn Độ và lan mãi khắp hoàn cầu.

IX. NHẬP DIỆT

Trải qua 49 năm trên đường giáo hóa, Ngài đã tận lực gieo rắc ánh đạo vàng khắp đó đây, hóa độ chúng sanh. Vô số người đã được mang ơn pháp nhũ của Ngài mà trở về với chánh đạo. Nhơn duyên đã mãn, những người nên độ đều đã độ xong. Ngài vào niết bàn tại rừng Ta la song thọ, để lại những nỗi thương tiếc tràn ngập cả lòng người. Ngài nhập diệt lúc 81 tuổi, nửa đêm ngày Rằm tháng hai âm lịch.

X. VÀI Ý NGHĨA CẦN NHẬN THỨC TRONG LỊCH SỬ PHẬT

1. Vì lòng từ bi, Ngài ra đời cốt để vạch cho chúng sanh một con đường cao quý ý nghĩa hơn, so với kiếp sống mong manh hiện tại.

2. Tuy sống trang đài danh vọng, Ngài vẫn cảm thấy những nỗi vô vị của vật chất. Và Ngài đã nói rằng: "Hạnh phúc không phải chỉ tìm trong khoái lạc của vật chất".

3. Những cuộc du ngoạn và nhiều lần mục kích những thảm cảnh của con người, Ngài đã cho ta thấy rằng: "Đời là một bể khổ đầy dẫy những bất công, tội lỗi, nếu ta duy trì mãi tình trạng mạnh hiếp yếu, khôn lấn dại, và thiếu một lòng thương thành thật".

4. Anh sáng có thể trở lại với những tâm hồn vị tha rộng rãi, biết hy sinh dục vọng riêng tư. Và chỉ có chân lý Ngài đã tìm ra, sau bao cuộc thử thách chiến đấu với ma chướng mời là phương pháp cứu khổ độ lạc.

5. Sự hy sinh liên tiếp trong vô số kiếp của Ngài, đã làm cho Ngài trở nên một đức Phật đầy đủ phước đức và trí huệ. Muốn cảm thông và được sức gia hộ của Ngài, chúng ta phải thường niệm đến danh hiệu của Ngài và làm theo lời Ngài dạy.

Ban Tu Thư Phật Học

Cháu có một thắc mắc nho nhỏ mong các cao nhân chỉ giáo: Phật Thích Ca và Phật Như Lai là 1 hay là 2 vị khác nhau ạ???

Share this post


Link to post
Share on other sites

IX. NHẬP DIỆT

Trải qua 49 năm trên đường giáo hóa, Ngài đã tận lực gieo rắc ánh đạo vàng khắp đó đây, hóa độ chúng sanh. Vô số người đã được mang ơn pháp nhũ của Ngài mà trở về với chánh đạo. Nhơn duyên đã mãn, những người nên độ đều đã độ xong. Ngài vào niết bàn tại rừng Ta la song thọ, để lại những nỗi thương tiếc tràn ngập cả lòng người. Ngài nhập diệt lúc 81 tuổi, nửa đêm ngày Rằm tháng hai âm lịch.

Theo tài liệu này: http://old.thuvienhoasen.org/cuocdoicuaducphat-trichon.htm#29

thì Đức Phật xuất gia năm 29 tuổi, đến năm 35 tuổi thì ngài đắc đạo. Ngài nhập diệt năm 80 tuổi tại 1 ngôi làng nhỏ ở Ấn Độ, trải qua 45 năm truyền bá đạo pháp cho chúng sinh.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Cháu có một thắc mắc nho nhỏ mong các cao nhân chỉ giáo: Phật Thích Ca và Phật Như Lai là 1 hay là 2 vị khác nhau ạ???

Hỏi nhỏ thế chẳng ai nghe thấy đâu.

Mỗi Phật có Ba thân. Phật Pháp Thân, Phật Hóa Thân, Phật Ứng Thân.

Ứng Thân là cái Thân thị hiện tu hành thành Phật. Ứng Thân đó ngồi một chỗ nhưng có thể Hóa ra các thân khác nhau và đi các nơi đề độ sinh, lên trời hoặc xuống đất, đó là Hóa Thân. Ứng và Hóa Thân của mỗi vị Phật thì khác nhau, còn Pháp Thân thì chẳng đồng cũng chẳng khác. Pháp Thân còn gọi là Phật Tính, và mỗi người ai cũng có Phật Tính.

Phật Tính thì chẳng diệt chẳng sinh, vì cái sự diệu dụng của Phật Tính là có thể Ứng Hóa cho nên gọi cái thân ứng hiện của các vị Phật là Như Lai. Ví dụ gọi là Thích Ca Như Lai, Dược Sư Như Lai, A Di Đà Như Lai.

Phật Như Lai thường thấy là Phật Tổ Như Lai, tức là Thích Ca Như Lai. Phật Tổ tức là giáo chủ cõi này cũng tức là Thích Ca Như Lai. Nhưng nói là Phật Tổ thì lại có thể so sách phân tích Phật với Tổ. Phật là giáo chủ, còn Tổ là các vị đệ tử nối pháp của Phật.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tạo một tài khoản hoặc đăng nhập để bình luận

Bạn phải là một thành viên để tham gia thảo luận.

Tạo một tài khoản

Đăng ký một tài khoản mới trong cộng đồng của chúng tôi. Dễ thôi!


Đăng ký tài khoản mới

Đăng nhập

Bạn đã có tài khoản? Đăng nhập tại đây.


Đăng nhập ngay