Nhật Tâm

NhẬt TÂm - Kinh DỊch Tinh Hoa VĂn Minh CÁc TriỀu ĐẠi HÙng VƯƠng

20 bài viết trong chủ đề này

Posted (đã chỉnh sửa)

Edited by Nhật Tâm
4 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Theo tôi - chưa xem kỹ, nên tạm thời có nhận xét sơ bộ như sau:

Bài viết chưa đủ sức thuyết phục Kinh Dịch là của Việt Nam. Có một số sai lầm có tính nguyên tắc có thể phá hỏng toàn bộ hệ thống chứng minh cho luận điểm. Thí dụ:

- Vẫn coi văn minh Văn Lang - Hùng Vương chỉ giới hạn ở đồng bằng sông Hồng. Đây là sai lầm có tính chủ đạo.

- Có nhiều ý kiến rất có giá trị học thuật - mặc dù chỉ mang tính cục bộ - có thể bổ sung cho luận điểm của tôi.

Tôi sẽ phân tích kỹ hơn, khi có thời gian.

3 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Cám ơn bác Thiên Sứ. Cháu sẽ chờ để nghe bác phân tích chi tiết phân tích ưu nhược điểm.

Trân trọng.

Nhật Tâm

Theo tôi - chưa xem kỹ, nên tạm thời có nhận xét sơ bộ như sau:

Bài viết chưa đủ sức thuyết phục Kinh Dịch là của Việt Nam. Có một số sai lầm có tính nguyên tắc có thể phá hỏng toàn bộ hệ thống chứng minh cho luận điểm. Thí dụ:

- Vẫn coi văn minh Văn Lang - Hùng Vương chỉ giới hạn ở đồng bằng sông Hồng. Đây là sai lầm có tính chủ đạo.

- Có nhiều ý kiến rất có giá trị học thuật - mặc dù chỉ mang tính cục bộ - có thể bổ sung cho luận điểm của tôi.

Tôi sẽ phân tích kỹ hơn, khi có thời gian.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nhật Tâm xin giới thiệu một phần mềm rất tiện lợi cho việc quan sát các vì sao trên trời - AstroViewer.

Người dùng có thể download phần mềm về máy (không có license thì chỉ xem được từ năm 1950 đến 1960). Nếu muốn xem với chức năng đầy đủ có thể dùng trực tiếp trên website

http://www.astroviewer.com/interactive-night-sky-map.php

Chương trình làm rất khoa học và trực quan, sẽ giúp ta nhận biết tên và vị trí các sao, các chòm sao và hệ mặt trời một cách trưc quan.

Hy vọng sẽ giúp ích cho những ai muốn tìm hiểu về thiên văn.

Nhật Tâm

4 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nhật Tâm thân mến.

Tôi là người đầu tiên minh chứng - chứ không phải chỉ đặt vấn đề - Lý học Đông phương và tất cả mọi phương pháp ứng dụng của nó thuộc về người Lạc Việt và không phải thuộc về nền văn minh Hoa Hạ. Tất nhiên tôi có cảm tình với tất cả những ai có cùng một cách nhìn và quan điểm giống tôi. Tuy nhiên, về nguyên tắc phương pháp luận và phương pháp chứng minh với quan điểm là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau. Ngay cả với giáo sư Lê Mạnh Thát và Trần Đại Sỹ là người cùng quan điểm, tôi cũng nhận thấy những ưu điểm trong phát kiến của hai vị này, nhưng cũng nhận thấy sai lầm của các ông này và cũng công khai rất rõ trên diễn đàn lyhocdongphuong. Tôi sẵn sáng đứng bên cạnh ông Lê Mạnh Thát nếu có cuộc hội thảo khoa học của hội Sử học Việt Nam, phản biện quan điểm của ông.

Tôi rất hy vọng vào những người trẻ tuổi như Dorẻmon, Nhât Tâm sẽ tiếp tục khám phá và minh chứng điều này. Tuy nhiên điều đó, không có nghĩa tôi ủng hộ một cách si mê và cực đoan. Bởi những luận cứ cần có một cơ sở khoa học theo đúng tiêu chí khoa học. Nếu không nó sẽ bị sụp đổ và vì thế ảnh hưởng tới toàn bộ hệ thống. Có những luận cứ sai, có thể hiệu chỉnh và phát biểu lại, nếu nó thuộc về những khía cạnh của vấn đề và mang tính chi tiết chuyên sâu. Nhưng có những luận cứ sai về nguyên lý căn bản thì phá hỏng toàn bộ.

Công cuộc chứng minh Việt sử 5000 năm văn hiến cực kỳ phức tạp. Ngoài việc phải thuyết minh một cách khoa học của nội dung luận điểm, thì còn phải chống đỡ với nhiều vấn đề phức tạp phi khoa học. Thí dụ như BBC, chưa bao giờ đăng một bài nào có nội dung bênh vực Việt sử 5000 năm văn hiến - kể từ khi phong trào phủ nhận Việt sử xuất hiện vào những năm 1971 (Đây là thời điểm tình hình thế giới có những diễn biến phức tạp) - cho dù những người có tên tuổi như giáo sư Trần Đại sỹ, hoặc như tác giả của cuốn sách nổi tiếng "Địa Đàng phương Đông - một quá khứ bị lãng quên". Cũng chưa hề thấy BBC một lần nhắc đến họ.....Đủ hiểu vấn đề phức tạp như thế nào. Đây là tôi mới chỉ nói sơ sơ - rất sơ sơ - về sự phức tạp của vấn đề. Nhưng anh và mọi người có thể suy luận ra, nếu chịu suy luận. Nó không đơn giản là một vấn đề học thuật thuần túy, như lúc đầu tôi tưởng. Bởi vậy, tôi đang cân nhắc xem có nên tiếp tục công việc của mình nữa hay không, khi nó không đơn giản là một vấn đề học thuật thuần túy. Có những kẻ đã công khai đe dọa ngay trên diễn đàn này và vu cáo. Thí dụ như những commmen trên chungta.vn,của FPT mà tôi đã chép về trên ngay diễn đàn này.

Tuy nhiên, thời gian còn lại trước khi quyết định ngưng hay không, tôi sẽ chỉ ra cho anh những mặt còn hạn chế của tiểu luận này và những mặt anh cần phát huy.

Trong chương I anh viết:

CHƯƠNG I

MỘT SỐ NHẬN THỨC CHUNG VỀ NỀN VĂN HIẾN VĂN LANG,

HỆ NHẬT TÂM VÀ KINH DỊCH

1.1. Một số di sản của nền văn hiến Văn Lang

Theo thống nhất chung hiện này của giới sử học, Triều đại Hùng Vương kết thúc nào năm 258 trước công nguyên. Tuy nhiên nước ta hiện vẫn giữ được một số di sản từ triều đại này truyền lại. Trong khuôn khổ bài viết này, người viết chỉ xin nêu ra một vài di sản mà người viết biết có liên quan đến bài viết này.

Di sản vật thể: Trống Đồng Đông sơn.

Di sản phi vật thể: phong tục làm bánh trưng bánh dày vào dịp lễ tết.

Bên cạnh đó còn có những dòng tranh dân gian như tranh Đông Hồ, Tranh Hàng Trống {11} với những bức Tranh đầy ý nghĩa như tranh lợn âm dương, tranh Ngủ hổ Hàng Trống. Mặc dù rất khó để khẳng định thời gian xuất xứ của nó nhưng nó có giá trị rất lớn khẳng định văn hóa truyền thống Việt Nam.

1.2. Các khái niệm các quan niệm về vũ trụ

Theo hiểu biết còn hạn chế của người viết thì mãi đến giữ thiên niên kỷ thứ 2 người đầu tiên công khai quan điểm trái đất và các hành quay quanh mặt trời. Đó là nhà Thiên văn phương tây lỗi lạc Copernic (1473 – 1543). Trước ông người viết chưa thấy có ai hay nền văn hóa nào đương đại có quan điểm vụ trụ quan Trái Đất và các thiên thể quay xung quanh mặt trời. Tri thức chung thời bây giờ vào thời điểm khi Copernic mất là Trái Đất là trung tâm của mũ trụ, các vì sao và thiên thể xoay quanh nó. (Theo vốn hiểu biết còn hạn chế của người viết).

1.3. Một số thành tựu của khoa học phương tây về hệ mặt trời

a. Công thức tính lực hấp dẫn của Newton:

Với:

G là hằng số hấp dẫn. G = 6.67 x 10-5 N.km²/kg²

M, m là 2 vật đang xét.

r là khoảng cách giữa hai vật.

Trọng lực tiêu chuẩn:

Trọng lực tiêu chuẩn ký hiệu g0 or gn là gia tốc danh định gây ra bởi trọng lực Trái đất ở độ cao tương đương mặt biển. Theo định nghĩa, nó tương đương 9.80665 m/s2.

b. Dựa vào những thành tựu của khoa học hiện đại ta có thông số các hành tinh trong hệ mặt trời như sau

Bảng 1. Thông số về các hành tinh (nguồn Nasa {9})

TT Tên Thiên thể Khối lượng (Kg) Khoảng cách tâm thiên thể đến tâm mặt trời (Km)

(1) (2) (3) (4)

9

Pluto – Diêm vương tinh 1.3000E+22 5,906,380,000

8 Neptune – Hải vương tinh 1.0244E+26 4,498,252,900

7 Uranus – Thiên vương tinh 8.6849E+25 2,870,972,200

6 Sartun – Thổ tinh 5.6851E+26 1,426,725,400

5 Jupiter – Mộc tinh 1.8987E+27 778,412,020

4 Mars – Hỏa tinh 6.4185E+23 227,936,640

3 Earth – Trái đất 5.9737E+24 149,597,890

2 Venus – Kim tinh 4.8685E+24 108,208,930

1 Mecury – Thủy tinh 3.3022E+23 57,909,175

0 Sun – Mặt trời 1.989E+30 0

Ký hiệu : 1.3E+22 = 1.3 *10^22 (bảng tính Excel hiểu dấu chấm là dấu phẩy)

c. Mô hình hệ mặt trời theo vũ trụ hiện đại

Mặt trời ở trung tâm. Các hành tình quay quanh mặt trời với số thứ tự như trong bảng 1 Thông số về các hành tinh. Hiện nay Diêm vương tinh không được coi là hành tinh nữa nhưng người viết vẫn để Diêm vương tinh trong danh sách tính toán nhằm đảm bảo tính khách quan.

1.4. Một số vấn đề về Kinh Dịch

Thực tế người viết còn quá trẻ (tuổi đời chưa tới 30). Mặc dù đôi lần cầm đọc Kinh Dịch nhưng phần vì hiểu biết chưa đủ, thiếu kinh nghiệm sống thực tế. Mặt khác Dịch lý có những khúc mắc lớn thất truyền từ xưa nên người viết không cách gì hiểu nổi. Nếu là đọc dịch thì cũng chưa trọn chứ chưa nói đến việc nghiên cứu dịch lý. Tuy nhiên người viết mạnh dạn viết bài này với hy vọng “lấy vô chiêu thắng hữu chiêu”. Lấy cái không hiểu để mà tìm giải với phương trêm đơn giản hóa hết mức có thể.

Trong quá trình đọc Dich người viết cũng cảm thấy thắc mắc lớn như nhiều tác giả nghiên cứu dich đã nêu ra:

- Nguồn gốc Hà Đồ, Lạc Thư?

- Tại sao Hà Đồ, Lạc Thư có cả âm dương ngũ hành nhưng trong quẻ dịch thì yếu tố âm dương và ngũ hành không hề ăn nhập?

- Tại sao lại chỉ chồng 3 hào để tạo ra bát quái. Tại sao không chồng thêm 1 hào nữa để ra có thể là ra bộ Kinh mới có nhiều quẻ hơn và mỗi quẻ có 8 vạch? Như vậy cũng không hề mâu thuẫn và hoàn toàn có thể làm được nếu chỉ biện luận.

- Hà Đồ lập ra dựa trên nguyên lý nào mà các quẻ Kinh lại có thể phản ánh được thực tế khác quan khi dùng dự đoán? Hay việc dự đoán dịch chỉ mang tính hên xui dựa vào mấy đồng xu và mấy ý nghĩa sẵn có mà người viết không hiểu là dựa vào điều gì mà tiền nhân lại có thể gán nghĩa cho từng quẻ, từng hào?

- Nói tóm lại là vô cùng khó hiểu. Người viết đã đọc một số sách, bài viết, tranh luận. Thực sự là nhiều lúc chẳng biết ai nói đúng ai nói sai. Bởi vì tất cả đều là học thuật. Nói A thì là A mà nói B thì là B rút cuộc người viết cũng không biết ai đúng ai sai. Bởi vì theo người viết nghĩ nó là học thuật. Mà học thuật thì có rất nhiều trường phái nên người viết chịu thua không thể phân biệt. Tuy nhiên, dù ai đúng ai sai thì họ đều có cái cơ sở và cái lý của mình. Trong bối cảnh nguyên lý gốc của dịch học thất truyền thì không làm sáng tỏ được cũng là điều dễ hiểu. Có điều đọc những luồng tư tưởng đó kiến người viết sáng đầu óc ra nhiều về lý luận Dịch lý.

Sau đây là một số quan điểm Dịch học rất đáng tham khảo:

- Kinh Dịch - di sản sáng tạo của Việt Nam? {10} (Tài liệu tham khảo 10)

- Hà đồ trong văn minh Lạc Việt {11}

- Giải mã: hậu thiên bát quái Văn Vương {5}

- Bàn lại lịch sử hình thành kinh dịch {4}

- Cội nguồn kinh dịch và thuyết âm dương ngũ hành {3}

1.5. Tổng hợp một số quan điểm đáng chú ý liên quan đến lịch sử, văn hóa nhà nước Văn Lang

- Vải sợi thời văn hóa Đông Sơn. {1}

- Văn minh Lạc Việt - cội nguồn lịch sử của thuyết âm dương ngũ hành và kinh dịch. {2}

- Đối thoại với thiền sư Lê Mạnh Thát {6}

- Bãi đá cổ Sapa từ góc độ một bài viết {7}

Toàn bộ chương này, chỉ là sự liên hệ giữa khoa học hiện đại và Kinh Dịch. Đây là điều nhiều người có tên tuổi đã làm và họ đã viết thành sách. Nhưng điều đó, không có nghĩa phủ định Kinh Dịch của văn minh Hoa Hạ. Tóm lại, cho đến hết chương này, chưa thấy một luận cứ nào thuyết phục, minh chứng Kinh Dịch thuộc về văn hiến Lạc Việt.

Còn tiếp

2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nhật Tâm thân mến.

Toàn bộ Chương II của anh nhằm chứng minh Kinh Dịch liên quan đến thuyết Nhật Tâm. Tôi chưa xem kỹ lắm. Nhưng một minh chứng gián tiếp cho điều này đã được Lưu Tử Hoa minh chứng ở viện Hàn Lâm khoa học Pháp vào những năm 30 của thế kỷ trước, khi ông ta dùng Bát Quái Văn Vương xác minh rằng: Có hành tinh thứ X trong hệ Mặt trời (Tức là xác định cả cấu trúc Thái Dương hệ phù hợp với Kinh Dịch). Tôi giả thiết rằng: Toàn bộ luận cứ của anh là đúng. Thì điều này chưa phải là luận cứ thuyết phục Kinh Dịch thuộc về văn minh Lạc Việt.

CHƯƠNG II

PHÂN TÍCH, SUY LUẬN, TÍNH TOÁN VÀ CHỨNG MINH MỐI LIÊN HỆ GIỮA HỆ GIỮA THUYẾT NHẬT TÂM VÀ KINH DỊCH

2.1. Phân tích, suy luận mối liên hệ giữa thuyết nhật tâm và kinh dịch

Thực ra do hiểu biết quá hạn chế về lịch sử, văn hóa phương đông (có thể coi là ngoại đạo trong lĩnh vực này) nên người viết gặp những khó khăn nhất định khi đọc dịch. Tuy nhiên người viết lại có một lợi thế cơ bản mà chắc nhiều nhà nghiên cứu lâu năm chẳng bao giờ “mắc phải”. Đó là hồn nhiên sử dụng vũ trụ quan Nhật tâm vào hiểu Kinh dịch. Sự tình cờ may mắn này rất có ý nghĩa trọng trong phát hiện của người viết.

Một số căn cứ để người viết suy đoán sự lên hệ giữa Kinh Dich và Thiên Văn:

- Hà Đồ, Lạc Thư không rõ nguồn gốc nhưng có khả năng dựa vào thiên văn.

- 5 Hành tinh trong thái dương hệ được biết từ rất sớm mang đủ tên ngũ hành. Cùng với mặt Trăng và Mặt trời (tượng trưng cho âm dương). Người viết nghĩ có thể mỗi hào trong dịch liên quan gì đó với 1 hành tinh chăng?

- Khoa học phương tây đã ghi nhận có những thời điểm trong hệ mặt trời xếp thẳng hàng Thủy, Kim, Trái đất, Hỏa, Mộc và Thổ tinh xếp gần như thẳng hàng trong mặt phẳng quỹ đạo.

2.2. Tính toán lý giải Kinh Dịch theo thiên văn học hiện đại

Hiện tượng dự báo dùng Kinh Dịch là một thực tế khách quan. Kinh dịch được nhiều học giả khẳng là một phương pháp dự báo khoa học của phương đông cổ đại. Thâm chí không ít người còn khẳng định quy luật của Dịch còn bao trùm cả vũ trụ, vạn vật. Như vậy Kinh dịch nhất định phải phù hợp với những Thiên Văn học hiện đại và quan niệm Nhật tâm.

Vậy ta thử dùng tính toán dựa trên kết quả của thiên văn học hiên đại (theo lý thuyết hiên đại) để lý giả Hà Đồ: Bảng 2.

Mục đích của bảng này, người viết tính toán lực hấp dẫn của các hành tinh với trái đất (số thứ tự 3a- Bảng 2).

Do các hành tinh có quỹ đạo quanh Mặt trời là hình elip có độ lệch tâm nhỏ (không đáng kể so với khoảng cách bán trục lớn của nó). Vì vậy có thể coi quỹ đạo các hành tinh là những đường tròn đồng tâm. Lấy số tính toán là đường kính bán trục lớn của quỹ đạo tương ứng với mỗi hành tinh để tính toán (số liệu nguồn từ website của Nasa – trung tâm hãng không vũ trụ Hoa Kỳ).

Lực hấp dẫn được tính cho mỗi hành tinh khi nó ở gần Trái đất nhất (các vị trí a) và cho vị trí xa trái đất nhất (vị trí http://www.lyhocdongphuong.org.vn/forum/public/style_emoticons/default/cool.gif . Mô hình có thể hình dung như sau cho dễ tính toán (mô hình này không đồng nghĩa với việc buộc các hành tinh phải thẳng hàng mà chỉ để dễ tính toán khoảng cách giữa các hành tinh khi chúng ở gần và khi ở xa trái đất nhất mà thôi).

TĐ MT TĐ

9a – 8a – 7a – 6a -5a – 4a – 3a – 2a - 1a – 0 – 1b - 2b - 3b - 4b - 5b - 6b - 7b - 8b - 9b

Mặt trời và vị Trí 2b chỉ dùng để làm cơ sở tính toán. Như vậy sau khi công trừ số học ta được kết quả ở cột (5) - Khoảng cách các thiên thể đến Trái Đất (3a).

Áp dụng công thức tính lực hấp dẫn của Newton

Với:

G là hằng số hấp dẫn. G = 6.67 x 10-5 N.km²/kg²

M là khối lượng Trái đất.

m là khối lượng hành tinh đang xét.

r là khoảng cách giữa hai vật.

- Ta được kết quả ở cột (6)

- Cột (7) chính là hiệu số lực hấp dẫn giữa các hành tinh với trái đất của điểm gần nhất và điểm xa nhất.

- Cột (8) Ta chia các số của cột (7) cho biến thiên lực hấp dẫn của sao thủy. Ý tưởng của việc chia cho lực hấp dẫn của sao thủy là vì độ số của nó là 1 trong Hà đồ và Lạc Thư (khi tính toán thì ng viết cũng thấy nó bé nhất trong 4 hành tinh còn lại được biết đến từ xưa Thổ, Mộc, Hỏa và Kim tinh). (Chú ý: Dựa vào công thức của Newton, sau việc thực hiện phép chia này ta thu được kết quả mà việc tính toán kết quả cột (7) này thực chất không cần đến thông số hằng số hấp dẫn và khối lượng trái đất). Có thể người xưa đã sử dụng một cách nào đó để định lượng được sự biến thiên ảnh hưởng của các thiên thể lên trái đất một cách khá chính xác.

Nhìn vào số liệu cột (8) dễ thấy Diêm vương tinh có biến thiên lực hấp dẫn quá bé so với Sao thủy nên sau phép chia bị làm tròn còn 0.

Thiên Vương Tinh và Hải vương tinh cũng có biến thiên lực hấp dẫn rất bé so với Thủy tinh.

Cột (9) là gán độ số cho 5 hành tinh. Ta có giống như Hà Đồ.

Thủy 1, Hỏa 2, Mộc 3, Kim 4 và Thổ 5.

Tại sao gán như vậy?

Sao thủy và sao Hải Vương (xanh nước biển) cung hành thủy nên độ biến thiên cộng lại với nhau. Sao Thiên vương và sao Kim cùng hành Kin nên cộng lại với nhau. Trái đất và sao thổ cùng là thổ nên cộng lại với nhau. Vấn đề là trái đất không thể có 2 vị trí xa nhất và gần nhất với chính nó được. Vậy đặt Sao thổ ở vị trí trung tâm Hà đồ với độ số 5 Kể như là hợp lý. Thực ra nếu tính tổng biến thiên lực hấp dẫn thì cặp Trái Đất – Thổ tinh còn thua xa Thổ tinh và Kim tinh. Vậy sao không gán cho nó số 3 thay vì số 5. Tuy nhiên ý nghĩa số 5 trong Dịch lý có ý nghĩa lớn. Người viết không đủ trình độ để giải thích căn kẽ sự quan trọng này. Nếu tính sự ảnh hưởng của trái đất lên 1 điểm ngay sát tâm của nó thì giá trị của nó là vô cùng. Khi đó tổng hợp của yếu tố Thổ sẽ là vô hạn. Lấy số 5 cũng là hơp lý. Có một điều trùng hợp là gia tốc trọng trường của trái đất là 9.8 trên bề mặt trái đất! Sai khác với 10 không là bao, thật là trùng hợp. Tuy nhiên điều này không có ý nghĩa nhiều lắm vì số 9.8 tùy thuộc vào đơn vị đo còn 10 kia chỉ là số mang tính chất tượng trưng.

Hà Đồ

6

1 Thủy 8

4 Kim 5

10 3 Mộc

9

2 Hỏa 7

Việc tính tiếp các độ số còn lại và tại sao độ số lại ở các ngôi như trên hình thì người viết cũng không có kiến giải gì mới. Do hiểu biết về dịch lý còn hạn chế nên xin phép không bàn sâu thêm.

Bảng 2. Bảng tính toán lực hấp dẫn:

TT Tên Thiên thể Khối lượng (Kg) Khoảng cách tâm thiên thể đến tâm mặt trời (Km) Khoảng cách các thiên thể đến Trái Đất (3a) (Km) Lực hấp dẫn giữa các hành tinh Hiệu số (*) Chia cho lực hấp dẫn của sao thủy Độ số

(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9)

9a Pluto 1.3000E+22 5,906,380,000 5,756,782,110 2.34E+27 2.26E+26 0.00

8a Neptune - thủy 1.0244E+26 4,498,252,900 4,348,655,010 3.24E+31 4.03E+30 0.02

7a Uranus - kim 8.6849E+25 2,870,972,200 2,721,374,310 7.01E+31 1.32E+31 0.07

6a Sartun - Thổ 5.6851E+26 1,426,725,400 1,277,127,510 2.08E+33 7.15E+32 3.79 5

5a Jupiter - Mộc 1.8987E+27 778,412,020 628,814,130 2.87E+34 1.55E+34 82.16 3

4a Mars - Hỏa 6.4185E+23 227,936,640 78,338,750 6.25E+32 5.98E+32 3.17 2

3a Earth - thổ 5.9737E+24 149,597,890 0 5

2a Venus - Kim 4.8685E+24 108,208,930 41,388,960 1.70E+34 1.65E+34 87.59 4

1a Mecury - Thủy 3.3022E+23 57,909,175 91,688,715 2.35E+32 1.89E+32 1.00 1

0 Sun 1.9890E+30 - 149,597,890 5.31E+38

1b Mecury - Thủy 3.3022E+23 57,909,175 207,507,065 4.58E+31

2b Venus - Kim 4.8685E+24 108,208,930 257,806,820 4.38E+32

3b Earth 5.9737E+24 149,597,890 299,195,780 3.99E+32

4b Mars - Hỏa 6.4185E+23 227,936,640 377,534,530 2.69E+31

5b Jupiter - Mộc 1.8987E+27 778,412,020 928,009,910 1.32E+34

6b Sartun - Thổ 5.6851E+26 1,426,725,400 1,576,323,290 1.37E+33

7b Uranus - kim 8.6849E+25 2,870,972,200 3,020,570,090 5.69E+31

8b Neptune - thủy 1.0244E+26 4,498,252,900 4,647,850,790 2.83E+31

9b Pluto 1.3000E+22 5,906,380,000 6,055,977,890 2.12E+27

Chỉ lưu ý là phép tính toán vừa thực hiện trong Bảng 2 không chỉ có ý nghĩa cho việc giải thích độ số. nó cho thấy 1 cặp bài trùng mạnh Kim (87.59)& Mộc (82.16) và một cặp bài trùng yếu Thủy (1+ 0.02) & Hỏa (3.17). Điều này giải thích tại sao lại có 2 cặp tương khắc như vậy. Đặc biệt Trong Bát quái cáp Thủy Hỏa luôn luôn đối đầu nhau.

Vậy có lẽ Hà Đồ chọn phương Đông tây cho cặp Kim Mộc cũng có một phần nguyên nhân bởi 2 hành tinh này có biến thiên hấp dẫn lớn. Có thể vì như vậy bố trí cùng phương mọc và lặn của mặt trời.

Liên hệ với các Hào trong 1 quẻ dịch. Có thể liên tưởng đến việc gán 3 căp hành tinh này mỗi hành tinh cho 1 hào. Tất nhiên là việc Gán phải theo thứ tự và quy tắc. Như vậy sẽ có 2 trường hợp đánh từ tâm mặt trời ra hoặc từ ngoài vào (tuy ở trên tính toán cả 9 hành tinh. Tuy nhiên Thiên Vương, Hải vương và Diên vương tinh ít ảnh hưởng nên không tác động nhiều. Mặt khác việc gán như dưới đây không có liên quan đến trị số mà chỉ liên quan đến ngũ hành nên vẫn hoàn toàn hợp lý và mang tính đại diện cao):

Từ tâm ra Từ ngoài vào

Hào 6 Thổ Thủy

Hào cửu Mộc Kim

Hào 4 Hỏa TĐ – thổ

Hào 3 TĐ – thổ Hỏa

Hào 2 Kim Mộc

Hào Sơ Thủy Thổ

Có thể thấy 2 cách gán mỗi hành tinh cho 1 hào như trên đều hợp lý. Tuy nhiên cách gán từ tâm ra có vẻ hợp lý hơn và đúng phù hợp hơn với Kinh dịch hiện tại:

- Phép gán từ trong ra thể hiện tư tưởng nhất quán hệ Nhật tâm.

- Trong giải thích từng hào, Kinh dịch rất chú trọng 2 cặp tương hỗ hài sơ và hào 4 (đứng đầu tiên trong nội quái và ngoại quá) và đặ biệt là Hào 2 và Hào 5 chủ của nội và ngoại quái. Trong khi 2 cặp hào 3 và hào 6 ít được chú ý hơn. Theo cách gán từ trong ra ta thấy rõ đó là vì 2 cặp Thủy Hỏa và và Kim –Mộc. Vậy kể như là hợp lý và sáng tỏ rất nhiều. Ngũ hành trong Kinh Dịch có lẽ cũng như vậy (vì hiện tại chưa có ai có kiến giải gì về việc việc gán ngũ hành cho 6 hào. Người viết đang nhận định dưới ánh sáng của tây học và thuyết nhật tâm.)

- Việc gán từ tâm (hệ mặt trời) ra cho còn cho thấy điểm tương đồng là Sao Kin có lực tương tác lớn tại sao nó hay bị coi là sao xấu Thái bạch (kim tinh). Liệu có phải nó mạnh nhưng đứng vào vị trí âm- không trung nếu không đắc chính thì nguy to. Còn Sao Mộc được coi là tốt vì có phải nó ở ngôi cửu đắc trung. Nếu đăc chính nữa thì thật đạt thịnh như ở ngôi cửu ngũ chí tôn vậy. Kể ra cũng rất hợp lý với cách giải nghĩa của kinh dịch.

- Với cách gán này cũng không còn phải thắc mắc tại sao quẻ dich lại chỉ có 6 hào mà không là 5 hào, 7 hào hay 8 hào. Ngũ Hành nhưng lại làm ra 6 hào cho 3 cặp tương ứng. Thật là hợp lý.

(Do trình độ có hạn nên người viết chỉ viết ra những suy nghĩ cá nhân. Nếu không đúng cũng xin các cao nhân bỏ quá cho).

Một chú ý nữa là người viết không chưa đề cập đến mặt trời và mặt trăng. Theo khoa học phương tây thì sở dĩ có hiện tượng nhật thực toàn phần mặt trăng gần như trùng khít lên mặt trời là vì khoảng cách của mat trời đến trái đất gấp 30 lần từ mặt trăng đến trái đất nhưng đường kính mặt trời cũng gấp 30 làn mặt trăng nên có hiện tượng như vậy. Mặc trời và mặt trăng tượng trưng cho âm và dương trong Kinh dịch vậy.

Thực ra sự biến thiên của các lực hấp dẫn của các hành tinh khác nhau nhưng với quan niệm âm dương, ngũ hành không hề quan tâm đến trị số, không hề có phương, hoàn toàn vô hướng, cũng không có tham số thời gian. Quan niệm này là một công thức siêu vũ trụ. Áp dụng cho mọi nơi, Mọi địa điểm trong vũ trụ.

Một quan niệm nữa trong Dịch lý cần chú ý có thể hiểu mọi vật có liên quan đến nhau; vũ trụ ảnh hưởng đến con người; không đặt vấn đề tâm của vũ trụ. Người viết đã từng đọc tác phẩm của ông hoàng vật lý Stephen Hawking - Lược sử thời gian - trong đó có phần gỉa thuyết về nguồn gốc của vũ trụ. Có một điều làm người viết chú ý là do quan niệm vũ trụ hình thành từ vụ nổ big Bang nên người ta cho là vũ trụ hình cầu và tiến hành tính toán & đo đạc nhằm tìm tâm của vũ trụ. Kết quả thật bất ngờ, vũ trụ đẳng phương và mọi điểm trong vũ trụ đều là tâm!!! Điều này chỉ đúng nếu à một điểm duy nhất (trong không gian 3 chiều). Nghĩ cũng thật khó hiểu. Nhưng điều đó lại một lần nữa cho thấy sự phù hợp của Kinh Dịch với khoa thực nghiệm hiện đại. Cho thấy Kinh Dịch và văn hóa phương đông còn vượt trước nhiều lý thuyết khoa học hiện đại.

2.3. Kết luận sơ bộ về mối liên hệ giữa Kinh Dịch và quan niệm hệ Nhật Tâm

Như vậy vào thiên văn học hiện đại và quan điểm Nhật Tâm vẫn thấy rõ sự liên hệ của Kinh Dịch với thiên văn và hoàn toàn phù hợp ăn, khớp với quan niện Nhật tâm. Việc giải thích này đồng thời cũng thông tỏ rất nhiều điều về Kinh Dịch.

Cần chú ý là với nhân thức về 5 hành tính Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ từ thời xa xưa (nếu theo thuyết địa tâm) con đã có thể tạo nên một môt hình thu nhỏ các hành tinh quay quanh trái đất. 3 hành tinh chưa biết đến không ảnh hưởng nhiều vì thực tế tính theo ngũ hành, âm dương vẫn mang tính đại diện cao.

Vấn đề là ở Chương III trong tiểu luận của anh.

Còn tiếp

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bác Thiên Sứ thân mến.

Khi viết tiểu luận này cháu cũng đã biết rằng ra rằng:

- Kinh Dich là một tác phẩm đồ sộ. Có thể coi nó là tác phẩm có một không hai của văn minh Đông phương. Không thể phủ nhận công lao to lớn của đất nước Trung hoa đã dày công duy trì và phát triển Kinh Dịch để có tầm vóc như hiện nay. Tuy nhiên hiện nay vấn đề nguồn gốc suất xứ của Kinh Dịch vẫn chưa được khẳng định. Nên đây cũng là một ẩn số cho những người nghiên cứu và những người quan tâm đến Kinh Dịch.

- Kinh dịch không chỉ đơn giản là học thuật mà còn liên quan đến nhiều mảng khác: Lịch sử, Văn Hóa, Triết học, Tín ngưỡng.v.v.

Thực ra khi viết tiểu luận này cháu hy vọng có thể đạt được một những điều sau:

- Đóng góp chút ít kiến giải về Kinh dịch (liên quan đến học thuật)

- Bày tỏ quan điểm riêng về nguồn gốc Kinh dịch.

- Đưa ra cách tiếp cận mới để tiếp cận nguồn gốc của Kinh dich.

Chính vì mục đích trên mà cháu đã nhờ bác Thiên Sứ phản biện để loại bỏ những sai lầm do hiểu biết còn hạn chế. Khi đưa ra quan điểm của mình cháu luôn tâm niệm là phải tôn trọng sự thật. Nếu trong quá trình đào sâu suy nghĩ, may mắn chứng minh được Kinh Dịch đúng là có xuất phát điểm Trung Hoa thì cũng rất vui mừng vì làm sáng tỏ được vấn đề. Cháu sẵn sàng phản biện lại những quan điểm sai lầm của mình đã đưa ra trước đó. Tất nhiên là trên tinh thần tôn trọng sự thật và vì học thuật.

Dựa theo ý tứ của bác Thiên Sứ thì cháu cũng hiểu ra là khó có thể có một không gian thuần túy học thuật vào thời điểm hiện nay. Có lẽ ban đều cháu cũng đã nhận thức thiếu ít nhất 2 lĩnh vực rất quan trọng và ảnh hưởng rất nhiều đến không chỉ Kinh Dich mà còn ảnh hưởng tới nhiều lĩnh vực khác nữa.

Cháu sẽ vẫn quan tâm đến Kinh Dich vì học thuật và cháu nghĩ rằng sự thật vẫn luôn sự thật giống như câu nói nổi tiếng của Copernic "dù sao trái đất vẫn quay".

Một lần nữa cháu cám ơn bác Thiên Sứ đã chỉ bảo. Xin tiếp tục được ghi nhận những phản biện của bác.

Chúc bác vạn sự như ý.

Nhật Tâm

2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nhật Tâm thân mến.

Theo tinh thần trao đổi giữa tôi và Nhật Tâm thì tôi đã hứa sẽ phân tích những ưu, khuyết điểm trong tiểu luận của Nhật Tâm về chủ đề này. Tôi nhận thấy những luận cứ minh chứng cho luận điểm này ở Chương III. Tôi chép lại vào đây, một lần nữa.

CHƯƠNG III

VĂN HIẾN VĂN LANG VÀ NHẬT TÂM, KINH DỊCH

3.1. Giả thuyết về mối liên hệ giữa nền văn hiến Văn Lang với quan niệm Nhật Tâm và Kinh Dịch.

Theo kết luận ở phần chương 2, Kinh Dịch có liên hệ mật thiết với thiên văn và hoàn toàn phù hợp ăn khớp với quan niện Nhật tâm. Điều đó chứng tỏ lời của các học giả nghiên cứu Kinh dịch rất đúng. Kinh dịch là môn khoa học và quy luật bao trùm vũ trụ.

Đến đây cần phải đặt vấn đề ngược lại là với quan niệm Địa tâm thì giải thích Kinh dịch như thế nào? Liệu có thể lập nên Kinh dịch với những triết lý phù hợp như hiện tại hay không? Bởi lẽ quan điểm vũ trụ quan theo kiểu địa tâm không phản ánh thực tại khách quan. Kinh Dịch liệu có phải thực sự dựa trên một nền móng không phù hợp với thực tế khách quan?

Từ việc giải thích phù hợp độ số Hà Đồ, kinh dịch bằng thiên văn phương tây nêu trên cho Hà đồ và Kinh dịch phải dựa trên kiến thức thiên văn. Nếu quan niệm như hầu hết các quốc gia thời tối cổ và trung cổ (trước Copernic) là địa tâm. Mâu thuẫn ngay lập tức nảy sinh khi giải thích Kinh dịch thuyết địa tâm.

- Quan điểm đó không phù hợp khách quan. Một lý thuyết dựa trên nền tảng không chuẩn sao có thể phù hợp cao với thực tế và khoa học thực nghiệm hiện đại được!!!???

- Với quan niệm địa tâm thì các thiên thể quay quanh trái đất với dạng hình tròn thì mức độ biến thiên lực hấp dẫn không đáng kể (Không thể có khả dĩ đo đếm được).

- Nếu thời đó đã quan niệm các thiên thể quay quanh mặt đất theo hình elip thì không hợp lý. Chưa có ghi nhận nào về sự hiểu biết về hình elip trước công nguyên.

- Cho dù đã có hiểu biết về hình elip (tức là tạo mọi điều kiện cho khả năng để dựa vào thuyết địa tâm để hình thành Kinh Dịch) thì bắt buộc phải quan niệm trái đất hình cầu thì khi các thiên thể quay xung quanh thì mới hợp lý. Như vậy mới có lúc xuất hiện lúc lặn đi; khi đó Dịch học mới đẳng phương đẳng hướng được. Trong khi đó đất nước Trung Hoa sang đến thiên niên kỷ thứ 2 sau công Nguyên rồi mà vẫn một mực trời tròn đất vuông và ta đây là trung tâm của vũ trụ!!!. Như vậy sao có thể sáng tạo ra Kinh Dịch được?

- Giả sử quan niệm về hình elip đã được biết đến thì làm sao có thể lập được độ số chuẩn xác như Hà Đồ hiện nay được? bởi lẽ khi tất cả các hành tinh quay quanh mặt trời (là điều thực tế) thì khi chuyển trục tọa độ về trái đất (coi trái đất không di chuyển). Các hành quay quanh trái đất với một quỹ đạo cực kỳ phức tạp, không có chu kỳ và quy lật (hoàn toàn không mang dáng dấp của hình tròn hay elip). Ngay với kiến thức khoa học phương tây ngày nay nếu không dùng máy vi tính thì e rằng cũng bó tay khi tính điểm gần nhất và xa nhất.

- Trường hợp may mắn tìm ra được Hà Đồ (hoặc bằng cách nào đó vẫn tính được mức độ biến thiên ảnh hưởng của các 5 hành tinh với trái đất) thì khi xây dựng kinh dịch theo nguyên lý nào để biết:

+ Cách đặt nghĩa các quẻ, các hào từ.

+ Luận Ngũ hành cho các hào.

+ Tại sao lại coi trọng các cặp ứng đối hào 1- hào 4 và hào 2 với hào 5 và ít voi trọng cặp còn lại 3-6

+ Tại sao Sao Mộc lại là Mộc Đức - tốt, còn Sao Thái Bạch thì thường là xấu; Chú ý là chỉ với quan niệm nhật tâm ta mới thấy được thứ tự các hành tinh theo đúng quỹ đạo thực tế khách quan (đã trình bày trong chương II - hệ giữa hệ giữa thuyết nhật tâm và kinh dịch.)

+ Tại sao đặt quẻ dịch tại sao có 6 hào mà không phải 5, 7 hay 8. Việc giải thích của các học giả hơn 2000 năm qua còn vòng to tam quốc, biết ảo khôn lường mà chẳng có một cơ sở thống nhất nào tất cả là vì nguyên nhân dựa trên quan niệm địa tâm mà xét Kinh Dịch. Khi Trái đất làm tâm thì mặt trời mặt trăng có thể coi là tượng trưng cho âm dương. Còn lại 5 hành tinh quay quanh trái đất vậy lập kinh dịch với 5 Hào có phải là đẹp không. Vừa thuận âm dương vừa đẹp ngũ hành. Sao cứ phải lập 6 hào???

Một số học giả đưa ra lý giải cho độ số Hà Đồ là dựa theo hướng xuất hiện của các hành tinh trên bầu trời và giờ xuất hiện của nó. Người viết xin khẳng định là không phải. Nguyên nhân là nếu làm việc đó thì Kinh dịch chỉ đúng cho trên mặt đất (do có tham số hướng) và cho khu vực khảo sát đó thôi. Bất hợp lý thứ hai là người viết đang ở Mỹ, khá gần bắc cực nên vào mùa hè mặt trời lặn muộn 10h tối mới thấy sao Kim, 2-3 giờ sáng vẫn còn thấy sao kim. Vậy gán cho sao Kim độ số 4 và 9 như ở Việt Nam thì chắc chắn không ổn. Ngay cả hướng của sao Kim cũng chẳng phải là hướng tây mà ở hắn hướng bắc. Việc đánh số Hà Đồ dựa theo hướng và thời gian sẽ đưa tham số hướng và thời gian vào công thức âm dương ngũ hành. Hậu quả là nó sẽ mất đi quy luật bao quát trong vũ trụ (do thêm tham số hướng); mất khả năng tiên tri (do có tham số thời gian). Kết luận là lập độ số hà đồ theo hướng là thời gian là không đúng ngay từ phương pháp.

- Điều quan trọng nhất là Kinh dịch đến nay vẫn chứng tỏ giá trị của nó bằng sự phù hợp với khoa học thực nhiệm hiên đại và các quy luật khách quan. Điều đó chứng tỏ nó không thể được xây dựng từ một nền tảng nhận thức không đúng (địa tâm) với thực tế khác quan (Nhật tâm). Một lý thuyết xây dựng từ một nhật thức không đúng thì tất sẽ chỉ có thể giải thích một số hiện tượng, sự việc nào đó trong một phạm vi nhất định chứ không thể đúng cho toàn bộ cho cả tầm vi mô và vĩ mô được. Nó tất sẽ gặp khó khăn lớn trong việc lý giải các hiện tượng hiện hữu chứ chưa kể đến việc có khả năng tiên tri (dự báo).

Với những điểm bất hợp lý như trên người viết dám khẳng định chắc chắn rằng:

- Hán tộc ở Trung Hoa không phải là chủ thể sáng tạo ra Kinh Dịch.

- Thuyết địa tâm không phải là nền móng cho Kinh Dịch mà là thuyết Nhật tâm.   

Sự thật thì người Trung Hoa “nhập khẩu” Kinh Dich về nhưng họ không hiểu về văn hóa hoặc không thể vì một sách mà thay đổi quan niệm “ta đây là trung tâm vũ trụ” để theo thuyết nhật tâm. Hậu quả là qua hơn hai nghìn năm. Qua chưa có ai lý giải nổi một cách rõ ràng và có cơ sở khoa học, cơ sở thực tế những khúc mắc về cơ sở luận, phương pháp luận của Kinh dịch (vd: Hà đồ từ đâu ra, nó có liên quan gì đến vũ trụ; tại sao lại giải nghĩa quẻ như tiền nhân, tại sao Hà đồ thì có ngũ hành mà trong quả số chỉ độc mỗi âm dương?.v.v.) Tất cả chỉ là những lý giải học thuật mang tính chất suy luận cá nhân.

Vậy thì phải có một nền văn minh khác rực rỡ hơn nền văn minh Trung Hoa tại thời điểm trước công nguyên. Nền văn minh này phải thỏa mãn các điều kiện sau:

- Đã biến mất (nếu không biến mất thì chắc chắn con cháu họ sẽ còn lưu truyền quan niệm Nhật Tâm và sẽ được lịch sử ghi nhận).

- Nền văn minh đó phải ở đủ gần Trung Hoa, vì Trung Hoa đã lấy về dạy cho con cháu hoặc Kinh dịch lưu truyền qua Trung Hoa và có tương tác nhất định.

- Nền văn minh đó phải là văn minh lúa nước bởi lẽ nội dung các quẻ trong Kinh Dịch tỏ rõ sự liên hệ với văn minh nông nghiệp lúc nước.

- Điều kiện lớn nhất là nền văn minh này phải có quan niệm Nhật Tâm để hội đủ yếu tố tạo nên Kinh Dịch.

Qua cách những phân tích nói trên có thể thu hẹp lại là chỉ có tộc người Bách Việt sống ở bờ Nam sông Dương Tử phù hợp với 3 Tiêu trí trên.Các dân tộc bách việc có thể đứng ra chứng minh để nhận tác quyền hoặc có khả năng tác quyền là của chung dân tộc Bách Việt.

Tuy nhiên chúng ta, con cháu của 18 đời vua Hùng hiện đang có 2 bằng chứng lich sử không thể tranh cãi cãi bởi nó đã được thừ nhận có từ đời các vua Hùng một là vật thể còn một là phi vật thể đó là Trống đồng Đông Sơn và truyền thuyết bánh trưng, bánh dày.

3.2. Bằng chứng vật thể

Trống đồng Đông Sơn đã có từ lâu. Đó là báu vật của văn hiến Văn Lang còn truyền lại được đến ngày nay. Theo lẽ thường tình thì trên đó phải được trân trọng khắc ghi ở dạng đơn giản tiến bộ vĩ đại nhất của nền văn minh đó. Đó chính là tiến bộ trong quan niệm Nhật tâm của dân tộc ta. Trống đồng có đặc điểm dù to hay nhỏ, thấp hay cao hoa văn cầu kỳ hay tinh xảo… tất cả đều có khác một hình mặt trời ở giữa!!! Đây chính là vật chứng hoàn hảo cho điều kiện cuối cùng là phải có quan niệm Nhật Tâm để hội đủ yếu tố tạo nên Kinh Dịch.

Văn minh thời các vua Hùng là văn minh lúc nước, đương nhiên là có coi trọng mặt trời. Trong nông nghiệp thì trời và đất đều quan trọng. Nhưng tại sao lại quá coi trọng yếu tố trời vậy? Nhất là nếu có quan niệm địa tâm thì tại sao lại chỉ có mặt trời được khắc ghi trên trống đồng vậy?

“Chúng tôi rất kính phục và cảm ơn các nhà khảo cổ Tây phương (cần đặc biệt chú ý chi tiết này-người viết)nhất là ở trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp, để rất nhiều năm tháng và tâm tư cùng đem những sử học, mày mò, khảo sát, suy luận và giả thiết. Các vị ấy đã viết nên cả những bộ sách lớn khiến trống đồng trở thành một vật nổi tiếng trên Thế Giới. Nhờ các vị mà rất đông những nhà học giả của nước chúng tôi khi đề cập đến di sản văn hoá này cũng đã khiến được cho quần chúng bình dân biết đại khái rằng ngày xưa các bộ lạc của tổ tiên mình thờ vật tổ là con chim tên là Lạc, thờ thần mặt trời ( vì hình vẽ ở trung tâm mặt trời loé ra nhiều tia sáng),lại có những hình người đội mũ cánh chim, mặc áo xòe ra như lông cánh chim, rồi có cả mắt chim ở đầu mũi thuyền, đầu mũi tên, trên mái chèo, bánh lái thuyền, …” {13}

Như vậy các học giả phương tây đã khẳng định đó hình ở giữa là mặt trời. Vậy hãy chú ý 6 vòng hoa văn có hình tương tự sau đây.

Có tất cả 6 vòng trong như vậy. Tượng trưng cho quỹ đạo 6 hành tinh quay quanh mặt trời (Thủy, Kim, Trái Đất, Hỏa, Mộc, Kim – Thời đó có thể chỉ biết được 6 bởi vì 5 hành tinh- không kể trái đất có - thể dễ dàng quan sát bằng mắt thường) Vòng thứ 3 từ trong ra chính là tượng trưng cho quỹ đạo của trái đất. Tất cả mọi hoạt động sản xuất cui chơi của con người, muông thú đều xoay quanh mặt trời. Như vậy quan niệm Nhật Tâm chẳng phải quá rõ ràng rồi sao. Đây chính là tiến bộ vượt thời đại và vĩ đại của thời đại Hùng Vương.

Một lần nữa cần phải khẳng định rằng Kinh dịch là sản phẩm khởi nguồn từ nền văn hiến Văn Lang và hình thành trên cơ sở thuyết Nhật Tâm.

3.3. Bằng chứng phi vật thể

Truyền thuyết bánh Trưng bánh dày nói rõ là từ đời vua Hùng vương thứ 6, và do hoàng tử Lang Liêu tạo nên. Cách giải nghĩa bánh trưng bánh dày là trời tròn đất vuông là không đúng, đó là do ảnh hưởng của Trung Quốc (theo một số tác giả như Nguyễn Vũ Tuấn Anh đã nêu ra). Thực chất khi có quan niệm Nhật tâm, và có Kinh Dịch thì không thể còn nghĩ đất vuông được. Bánh Trưng đúng là tượng trưng cho đất so với trời là bánh dày. Hình vuông là thể hiện cho Hà đồ, trong đó chứa đựng ngũ hành. Vuông tròn thể hiện âm dương . cặp bánh như muốn nhắn nhủ con cháu về thành tựu vĩ đại của nên văn hiến Văn Lang vậy: Muốn hiểu rõ được trời đất thì sửa dụng Hà Đồ (tượng giống bánh trưng) và phải nắm rõ âm dương ngũ hành. Hiểu như vậy mới đúng.

Sự tích Lang Liêu dâng bánh trưng bánh dày nhân dịp mừng thọ vua cha - Hùng vương thứ 6. Như vậy Kinh Dịch và quan niệm nhật tâm đã tồn tại ở nước ta từ rất sớm. Có lẽ phải trước Copernic (1473 – 1543) tối thiểu 3000 năm !!!

Vậy ta thử xem có cách gì lý giải hoa văn trên đây không và liệu có hợp lý để xem cho ông nhắn nhủ gì trên trống đồng. Đương nhiên là lý giải phải hợp lý và ra thông điệp thì mới thuyết phục và logic:

- Vòng ngoài: 18 con chim Lạc tượng trưng 18 đời vua Hùng.

- Vòng 2: 6 con chim lạc, 10 con nai, 8 con chim lạc, 10 con nai.

- Vòng 3:

Có 12 người mặc quan phục. Hãy bắt đầu từ 6 người đội mũ phía trên của ảnh hình trống đồng (người đi đầu cầm chiếc giáo dài)

Người đi sau cùng không có que, bị mờ đi tạo cảm giác bị mất đi. 5 người cầm que người cuối cùng không có tạo thành quẻ Thiên trạch quải 5 hào dương 1 hào âm: nghĩa là nứt vỡ (Tăng lên đến cùng cực thì tới lúc tràn đầy, nứt vỡ nên sau quẻ Ích tới quẻ Quải. Quải có nghĩa là nứt vỡ, lại có nghĩa là quyết liệt) {12}

Xét hình 6 người khác trên mặt trống đồng.

Người đi sau cùng lại có cầm que là được khắc nét. 6 người vẫn cầm que cầm gậy, người cuối cùng hiện trở lại sẽ tạo thành quẻ Càn (6 hào dương): “được quẻ này thì rất tốt, hanh thông, có lợi và tất giữ vững được cho tới lúc cuối cùng.” {12}

Vậy có thể hiểu thông điệp là là văn minh của triều đại 18 vua Hùng sau khai lập và phát triển rực rỡ bị “đổ vỡ” nhưng vẫn giữ vững được cho tới cuối cùng. Hiểu như vậy liệu có bị coi là quá áp đặt và vô căn cứ? Chú ý là người đi đầu không còn câm cây giáo dài và người ở sau có dáng dấp khác hẳn 5 người trước. Dáng to cao hơn (giống người tây), mũi to (mũi tây) bước chân lạc điệu (không hơp phong tục nên sai nhạc). Như vậy là nền văn minh được phục hồi bởi hậu thế là người nước ngoài (Người Pháp đã nghiên cứu và viết sách về trống đồng Đông sơn làm cho nó nổi tiếng cả thế giới).

Phân Loại Trống Đồng Bên Tây Âu có dấu vết đã biết về trống đồng từ năm 1682 (xem Asie du Sud Asiatique, Tome II Le Vietnam, L. Bezacier, Paris, Picard 1972). Nhưng mãi tới cuối thếkỷ 19 mới có học giả bàn về trống đồng như Hirth (1890) mà ông cho là bởi Tầu. Rồi De Grooth (1901) cho là của Việt Tộc. Ông Franz Heger, một học giả người Đức làm cố vấn trong hội nghị nghiên cứu về Viễn Đông ở Hà Nội năm 1902 đã cho xuất bản tại Leipzig 2 quyển về trống đồng cổ ở Đông Nam Á. Sách in khổ lớn, có 45 hình và một bản mục lục về tất cả các diễn đề. Ông Heger chống lại ý kiến của Hirth cho trống đồng là sản phẩm của Tầu, ủng hộ ý kiến của Grooth cho là của Việt Tộc, quả quyết trung tâm các cuộc tìm kiếm sau này về trống đồng phải là ở Bắc Việt, và xin người Pháp chú ý đến di vật đầy tính chất văn hóa này. Ông Heger phân chia 165 chiếc trống được biết đến lúc ấy thành 4 loại. {14}

Vậy tiền nhân dự đoán thời gian từ khi dựng nước đến lúc được người tây “phục hồi” lại là bao lâu: từ các con số của vòng tròn thứ 2:

6*10*8*10 = 4800 năm.

Một con số thật nhiều ý nghĩa trùng với nhiều ý kiến vẫn cho rằng nước ta có gần 5000 năm lịch sử. (Học giả Thiên Sứ aka Nguyễn Vũ Tuấn Anh cho là thời vua Hùng bắt đầu từ khoảng 2879 trước công nguyên).

Trống đồng được cho là của dân tộc Việt và được người tây nghiên cứu xuất bản thành sách 1902 như vậy là 4800 năm trước là năm 2898 trước công nguyên. Lệch chỉ có 19 năm so với mốc 2879!!!

Như vậy là các vị vua Hùng nhờ Dịch học đã tiên đoán trước sự đổ vỡ của triều đại nên đã chuẩn bị sẵn phương án đối phó và lưu giữu trên trống đồng. Các vị đã biết trước trước được người phương tây sẽ bắt đầu tìm hiểu và nghiên cứu vẩ nó đồng thời dự đoán cả mốc thời gian.

Hai bằng chứng trên đây về trống đồng và bánh trưng bánh dày cùng với rất nhiều nhiều phát kiến của các học giả (xem mục1.5) đã cho thấy một nền văn minh vĩ đại đang dần được nhận diện và phục dựng.

Còn tiếp

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nhật Tâm thân mến.

Trong Chương III nay thì toàn bộ đoạn đầu được trích dẫn sau đây mới chỉ đặt vấn đề về mối liên hệ giữa khoa học và Kinh Dịch, chưa phải là bằng chứng thuyết phục phủ định Kinh Dịch của Trung Hoa. Chưa nói đến việc chứng minh nó thuộc về văn hiến Lạc Việt.

Câu sau đây trong phần đầu của chương này:

Trong khi đó đất nước Trung Hoa sang đến thiên niên kỷ thứ 2 sau công Nguyên rồi mà vẫn một mực trời tròn đất vuông và ta đây là trung tâm của vũ trụ!!!. Như vậy sao có thể sáng tạo ra Kinh Dịch được?

Chỉ là đặt vấn đề hoài nghi.

Dưới đây là toàn văn đoạn đầu của chương III được trích dẫn:

CHƯƠNG III

VĂN HIẾN VĂN LANG VÀ NHẬT TÂM, KINH DỊCH

3.1. Giả thuyết về mối liên hệ giữa nền văn hiến Văn Lang với quan niệm Nhật Tâm và Kinh Dịch.

Theo kết luận ở phần chương 2, Kinh Dịch có liên hệ mật thiết với thiên văn và hoàn toàn phù hợp ăn khớp với quan niện Nhật tâm. Điều đó chứng tỏ lời của các học giả nghiên cứu Kinh dịch rất đúng. Kinh dịch là môn khoa học và quy luật bao trùm vũ trụ.

Đến đây cần phải đặt vấn đề ngược lại là với quan niệm Địa tâm thì giải thích Kinh dịch như thế nào? Liệu có thể lập nên Kinh dịch với những triết lý phù hợp như hiện tại hay không? Bởi lẽ quan điểm vũ trụ quan theo kiểu địa tâm không phản ánh thực tại khách quan. Kinh Dịch liệu có phải thực sự dựa trên một nền móng không phù hợp với thực tế khách quan?

Từ việc giải thích phù hợp độ số Hà Đồ, kinh dịch bằng thiên văn phương tây nêu trên cho Hà đồ và Kinh dịch phải dựa trên kiến thức thiên văn. Nếu quan niệm như hầu hết các quốc gia thời tối cổ và trung cổ (trước Copernic) là địa tâm. Mâu thuẫn ngay lập tức nảy sinh khi giải thích Kinh dịch thuyết địa tâm.

- Quan điểm đó không phù hợp khách quan. Một lý thuyết dựa trên nền tảng không chuẩn sao có thể phù hợp cao với thực tế và khoa học thực nghiệm hiện đại được!!!???

- Với quan niệm địa tâm thì các thiên thể quay quanh trái đất với dạng hình tròn thì mức độ biến thiên lực hấp dẫn không đáng kể (Không thể có khả dĩ đo đếm được).

- Nếu thời đó đã quan niệm các thiên thể quay quanh mặt đất theo hình elip thì không hợp lý. Chưa có ghi nhận nào về sự hiểu biết về hình elip trước công nguyên.

- Cho dù đã có hiểu biết về hình elip (tức là tạo mọi điều kiện cho khả năng để dựa vào thuyết địa tâm để hình thành Kinh Dịch) thì bắt buộc phải quan niệm trái đất hình cầu thì khi các thiên thể quay xung quanh thì mới hợp lý. Như vậy mới có lúc xuất hiện lúc lặn đi; khi đó Dịch học mới đẳng phương đẳng hướng được. Trong khi đó đất nước Trung Hoa sang đến thiên niên kỷ thứ 2 sau công Nguyên rồi mà vẫn một mực trời tròn đất vuông và ta đây là trung tâm của vũ trụ!!!. Như vậy sao có thể sáng tạo ra Kinh Dịch được?

- Giả sử quan niệm về hình elip đã được biết đến thì làm sao có thể lập được độ số chuẩn xác như Hà Đồ hiện nay được? bởi lẽ khi tất cả các hành tinh quay quanh mặt trời (là điều thực tế) thì khi chuyển trục tọa độ về trái đất (coi trái đất không di chuyển). Các hành quay quanh trái đất với một quỹ đạo cực kỳ phức tạp, không có chu kỳ và quy lật (hoàn toàn không mang dáng dấp của hình tròn hay elip). Ngay với kiến thức khoa học phương tây ngày nay nếu không dùng máy vi tính thì e rằng cũng bó tay khi tính điểm gần nhất và xa nhất.

- Trường hợp may mắn tìm ra được Hà Đồ (hoặc bằng cách nào đó vẫn tính được mức độ biến thiên ảnh hưởng của các 5 hành tinh với trái đất) thì khi xây dựng kinh dịch theo nguyên lý nào để biết:

+ Cách đặt nghĩa các quẻ, các hào từ.

+ Luận Ngũ hành cho các hào.

+ Tại sao lại coi trọng các cặp ứng đối hào 1- hào 4 và hào 2 với hào 5 và ít voi trọng cặp còn lại 3-6

+ Tại sao Sao Mộc lại là Mộc Đức - tốt, còn Sao Thái Bạch thì thường là xấu; Chú ý là chỉ với quan niệm nhật tâm ta mới thấy được thứ tự các hành tinh theo đúng quỹ đạo thực tế khách quan (đã trình bày trong chương II - hệ giữa hệ giữa thuyết nhật tâm và kinh dịch.)

+ Tại sao đặt quẻ dịch tại sao có 6 hào mà không phải 5, 7 hay 8. Việc giải thích của các học giả hơn 2000 năm qua còn vòng to tam quốc, biết ảo khôn lường mà chẳng có một cơ sở thống nhất nào tất cả là vì nguyên nhân dựa trên quan niệm địa tâm mà xét Kinh Dịch. Khi Trái đất làm tâm thì mặt trời mặt trăng có thể coi là tượng trưng cho âm dương. Còn lại 5 hành tinh quay quanh trái đất vậy lập kinh dịch với 5 Hào có phải là đẹp không. Vừa thuận âm dương vừa đẹp ngũ hành. Sao cứ phải lập 6 hào???

Còn tiếp
2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nhật Tâm thân mến.

Đoạn tiếp theo được trích dẫn cho thấy Nhật Tâm xem xét về điều kiện gọi là: "Một số học giả đưa ra lý giải cho độ số Hà Đồ là dựa theo hướng xuất hiện của các hành tinh trên bầu trời và giờ xuất hiện của nó. Người viết xin khẳng định là không phải." - Là hoàn toàn vội vã, rất chủ quan và chưa hiểu sâu vấn đề, nhưng đã vội khẳng định nhưng vấn đề liên quan đến Hà Đồ.

Dưới đây là toàn văn đoạn trích dẫn liên quan.

Một số học giả đưa ra lý giải cho độ số Hà Đồ là dựa theo hướng xuất hiện của các hành tinh trên bầu trời và giờ xuất hiện của nó. Người viết xin khẳng định là không phải. Nguyên nhân là nếu làm việc đó thì Kinh dịch chỉ đúng cho trên mặt đất (do có tham số hướng) và cho khu vực khảo sát đó thôi. Bất hợp lý thứ hai là người viết đang ở Mỹ, khá gần bắc cực nên vào mùa hè mặt trời lặn muộn 10h tối mới thấy sao Kim, 2-3 giờ sáng vẫn còn thấy sao kim. Vậy gán cho sao Kim độ số 4 và 9 như ở Việt Nam thì chắc chắn không ổn. Ngay cả hướng của sao Kim cũng chẳng phải là hướng tây mà ở hắn hướng bắc. Việc đánh số Hà Đồ dựa theo hướng và thời gian sẽ đưa tham số hướng và thời gian vào công thức âm dương ngũ hành. Hậu quả là nó sẽ mất đi quy luật bao quát trong vũ trụ (do thêm tham số hướng); mất khả năng tiên tri (do có tham số thời gian). Kết luận là lập độ số hà đồ theo hướng là thời gian là không đúng ngay từ phương pháp.

1 - Không phải là "Một số học giả đưa ra lý giải cho độ số Hà Đồ là dựa theo hướng xuất hiện của các hành tinh trên bầu trời và giờ xuất hiện của nó". Mà là có hẳn một tài liệu cổ được phát hiện viết về điều này. Nếu không có tài liệu này thì cho đến ngày nay cũng chẳng ai biết Hà Đồ từ đâu mà ra. Tính đến ngày hôm nay, đã có hơn 150 đầu sách trên khắp thế giới viết về Hà Đồ - trong đó chủ yếu là các nhà nghiên cứu Hán từ hơn 2000 năm qua - (Cuốn "Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt" của tôi - nhân danh quyền tác giả - không xếp hạng chung với hơn 150 đầu sách này, tính đến ngày hôm nay. Tất cả các nhà nghiên cứu sau tôi viết về Hà Đồ mà xếp hạng chung cuốn của tôi với các sách khác cùng loại, đều không có giá trị).

Bởi vậy, Nhật Tâm viết như vậy có phần gây hiểu nhầm. Chỉ có mình tôi thôi. Chẳng có "một số" nào hết. Giáo sư Lê Văn Quán chỉ giới thiệu tài liệu này, chứ không xác định nó là bản chất của Hà Đồ.

2 - Tôi đã kiếm chứng mối liên hệ của các hành tinh được đặt tên theo Ngũ Hành với vị trí mặt trời, mặt trăng và phương vị liên quan đến từng hành tinh theo tài liệu - có hình minh họa xác định trong cuốn sách của tôi.

Mối quan hệ này - (Mặt trời, mặt trăng - hành tinh định tính Ngũ hành) - xác định nội dung của Hà Đồ, chứ không phải chỉ bao gồm một yếu tố duy nhất là định tính ngũ hành của hành tinh đó như Nhật Tâm miêu tả trong bài viết này:

Bất hợp lý thứ hai là người viết đang ở Mỹ, khá gần bắc cực nên vào mùa hè mặt trời lặn muộn 10h tối mới thấy sao Kim, 2-3 giờ sáng vẫn còn thấy sao kim. Vậy gán cho sao Kim độ số 4 và 9 như ở Việt Nam thì chắc chắn không ổn. Ngay cả hướng của sao Kim cũng chẳng phải là hướng tây mà ở hắn hướng bắc. Việc đánh số Hà Đồ dựa theo hướng và thời gian sẽ đưa tham số hướng và thời gian vào công thức âm dương ngũ hành.

Và sau đó kết luận một cách võ đoán:

Hậu quả là nó sẽ mất đi quy luật bao quát trong vũ trụ (do thêm tham số hướng); mất khả năng tiên tri (do có tham số thời gian). Kết luận là lập độ số hà đồ theo hướng là thời gian là không đúng ngay từ phương pháp.

Tính chất võ đoán và sai lầm của kết luận này là:

"Do thêm tham số hướng" làm "mất khả năng tiên tri (do có tham số thời gian)" . Nhưng phương vị (Tính không gian) và tính thời gian lại quyết định khả năng tiên tri một sự việc nào đó xảy ra - phải có không/ thời gian của sự hình thành sự việc đó. Do đó, đây là sai lầm lớn nhất của Nhật Tâm.

3 - Sự sai lầm có tính nguyên lý của Nhật Tâm khi phủ định Hà Đồ sẽ dẫn tới sự phủ định toàn bộ kết luận của chính Nhật Tâm khi xác định cội nguồn Lý học thuộc về văn minh Lạc Việt. Tôi lưu ý rằng: Nó chỉ có giá trị sụp đổ với luận cứ của Nhật Tâm, chứ không có giá trị với hệ thống luận cứ của tôi. Đó là một trong những lý do mà tôi đã nói rằng:

Theo tôi - chưa xem kỹ, nên tạm thời có nhận xét sơ bộ như sau:

Bài viết chưa đủ sức thuyết phục Kinh Dịch là của Việt Nam. Có một số sai lầm có tính nguyên tắc có thể phá hỏng toàn bộ hệ thống chứng minh cho luận điểm. Thí dụ:

- Vẫn coi văn minh Văn Lang - Hùng Vương chỉ giới hạn ở đồng bằng sông Hồng. Đây là sai lầm có tính chủ đạo.

- Có nhiều ý kiến rất có giá trị học thuật - mặc dù chỉ mang tính cục bộ - có thể bổ sung cho luận điểm của tôi.

Tôi sẽ phân tích kỹ hơn, khi có thời gian.

4 - Nhật Tâm đã thừa nhận không hiểu sâu về Kinh Dịch ngay trong bài viết. Bởi vậy sai lầm này tôi cần lưu ý Nhật Tâm khi nghiên cứu về Kinh Dịch là:

Nguyên nhân là nếu làm việc đó thì Kinh dịch chỉ đúng cho trên mặt đất (do có tham số hướng) và cho khu vực khảo sát đó thôi.

Có thể do chưa hiểu về Kinh Dịch nên Nhật Tâm phát biểu như vậy. Kinh Dịch là nói chung - Nhưng cụ thể là cuốn Chu Dịch (Cách hiểu của tôi nguyên tác tên là "Lạc thư Chu dịch". Tức là sách của người Lạc Việt viết về chu kỳ tuần hoàn của vũ trụ). Nội dung chủ yếu của cuốn này chỉ nói về những qui luật vận động của vũ trụ liên hệ với địa cầu. Và trong cuốn này nguyên lý căn để của nó là Hậu Thiên bát quái - và - chí có Hậu Thiên Bát quái liên hệ với Hà Đồ. Bởi vậy, khi dùng khái niệm "Kinh dịch chỉ đúng cho trên mặt đất" là một cách hiểu sai về khái niệm. Vì "Kinh Dịch" bao gồm cả "Tiên thiên bát quái" và sau này ứng dụng trong Mai Hoa Dịch được công bố vào đời Tống. Bởi vậy nên không có giá trị phản biện.

Còn tiếp

-------------------------------------------

PS: Tôi rất bận. Nên phải thật rảnh mới viết được. Hy vọng các thành viên sẽ không chen ngang khi bài viết chưa hoàn chỉnh.

3 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đoạn tiếp theo Nhật Tâm viết:

- Điều quan trọng nhất là Kinh dịch đến nay vẫn chứng tỏ giá trị của nó bằng sự phù hợp với khoa học thực nhiệm hiên đại và các quy luật khách quan. Điều đó chứng tỏ nó không thể được xây dựng từ một nền tảng nhận thức không đúng (địa tâm) với thực tế khác quan (Nhật tâm). Một lý thuyết xây dựng từ một nhật thức không đúng thì tất sẽ chỉ có thể giải thích một số hiện tượng, sự việc nào đó trong một phạm vi nhất định chứ không thể đúng cho toàn bộ cho cả tầm vi mô và vĩ mô được. Nó tất sẽ gặp khó khăn lớn trong việc lý giải các hiện tượng hiện hữu chứ chưa kể đến việc có khả năng tiên tri (dự báo).

Với những điểm bất hợp lý như trên người viết dám khẳng định chắc chắn rằng:

- Hán tộc ở Trung Hoa không phải là chủ thể sáng tạo ra Kinh Dịch.

- Thuyết địa tâm không phải là nền móng cho Kinh Dịch mà là thuyết Nhật tâm.   

Sự thật thì người Trung Hoa “nhập khẩu” Kinh Dich về nhưng họ không hiểu về văn hóa hoặc không thể vì một sách mà thay đổi quan niệm “ta đây là trung tâm vũ trụ” để theo thuyết nhật tâm. Hậu quả là qua hơn hai nghìn năm. Qua chưa có ai lý giải nổi một cách rõ ràng và có cơ sở khoa học, cơ sở thực tế những khúc mắc về cơ sở luận, phương pháp luận của Kinh dịch (vd: Hà đồ từ đâu ra, nó có liên quan gì đến vũ trụ; tại sao lại giải nghĩa quẻ như tiền nhân, tại sao Hà đồ thì có ngũ hành mà trong quả số chỉ độc mỗi âm dương?.v.v.) Tất cả chỉ là những lý giải học thuật mang tính chất suy luận cá nhân.

Trong đoạn này có một ưu điểm như sau cần phát huy:

- Điều quan trọng nhất là Kinh dịch đến nay vẫn chứng tỏ giá trị của nó bằng sự phù hợp với khoa học thực nghiệm hiên đại và các quy luật khách quan. Điều đó chứng tỏ nó không thể được xây dựng từ một nền tảng nhận thức không đúng (địa tâm) với thực tế khách quan (Nhật tâm). Một lý thuyết xây dựng từ một nhật thức không đúng thì tất sẽ chỉ có thể giải thích một số hiện tượng, sự việc nào đó trong một phạm vi nhất định chứ không thể đúng cho toàn bộ cho cả tầm vi mô và vĩ mô được. Nó tất sẽ gặp khó khăn lớn trong việc lý giải các hiện tượng hiện hữu chứ chưa kể đến việc có khả năng tiên tri (dự báo).

Điều này hoàn toàn phù hợp với tiêu chí khoa học, nó có tác dụng phản biện sâu sắc với quan niệm phủ nhận văn hóa truyền thống Việt của đám "Hầu hết" và "công đồng" dốt nát, khi giả thuyết của họ "chỉ có thể giải thích một số hiện tượng, sự việc nào đó trong một phạm vi nhất định chứ không thể đúng cho toàn bộ cho cả tầm vi mô và vĩ mô được. Nó tất sẽ gặp khó khăn lớn trong việc lý giải các hiện tượng hiện hữu chứ chưa kể đến việc có khả năng tiên tri".

Nhưng luận điểm này mang tính định hướng đúng, nhưng sẽ không tác dụng, nếu phần minh chứng sai, hoặc chưa thuyết phục, khi kết luận:

Với những điểm bất hợp lý như trên người viết dám khẳng định chắc chắn rằng:

- Hán tộc ở Trung Hoa không phải là chủ thể sáng tạo ra Kinh Dịch.

- Thuyết địa tâm không phải là nền móng cho Kinh Dịch mà là thuyết Nhật tâm.   

Như tôi đã nói ở trên: Lưu Tử Hoa cũng gián tiếp xác định thuyết Nhật Tâm, nhưng không đủ luận cứ để xác định Kinh Dịch ko phải của Trung Hoa.

Đoạn tiếp theo, Nhật Tâm viết:

Sự thật thì người Trung Hoa “nhập khẩu” Kinh Dich về nhưng họ không hiểu về văn hóa hoặc không thể vì một sách mà thay đổi quan niệm “ta đây là trung tâm vũ trụ” để theo thuyết nhật tâm. Hậu quả là qua hơn hai nghìn năm. Qua chưa có ai lý giải nổi một cách rõ ràng và có cơ sở khoa học, cơ sở thực tế những khúc mắc về cơ sở luận, phương pháp luận của Kinh dịch (vd: Hà đồ từ đâu ra, nó có liên quan gì đến vũ trụ; tại sao lại giải nghĩa quẻ như tiền nhân, tại sao Hà đồ thì có ngũ hành mà trong quả số chỉ độc mỗi âm dương?.v.v.) Tất cả chỉ là những lý giải học thuật mang tính chất suy luận cá nhân.

Thì đây chính là điều mà tôi thường nói nhiều lần: Nền tảng tri thức xã hội là cơ sở phát triển một học thuyết - như thuyết Âm Dương Ngũ hành mà văn minh Hoa Hạ không có. Chính họ không lý giải được những khái niệm và những nguyên tắc, nguyên lý và những quy ước trong phương pháp ứng dụng của học thuyết này, mà họ nhận là của họ.

Đây chính là một trong những yếu tố xác định Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành không phải của người Hoa Hạ và không phải là yếu tố duy nhất.

Còn tiếp

3 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đoạn tiếp theo đây là những yếu tố mà Nhật Tâm xác định là yếu tố cần chứng minh để xác định là chủ nhân của Kinh Dịch:

Vậy thì phải có một nền văn minh khác rực rỡ hơn nền văn minh Trung Hoa tại thời điểm trước công nguyên. Nền văn minh này phải thỏa mãn các điều kiện sau:

- Đã biến mất (nếu không biến mất thì chắc chắn con cháu họ sẽ còn lưu truyền quan niệm Nhật Tâm và sẽ được lịch sử ghi nhận).

- Nền văn minh đó phải ở đủ gần Trung Hoa, vì Trung Hoa đã lấy về dạy cho con cháu hoặc Kinh dịch lưu truyền qua Trung Hoa và có tương tác nhất định.

- Nền văn minh đó phải là văn minh lúa nước bởi lẽ nội dung các quẻ trong Kinh Dịch tỏ rõ sự liên hệ với văn minh nông nghiệp lúc nước.

- Điều kiện lớn nhất là nền văn minh này phải có quan niệm Nhật Tâm để hội đủ yếu tố tạo nên Kinh Dịch.

Qua cách những phân tích nói trên có thể thu hẹp lại là chỉ có tộc người Bách Việt sống ở bờ Nam sông Dương Tử phù hợp với 3 Tiêu trí trên.Các dân tộc bách việc có thể đứng ra chứng minh để nhận tác quyền hoặc có khả năng tác quyền là của chung dân tộc Bách Việt.

Nhưng, Nhật Tâm cần lưu ý rằng: Bản chất Kinh Dịch với bát quái là nhân tố chủ đạo, chỉ là một bộ phận cấu thành trong toàn bộ thuyết Âm Dương Ngũ hành. Bởi vì: Bát quái chỉ là những kỳ hiệu phi ngôn ngữ, nên tự nó không thể có ý nghĩa nếu không có những khái niệm ngôn ngữ miêu tả nội dung của nó. Những ký hiệu này có thể dùng dự báo chứng tỏ nó phải thể hiện một quy luật qua ký hiệu đó. Hay nói một cách khác cụ thể hơn: Nó chính là ký hiệu - siêu công thức - mô tả cô đọng nhất nội dung của một học thuyết mà nó thể hiện. Đó chính là thuyết Âm Dương Ngũ hành. Bởi vậy, việc đặt vấn đề Kinh Dịch của Việt tộc sẽ chỉ là một yếu tố ban đầu, chưa hoàn chỉnh của cả một lý thuyết đồ sộ đằng sau nó là thuyết Âm Dương Ngũ hành. Tuy nhiên, chúng ta cần bước ban đầu này. Đây cũng chính là điều tôi đã làm khi viết cuuốn "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch". Nhưng sẽ là điều không hoàn chỉnh, nếu không tiếp tục, phát triển những minh chứng có tính hệ thống của việc minh chứng thuyết Âm Dương Ngũ hành thuộc về Việt tộc. Do đó, những cuốn sách tiếp theo của tôi đã lần lượt ra đời để tiếp tục minh chứng điều này: Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam, Hà Đồ trong văn minmh Lạc Việt và đỉnh cao của nó chính là tiểu luận:"Định mệnh có thật hay không?" - và còn một tựa khác xác định rõ hơn: "Thuyết Âm Dương Ngũ hành - Lý thuyết thống nhất vũ trụ". Bởi vậy, đã có người đi trước làm điều này, Nhật Tâm hãy tập trung trí lực để triền khai và tiếp tục phát huy - nếu thật tâm vì nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử.

Tôi viết những điều này cho thấy những điều kiện mà Nhật Tâm đưa ra hoàn toàn chưa đủ tầm để minh chứng về bản chất của một tri thức vô cùng vĩ đại và đồ sộ, bao trùm lên mọi lĩnh vực của vũ trụ này, trong đó có cả mọi vấn đề của nhân loại - Khi mà Nhật Tâm chỉ đặt v/d so sánh Kinh Dịch với thuyết Nhật tâm, một nhận thức rất sơ khai của nhận thức vũ trụ so với tri thức nhân loại hiện nay và điều kiện của nền văn minh tạo ra nó cũng chỉ tương đương thời Trung cổ:

.- Nền văn minh đó phải là văn minh lúa nước bởi lẽ nội dung các quẻ trong Kinh Dịch tỏ rõ sự liên hệ với văn minh nông nghiệp lúc nước.

- Điều kiện lớn nhất là nền văn minh này phải có quan niệm Nhật Tâm để hội đủ yếu tố tạo nên Kinh Dịch.

Những điều kiện này không đủ tầm để minh chứng bản chất của kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành; nó sẽ dẫn đến sai lầm có tính nguyên lý căn để trong phương pháp luận.

Còn tiếp

2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bây giờ chúng ta xem xét bằng chứng mà Nhật Tâm nêu ra để minh chứng Kinh Dịch thuộc về Việt tộc.

I - Trống đồng

Qua cách những phân tích nói trên có thể thu hẹp lại là chỉ có tộc người Bách Việt sống ở bờ Nam sông Dương Tử phù hợp với 3 Tiêu trí trên.Các dân tộc bách việc có thể đứng ra chứng minh để nhận tác quyền hoặc có khả năng tác quyền là của chung dân tộc Bách Việt.

Tuy nhiên chúng ta, con cháu của 18 đời vua Hùng hiện đang có 2 bằng chứng lich sử không thể tranh cãi cãi bởi nó đã được thừ nhận có từ đời các vua Hùng một là vật thể còn một là phi vật thể đó là Trống đồng Đông Sơn và truyền thuyết bánh trưng, bánh dày.

3.2. Bằng chứng vật thể

Trống đồng Đông Sơn đã có từ lâu. Đó là báu vật của văn hiến Văn Lang còn truyền lại được đến ngày nay. Theo lẽ thường tình thì trên đó phải được trân trọng khắc ghi ở dạng đơn giản tiến bộ vĩ đại nhất của nền văn minh đó. Đó chính là tiến bộ trong quan niệm Nhật tâm của dân tộc ta. Trống đồng có đặc điểm dù to hay nhỏ, thấp hay cao hoa văn cầu kỳ hay tinh xảo… tất cả đều có khác một hình mặt trời ở giữa!!! Đây chính là vật chứng hoàn hảo cho điều kiện cuối cùng là phải có quan niệm Nhật Tâm để hội đủ yếu tố tạo nên Kinh Dịch.

Văn minh thời các vua Hùng là văn minh lúc nước, đương nhiên là có coi trọng mặt trời. Trong nông nghiệp thì trời và đất đều quan trọng. Nhưng tại sao lại quá coi trọng yếu tố trời vậy? Nhất là nếu có quan niệm địa tâm thì tại sao lại chỉ có mặt trời được khắc ghi trên trống đồng vậy?

“Chúng tôi rất kính phục và cảm ơn các nhà khảo cổ Tây phương (cần đặc biệt chú ý chi tiết này-người viết)nhất là ở trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp, để rất nhiều năm tháng và tâm tư cùng đem những sử học, mày mò, khảo sát, suy luận và giả thiết. Các vị ấy đã viết nên cả những bộ sách lớn khiến trống đồng trở thành một vật nổi tiếng trên Thế Giới. Nhờ các vị mà rất đông những nhà học giả của nước chúng tôi khi đề cập đến di sản văn hoá này cũng đã khiến được cho quần chúng bình dân biết đại khái rằng ngày xưa các bộ lạc của tổ tiên mình thờ vật tổ là con chim tên là Lạc, thờ thần mặt trời ( vì hình vẽ ở trung tâm mặt trời loé ra nhiều tia sáng),lại có những hình người đội mũ cánh chim, mặc áo xòe ra như lông cánh chim, rồi có cả mắt chim ở đầu mũi thuyền, đầu mũi tên, trên mái chèo, bánh lái thuyền, …” {13}

Như vậy các học giả phương tây đã khẳng định đó hình ở giữa là mặt trời. Vậy hãy chú ý 6 vòng hoa văn có hình tương tự sau đây.

Có tất cả 6 vòng trong như vậy. Tượng trưng cho quỹ đạo 6 hành tinh quay quanh mặt trời (Thủy, Kim, Trái Đất, Hỏa, Mộc, Kim – Thời đó có thể chỉ biết được 6 bởi vì 5 hành tinh- không kể trái đất có - thể dễ dàng quan sát bằng mắt thường) Vòng thứ 3 từ trong ra chính là tượng trưng cho quỹ đạo của trái đất. Tất cả mọi hoạt động sản xuất cui chơi của con người, muông thú đều xoay quanh mặt trời. Như vậy quan niệm Nhật Tâm chẳng phải quá rõ ràng rồi sao. Đây chính là tiến bộ vượt thời đại và vĩ đại của thời đại Hùng Vương.

Một lần nữa cần phải khẳng định rằng Kinh dịch là sản phẩm khởi nguồn từ nền văn hiến Văn Lang và hình thành trên cơ sở thuyết Nhật Tâm.

Nhật Tâm lưu ý rằng:

Trồng đồng chính là di sản văn hóa vật thể của nền văn minh Việt tộc - Không chỉ tìm thấy ở lãnh thổ Việt Nam hiện nay, mà chủ yếu ở đồng bằng Bắc Bộ, mà còn ở khắp miền nam sông Dương Tử với các quốc gia lân cận, như: Đài Loan, Nhật Bản, Indonesia, Phi luật tân, Thái Lan và cả vùng cao nguyên Nam Bộ...vv....Bởi vậy, nó cần một một hệ luận minh chứng một cách hợp lý toàn bộ hiện tượng này. Đây chính là một yếu tố quan trong của một giả thuyết khoa học được coi là đúng. Nó không thể giải thích một cách phiến diện hiện tượng trống đồng chỉ ở Đông bằng Bắc bộ. Nhật Tâm cũng đã nhân thức được về nguyên tắc điều này, khi viết ở trên:

Một lý thuyết xây dựng từ một nhận thức không đúng thì tất sẽ chỉ có thể giải thích một số hiện tượng, sự việc nào đó trong một phạm vi nhất định chứ không thể đúng cho toàn bộ cho cả tầm vi mô và vĩ mô được. Nó tất sẽ gặp khó khăn lớn trong việc lý giải các hiện tượng hiện hữu chứ chưa kể đến việc có khả năng tiên tri (dự báo).

Nhưng Nhật Tâm lại không đặt ra vấn đề này mà sau đó - Đoạn dưới còn viết: "Văn minh sông Hồng" là một sai lầm.

Trên đây, tôi đã đề cập đến hiện tượng di sản khảo cổ vật thể ở khắp địa bàn Nam Dương tử và các vùng lãnh thổ hiện đại của các quốc gia liên quan, trong đó chủ yếu là Việt Nam. Điều này là một yếu tố quan trọng về những giá trị của ngành khảo cổ minh chứng cho một sự liên quan đến tính thống nhất về một nền văn hóa cổ phi Hán ở Nam Dương Tử và Việt Nam hiên nay. Và tất nhiên đó chính là một trong những bằng chứng sắc sảo xác định nền văn hiến Việt một thời bao trùm miền nam sông Dương tử. Bằng chứng này còn được hỗ trợ và xác định bởi những văn bản lịch sử cổ liên quan.

Bây giờ tôi phân tích đến phương pháp minh chứng của Nhật Tâm khi nói đến các chi tiết trên trống đồng:

Sự chứng minh này, tương tự như phương pháp của nhà nghiên cứu Nguyễn Thiếu Dũng và không ít các học giả khác. Sự minh chứng này thực chất là một cách giải mã những họa tiết bí ẩn trên trống đồng. Nhưng - bản thân tôi luôn xác định rằng:

Tôi không bao giờ coi sự giải mã những di sản văn hóa là bằng chứng khoa học cho luận điểm của tôi minh chứng Việt sử 5000 năm văn hiến. Ít nhất trong lúc này.

Bởi vậy, trong tất cả các tiểu luận và các sách đã xuất bản của tôi rất ít, gần như không có những giải mã các họa tiết trên trống đồng. Trong khi đó, Nhật Tâm chỉ nói lên một điều về thuyết Nhật tâm do xác định mặt trời ở giữa. Mà thuyết Nhật tâm, chỉ là một tri thức sơ khai, không đủ để hình thành nên những giá trị liên quan đến kinh Dịch - tôi đã nói điều này ở trên.

Ở một khía cạnh nào đó, tôi cũng có thể đồng ý sự cảm ơn các học giả Tây Phương nghiên cứu về trống đồng Việt tộc, nhưng đó không phải là luận cứ chứng minh cho Kinh Dịch thuộc về Việt tộc.

Còn tiếp

3 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nhật Tâm thân mến.

Đặc biệt phương pháp minh chứng của đoạn bằng chứng phi vật thể hoàn toàn sai lầm. Nó chủ yếu là giải mã những hiện tượng nhận thức được. Đây là điều mà tôi đã nói ở bài trên:

Tôi không bao giờ coi sự giải mã những di sản văn hóa là bằng chứng khoa học cho luận điểm của tôi minh chứng Việt sử 5000 năm văn hiến. Ít nhất trong lúc này.

Tại sao lại "ít nhất trong lúc này"? Bởi vì, trí thức của nhân loại hiện đại chưa có tiêu chí cho một sự giải mã được coi là đúng. Chỉ sau này, khi nền văn minh của nhân loại phát triển, những lý thuyết khoa học lần lượt ra đời. Tự thân những lý thuyết đó phải có một cấu trúc hợp lý trong nội dung phù hợp với tiêu chí khoa học. Lúc ấy nó sẽ là nền tảng căn bản để phát triển một tiêu chí cho sự giải mã. Lúc ấy, tự thân những giải mã của tôi sẽ được coi là đúng. Nhưng từ nay đến lúc ấy cần ít nhất 50 năm nữa.

Điều này cũng như tri thức khoa học hiện đại phải phát triển đến một giai đoạn thích hợp nào đó, nó mới đủ tầm để nhận thức được những bí ẩn của tri thức cổ Đông Phương mà chính nó một thời bị những tư duy nhân danh khoa học coi là huyền bí và "mê tín dị đoan".

Sự phát triển của tự nhiên, cuộc sống sẽ khiến nòng nọc trở thành cóc và về với mẹ Cóc.

(Giải mã chuyện Trê Cóc).

Đó là lý do mà tôi cho rằng toàn bộ sự giải mã của Nhật Tâm dưới đây không đủ sức thuyết phục , vì nó mang tính giải mã theo cách nhìn riêng của người quan sát. Nó sẽ không được công nhận.

3.3. Bằng chứng phi vật thể

Truyền thuyết bánh Chưng, bánh dày nói rõ là từ đời vua Hùng vương thứ 6, và do hoàng tử Lang Liêu tạo nên. Cách giải nghĩa bánh Chưng, bánh dày là trời tròn đất vuông là không đúng, đó là do ảnh hưởng của Trung Quốc (theo một số tác giả như Nguyễn Vũ Tuấn Anh đã nêu ra). Thực chất khi có quan niệm Nhật tâm, và có Kinh Dịch thì không thể còn nghĩ đất vuông được. Bánh Chưng đúng là tượng trưng cho đất so với trời là bánh dày. Hình vuông là thể hiện cho Hà đồ, trong đó chứa đựng ngũ hành. Vuông tròn thể hiện âm dương . cặp bánh như muốn nhắn nhủ con cháu về thành tựu vĩ đại của nên văn hiến Văn Lang vậy: Muốn hiểu rõ được trời đất thì sửa dụng Hà Đồ (tượng giống bánh trưng) và phải nắm rõ âm dương ngũ hành. Hiểu như vậy mới đúng.

Sự tích Lang Liêu dâng bánh Chưng, bánh dày nhân dịp mừng thọ vua cha - Hùng vương thứ 6. Như vậy Kinh Dịch và quan niệm nhật tâm đã tồn tại ở nước ta từ rất sớm. Có lẽ phải trước Copernic (1473 – 1543) tối thiểu 3000 năm !!!

Vậy ta thử xem có cách gì lý giải hoa văn trên đây không và liệu có hợp lý để xem cho ông nhắn nhủ gì trên trống đồng. Đương nhiên là lý giải phải hợp lý và ra thông điệp thì mới thuyết phục và logic:

- Vòng ngoài: 18 con chim Lạc tượng trưng 18 đời vua Hùng.

- Vòng 2: 6 con chim lạc, 10 con nai, 8 con chim lạc, 10 con nai.

- Vòng 3:

Có 12 người mặc quan phục. Hãy bắt đầu từ 6 người đội mũ phía trên của ảnh hình trống đồng (người đi đầu cầm chiếc giáo dài)

Người đi sau cùng không có que, bị mờ đi tạo cảm giác bị mất đi. 5 người cầm que người cuối cùng không có tạo thành quẻ Thiên trạch quải 5 hào dương 1 hào âm: nghĩa là nứt vỡ (Tăng lên đến cùng cực thì tới lúc tràn đầy, nứt vỡ nên sau quẻ Ích tới quẻ Quải. Quải có nghĩa là nứt vỡ, lại có nghĩa là quyết liệt) {12}

Xét hình 6 người khác trên mặt trống đồng.

Người đi sau cùng lại có cầm que là được khắc nét. 6 người vẫn cầm que cầm gậy, người cuối cùng hiện trở lại sẽ tạo thành quẻ Càn (6 hào dương): “được quẻ này thì rất tốt, hanh thông, có lợi và tất giữ vững được cho tới lúc cuối cùng.” {12}

Vậy có thể hiểu thông điệp là là văn minh của triều đại 18 vua Hùng sau khai lập và phát triển rực rỡ bị “đổ vỡ” nhưng vẫn giữ vững được cho tới cuối cùng. Hiểu như vậy liệu có bị coi là quá áp đặt và vô căn cứ? Chú ý là người đi đầu không còn câm cây giáo dài và người ở sau có dáng dấp khác hẳn 5 người trước. Dáng to cao hơn (giống người tây), mũi to (mũi tây) bước chân lạc điệu (không hơp phong tục nên sai nhạc). Như vậy là nền văn minh được phục hồi bởi hậu thế là người nước ngoài (Người Pháp đã nghiên cứu và viết sách về trống đồng Đông sơn làm cho nó nổi tiếng cả thế giới).

Phân Loại Trống Đồng Bên Tây Âu có dấu vết đã biết về trống đồng từ năm 1682 (xem Asie du Sud Asiatique, Tome II Le Vietnam, L. Bezacier, Paris, Picard 1972). Nhưng mãi tới cuối thếkỷ 19 mới có học giả bàn về trống đồng như Hirth (1890) mà ông cho là bởi Tầu. Rồi De Grooth (1901) cho là của Việt Tộc. Ông Franz Heger, một học giả người Đức làm cố vấn trong hội nghị nghiên cứu về Viễn Đông ở Hà Nội năm 1902 đã cho xuất bản tại Leipzig 2 quyển về trống đồng cổ ở Đông Nam Á. Sách in khổ lớn, có 45 hình và một bản mục lục về tất cả các diễn đề. Ông Heger chống lại ý kiến của Hirth cho trống đồng là sản phẩm của Tầu, ủng hộ ý kiến của Grooth cho là của Việt Tộc, quả quyết trung tâm các cuộc tìm kiếm sau này về trống đồng phải là ở Bắc Việt, và xin người Pháp chú ý đến di vật đầy tính chất văn hóa này. Ông Heger phân chia 165 chiếc trống được biết đến lúc ấy thành 4 loại. {14}

Vậy tiền nhân dự đoán thời gian từ khi dựng nước đến lúc được người tây “phục hồi” lại là bao lâu: từ các con số của vòng tròn thứ 2:

6*10*8*10 = 4800 năm.

Một con số thật nhiều ý nghĩa trùng với nhiều ý kiến vẫn cho rằng nước ta có gần 5000 năm lịch sử. (Học giả Thiên Sứ aka Nguyễn Vũ Tuấn Anh cho là thời vua Hùng bắt đầu từ khoảng 2879 trước công nguyên).

Trống đồng được cho là của dân tộc Việt và được người tây nghiên cứu xuất bản thành sách 1902 như vậy là 4800 năm trước là năm 2898 trước công nguyên. Lệch chỉ có 19 năm so với mốc 2879!!!

Như vậy là các vị vua Hùng nhờ Dịch học đã tiên đoán trước sự đổ vỡ của triều đại nên đã chuẩn bị sẵn phương án đối phó và lưu giữu trên trống đồng. Các vị đã biết trước trước được người phương tây sẽ bắt đầu tìm hiểu và nghiên cứu vẩ nó đồng thời dự đoán cả mốc thời gian.

Hai bằng chứng trên đây về trống đồng và bánh Chưng, bánh dày cùng với rất nhiều nhiều phát kiến của các học giả (xem mục1.5) đã cho thấy một nền văn minh vĩ đại đang dần được nhận diện và phục dựng.

Tuy nhiên, tôi đã nói rằng: Chỉ vào - bây giờ - tôi mới chưa coi sự giải mã là bằng chứng khoa học. Nhưng sau này, khi tôi không còn hiện hữu trên thế gian này nữa - thì chính sự phát triển của tri thức khoa học sẽ xuất hiên tiêu chí cho tính giải mã được coi là đúng. Bởi vậy, khi tôi về nhà (Hiện tôi đang ở xa - sẽ tập hợp và bổ sung toàn bộ những hiện tượng và sự kiện trong văn hóa truyền thống Đông phương đã giải mã, đồng thời nêu lên phương pháp giải mã để thế nhân sau này xem xét.

------------------------------------------------

PS: Nhật Tâm lưu ý:

Từ "Bánh Chưng, bánh Dầy" - không nên viết là "Bánh Trưng. bánh Giày" - Đây là một cách viết theo đề nghị xuất phát từ một tư duy nông cạn, khoác áo giáo sư và được một số báo chí ủng hộ - tờ Tuổi Trẻ - tờ đầu tiên đăng bài của người mang học vị giáo sư này..

Đây là sự xúc phạm nghiêm trọng đến với linh vật của tổ tiên để lại.

Khi so sánh linh vật của tổ tiên với "cái Giày" đi chân. Tôi sẽ sửa tất cả những từ liên quan trong bài viết của Nhật Tâm. Nhà nước chưa có văn bản qui đinh bắt buộc phải viết theo kẻ khoác áo học giả kia. Nên chúng ta cứ viết theo truyền thống. Không phạm pháp đâu mà sợ.

3 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nhật Tâm thân mến.

Với những luận cứ mà Nhật Tâm đưa ra và tôi đã phân tích ở trên thì nó hoàn toàn chưa đủ tầm để chứng minh Kinh Dịch là của Việt tộc. Bởi vậy, Nhật Tâm vẫn mắc những sai lầm rất căn bản khi kết luận như sau trong bài viết:

KẾT LUẬN

Tóm lại theo quan điểm của người viết:

- Việt Nam có khoảng 4900 năm lịch sử.

- Quan niệm vũ trụ quan thời Hùng Vương là quan niệm Nhật tâm.

- Kinh dịch là sản phẩm sáng tạo của dân tộc Việt Nam.

- Âm dương ngũ hành cũng là sản phẩm sáng tạo của dân tộc Việt Nam.

Với một trình độ phát triển cao như vậy, người viết tin chắc nền văn minh thời các vua Hùng Phải có đầy đủ các đặc điểm sau (có dựa theo các tài liệu tham khảo):

- Là một nhà nước độc lập.

- Có nền văn hóa đặc sắc.

- Có văn tự, chữ viết.

- Có luật lệ rõ ràng.

- Có một nền giáo dục mạnh.

Mặc dù người viết tự thấy những phân tích, chứng minh của mình chưa phải tất cả đã chặt chẽ do trình độ hiểu biết còn hạn chế. Tuy nhiên người viết tự tin là mình đã đi đúng hướng trong việc tiếp cận các vấn đề đưa ra và trong các kết luận của mình. Người viết nghĩ rằng đã đến lúc dân tộc ta có quyền tự hào nói rằng dân tộc mình đã có một thời kỳ phát triển huy hoành và tiến bộ nhất trong lịch sử nhân loại. Nền văn minh của chúng ta này đã đạt tới đỉnh cao với quan niệm Nhật Tâm (trước phương tây 3000 năm) và hiện còn để lại tác phẩm Kinh Dịch là đỉnh cao của khoa học dự báo và là công thức khoa học siêu vũ trụ có thể lý giải quán thông các hiện tượng từ vĩ mô đến vi mô.

Nền văn minh vĩ đại như vậy khiến nó không thể bị vùi lấp bởi lịch sử hay “ngủ quên” lâu hơn được nữa. Dân tộc ta cần phải hợp sức để đưa nền văn minh sông Hồng của chúng ta về vị trí vốn có trong sự phát triển chung của nhân loại.

Một trong những sai lầm mang tính nguyên lý và sẽ rất dễ bị sụp đổ khi Nhật Tâm viết:

đưa nền văn minh sông Hồng của chúng ta về vị trí vốn có trong sự phát triển chung của nhân loại.

Nhật Tâm thân mến.

Tôi đã nhiều lần phát biểu một tiêu chí khoa học cho mọi giả thuyết nhân danh khoa học rằng:

Một giả thuyết khoa học được coi là đúng, nếu nó giải thích được hầu hết những hiện tượng và vấn đề liên quan đến nó một cách hợp lý, mang tính hệ thống, tính nhất quán, tính khách quan, tính quy luật và khả năng tiên tri.

Thực chất của cái gọi là "Văn minh sông Hồng" chính là sản phẩm của quan điểm phủ nhận những giá trị văn hóa lịch sử truyền thống - Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến - với quan niệm cho rằng: "Thời Hùng Vương chỉ là một nhà nước sơ khai", là "liên minh 15 bộ lạc" với những người dân "ở trần đóng khổ". Tất nhiên quan niệm đó, đúng như Nhật Tâm viết:

Một lý thuyết xây dựng từ một nhật thức không đúng thì tất sẽ chỉ có thể giải thích một số hiện tượng, sự việc nào đó trong một phạm vi nhất định chứ không thể đúng cho toàn bộ cho cả tầm vi mô và vĩ mô được. Nó tất sẽ gặp khó khăn lớn trong việc lý giải các hiện tượng hiện hữu chứ chưa kể đến việc có khả năng tiên tri (dự báo).

Tất nhiên, quan niệm của đám "hầu hết" và "cộng đồng" dốt nát đó, không thể thỏa mãn những điều tối thiểu của tiêu chí khoa học.

Đồng bằng Bắc Bộ là nơi rút lui cuối cùng của giống nòi Lạc Việt khi nền văn minh Nam Dương tử một thời huyền vĩ dưới sự trị vì của dòng họ Hồng Bàng sụp đổ vào năm 258 BC, ở miền nam Dương tử. Nó không phải là cái nôi của nền văn minh Đông phương. Cái nôi đó ở Nam Dương tử, mà giống nòi Lạc Việt đã từng cư ngụ. Nhưng đồng bằng Bắc Bộ và toàn thể đất nước sinh sống của Việt tộc hiện nay, chính là nơi cất giữ chìa khóa của nền văn hóa Đông phương huyền bí.

Nhật Tâm thân mến.

Nếu chúng ta chứng minh Kinh Dịch là của Việt tộc và rộng hơn là toàn bộ thuyết Âm Dương Ngũ hành thì chúng ta sẽ thay đổi nhận thức về vấn đề này của toàn thể nhân loại. Công cuộc này khó khăn vô cùng. Ngay cả khi nó là một vấn đề khoa học thuần túy. Huống chi, nó lại không thuần túy như vậy. Gần đây, có người hỏi tôi: "Ông chứng minh Phong thủy của người Việt nhằm mục đích gì?". Tôi trả lời: "Đó là phương tiện để minh chứng Việt sử 5000 năm văn hiến!". "Vậy ông chứng minh Việt sử 5000 năm văn hiến nhằm mục đích gì?". Câu hỏi đó cho thấy vấn đề rất phức tạp. Do đó, một, hai, hay cả vạn người ủng hộ tôi cũng chỉ mang tính an ủi cho tôi có thêm sức nóng để tiếp tục công việc của mình. Bởi chân lý không lệ thuộc vào số đông. Sẽ chẳng có nghĩa lý dì, nếu những luận cứ minh chứng cho Việt sử 5000 năm văn hiến không đủ tính hợp lý khoa học, theo tiêu chí của nó.

Tôi vẫn cô đơn với phương pháp luận của mình.

Nhưng tôi hy vọng, từ từ, những trí giả uyên bác thực sự sẽ hiểu ra vấn đề và những thế hệ kế tiếp sẽ tiếp tục. Những điều tôi viết ra đã được phổ biến trên mạng. Đó là những thành tựu cuối cùng và chưa phải là kết luận cuối cùng cho một lý thuyết thống nhất vũ trụ. Tôi có quyền hy vọng. Di ấn của tổ tiên người Lạc Việt để lại đã giúp tôi tin rằng sẽ đến ngày vinh quang của nền văn hiến Việt.

Cảm ơn Nhật Tâm đã tín nhiệm tôi với đề nghị tôi tham gia nhận xét bài viết này.

5 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bác Thiên Sứ kính mến,

Cháu rất vinh dự khi được bác nhiệt tình viết bài phản biện (mặc dù bác đang bận nhiều việc khác). Các ý kiến phản biện của bác giúp cháu hiểu rõ vấn đề hơn rất nhiều.

Khi cháu bắt đầu tìm thông tin về các hành tinh trên và tính toán để viết bài này, mục đích hoàn toàn là tìm tìm một cách giải thích hợp lý cho độ số của Hà Đồ và Âm dương trong các Hào của Kinh dịch. Tuy nhiên trong quá trình tính toán cháu đã phát hiện ra những bất cập trong việc lý giải Kinh dịch nếu có quan niệm địa tâm. Do đó cháu đã có ý định tìm ra một hướng riêng để chứng minh nguồn gốc của Kinh Dịch. Tuy nhiên trong quá trình tìm hiểu sâu hơn đích chứng Kinh nguồn gốc Kinh Dịch chỉ còn chiếm khoảng 25% (nhiều nhất cũng là 33%). Cùng với sự chuyển biến đó là sự phát sinh của các vấn đề khác liên quan mà mong muốn chủ đạo là chứng mình quan niệm Nhật tâm đã có từ thời Hùng vương

Cháu xin phép tóm tắt phương hướng của mình để những người khác quan tâm đến mục này dễ dàng nắm bắt được ý tưởng của bài viết.

b1. Đưa ra quan điểm về mối liên hệ giữa Kinh dịch mà quan niệm Nhật tâm.

b2. Phủ nhận quan niệm địa tâm là nền tảng để hình thành Kinh dịch.

b3. Chứng minh quan niệm Nhật tâm là tư tưởng mang tính nền tảng hình thành nên Kinh dịch.

b4. Chứng minh quan niệm Nhật tâm và Kinh dịch là sáng tạo của các triều đại Hùng vương.

b5. Chứng minh lịch sử nước ta gần 5000 năm. (Đâu là vấn đề cháu đề cập rất ít trong tiểu luận vì nó đã vượt quá xa khả năng của cháu – ngay chỉ trong khâu định hướng. Nói cách khác là cháu tự thấy không đủ khả năng để dù là chỉ tìm ra định hướng khả thi cho vấn đề này. Tuy nhiên cháu vẫn đưa vào để người đọc khác có thể thấy điểm kết thúc, cái đích cuối cùng của định hướng).

Thực sự cháu thấy ái ngại vì bác Thiên Sứ đã phải mất nhiều thời gian viết về quá nhiều điểm còn tồn tại trong bài. Thực ra với khoảng thời gian 2 ngày (kể từ khi tính toán lý giải Hà đồ đến khi hoàn thành tiểu luận với nhiều vấn đề mới phát sinh) là rất ngắn để có thể chứng minh một cách thuyết phục những vấn đề phức tạp nêu trên. Mặc dù trong tiểu luận vẫn ghi là "chứng minh" nhưng cháu cũng đoán trước được các kết quả tích cực mà tiểu luận có thể đạt được.

- Thứ nhất: Một vài kiến giải về Hà đồ và Kinh dịch mang tính chất học thuật

- Thứ hai: Có thể có một số quan điểm tốt theo hướng Nhật tâm và Kinh dịch là tinh hoa của thời Hùng vương.

- Thứ ba (đây cũng là điều cháu mong muốn nhất): chỉ ra được một cách tiếp cận khả thi để có thể làm rõ các vấn đề đặt ra. Nói cách khác là một hướng đi mà nếu có đầy đủ tư liệu thì nó sẽ giúp chứng minh được các vấn đề liên quan đặt ra.

Cháu đã nghĩ trước một số trường hợp có thể xảy ra: Bác Thiên sứ hoặc ai đó không đồng tình cho rằng:

- Quan niệm Nhật tâm có từ thời Hùng vương là điều không thể có.

- Địa tâm mới là nền tảng Kinh dịch. Loại bỏ liên hệ giữa quan niệm nhật tâm với Kinh dịch.

Cũng do do lường trước được tính phức tạp của vấn đề và mục tiêu có thể đạt được nên cháu rất hạn mở rộng "động" đến các vấn đề ngoài học thuật đồng thời hạn chế chế trích các bài viết khác hoặc sử dụng các quan điểm của người khác vào tiểu luận của mình (mặc dù biết là làm điều đó sẽ có thể làm cho tiểu luận chặt chẽ hơn).

Có thể nói là tự biết bài của mình còn chưa thuyết phục nhưng cháu cũng vẫn cứ tự tin là đi đúng hướng. Ý nghĩ này có lẽ hơi dân tộc chủ nghĩa quá chăng :mellow:.

Trở lại mong muốn có được một cách tiếp cận khả thi. Cháu đã muốn nó được phản biện bởi. Nếu hướng tiếp cận này được đánh giả là khả thi thì nhiều bạn trẻ theo tây học (vốn ít có điều kiện tìm hiểu sâu văn hóa phương đông) có thể dễ dàng hơn khi tiếp cận vấn đề. Cháu hy vọng khi đọc tiểu luận của cháu và những ý kiến góp ý của bác Thiên Sứ thì các bạn trẻ sẽ quan tâm hơn đến các vấn đề được nêu ra. Họ sẽ tránh được nhiều sai lầm và sẽ có các ý kiến tôt, các quan điểm mới đặc sắc. Đây cũng là lý do cháu viết bài theo một khung có thể gọi là former, tuy nhiên lời văn và diễn đạt trong một số phần cháu vẫn chọn cách viết đặt câu hỏi và diễn giải tuần tự cách nghĩ, cách đặt vấn đề và suy luận của cháu. Nếu chỉ để bác Thiên Sứ phản biện thì thật sự không cần thiết phải diễn giải như vậy.

Theo cách nghĩ của cháu là không ai là người ngoài cuộc cả. Bất kể hiểu biết nhiều hay ít về văn hóa phương đông, chỉ cần có tâm mọi người đều có thể tìm ra một cách đóng góp thiết thực cho việc tìm tìm lại, khôi phục một giai đoạn hào hùng của dân tộc đã bị thời gian và lịch sử vùi lấp. Có thể chỉ đơn giản là động viên và ủng hộ thì cũng đã rất tốt rồi.

Cháu chúc bác Thiên Sứ gặp nhiều thuận lợi và thành công. Bác luôn có 1 phiếu ủng hộ từ cháu :P

Nhật Tâm

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nhật Tâm xin cập nhật và sửa lỗi lại một số lỗi trong bài viết của cháu:

- Đường kính mặt trời gấp 400 lần đường kính mặt trăng (không phải 30 lần như trong tiểu luận, Nhật Tâm đã nhớ không chính xác).

- Nền văn minh Maiya ở nam mỹ đã có quan niệm nhật tâm từ trước công nguyên. Người Maiya thậm chí đã tính được năm dương lịch có 365 ngày. Họ nổi tiếng là những người giỏi toán. Như vậy việc quan niệm nhật tâm đã xuất hiện trước Copercnic rất lâu là một thực tế. Tuy nhiên theo Nhật tâm biết thì ở phương đông cổ đại ít dân tộc có quan niệm này.

Nhật Tâm xin giải thích rõ hơn tại sao khẳng định việc giải thích độ số Hà đồ chỉ dựa trên hướng và thời gian là phương pháp không đúng.

Nếu coi âm dương ngũ hành là công thức siêu vũ trụ ta ký hiệu là hàm

f(A,D,K,M,T,H,Th) (các chữ cái là viết tắt cua các biến âm, dương, kim, mộc, thủy, hỏa, thổ)

Khi áp dụng vào Kinh dịch, người xưa tạo ra Hà đồ. Có thể coi về mặt toán học Hà đồ như một công thức để giải mã vũ trụ (ví dụ chỉ mang tính ước lệ): g(A,D,K,M,T,H,Th).

Tuy nhiên trong quá trình tìm hiểu lý giải độ số của Hà đồ Nhật tâm thấy một số quan điểm lý giải Hà đồ dựa vào quan sát giờ xuất hiện của các ngôi sao trên trời và hướng của chúng để gán độ số. Như vậy Nhật tâm thấy rằng giả sử ta lập hà đồ theo cách lý giải trên, và gán độ số như vậy thì công thức của Hà đồ như sau:

g’(A,D,K,M,T,H,Th / Đ,T,N,B,t)

Công thức vẫn như trên nhưng bị kèm theo điều kiện tham số hướng Đông tây nam bắc và thời gian t.

Nếu coi lý giải vũ trụ là việc giải phương trình hay hệ phương trình có hàm số g(…)/ g’(…) thì kết quả của hai trường hợp là như nhau (trường hợp 1: dùng công thức g(…), trường hợp 2: dùng công thức g’(…))

Tuy nghiệm ra như nhau nhưng khi sử dụng công thức g’(…) ta phải biện luận nghiệm theo tham số vì trong quá trình lập đã vô tình đưa tham số vào. Kết quả là có thể phải loại bỏ bớt nghiệm, hoặc tập hợp nghiệm so với dùng công thức g(…).

Theo quan điểm của Nhật Tâm thì gỉa sủa khi gán độ số 4 và 9 ở hướng tây và mang hành kim thì khi giải ra nghiệm (đoán sự việc) sẽ chỉ đúng cho những địa điểm và những ngày có sao Kim mọc ở hướng tây và mọc vào 4h và 9h (giờ âm). Các ngày khác kết quả vẫn đúng nhưng không được chấp nhận vì theo nguyên tắc ta phải loại nghiệm do quá trình lập đã đưa tham số Đ,T,N,B và t. Trong khi nếu dùng công thức g(…) thì ta giải nghiệm (đoán sự việc) không cần phải loại nghiệm.

Nhật Tâm

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bác Thiên Sứ kính mến,

bài viết trên đây là diễn đạt rõ ràng hơn cách nghĩ của cháu về vấn đề này. Trong tiểu luận cháu ghi phần này ngắn và không đủ ý nên Bác Thiên sứ hiểu nhầm là cháu muốn phê phán, loại bỏ Hà đồ ra khỏi Kinh dịch hoặc khẳng định Kinh dịch chỉ đúng trên mặt đất. Như đã khẳng định, cháu còn chưa thông Kinh dịch, thậm chí còn chưa hiểu hết công dụng Hà đồ để làm những gì. Mặc dù có có nhiều ý kiến của các học giả (kể cả các học giả Trung Quốc) nghi ngờ mối liên hệ giữa Hà đồ và Kinh dịch. Nhưng cháu cho rằng muốn loại bỏ Hà đồ (nếu có) thì việc trước tiên phải hiểu rõ Hà Đồ và Kinh dịch đã. Để đạt được tầm như vậy vượt xa quá nhiều so với khả năng của cháu nên cháu không hề có ý loại bỏ hay phê phán Hà Đồ, Kinh dịch.

cháu chưa có dịp được đọc các sách mà bác Thiên Sứ nhắc tới. Thêm nữa là bài nêu lên quan điểm giữa độ số với các sao(các hành tinh trong hệ mặt trời) mà cháu đã đọc không phải là của Bác Thiên Sứ. Bài đó chỉ đơn thuần nêu ra quan điểm đặt độ số dựa trên hướng và thời gian xuất hiện của các sao liên quan (một cách khá cụ thể). Theo quan điểm của cháu thì bài viết giải thích theo một trường hợp khá cụ thể nên làm mất tính tổng quát của Hà đồ. Chính vì vậy cháu thấy không thuyết phục nên muốn phủ nhận phương thức đó vì nó không chặt chẽ. Như Nhật Tâm đã chỉ ra điểm bất hợp lý về hướng và giờ khi quan sát ở sao xuất hiện ở Mỹ. Nhật tâm cũng đã kiểm chứng qua chương trình astroviwer. Sao Kim xuất hiện cả ở hướng Đông, Đông bắc (tùy vào vị trí quan sát). Chính vì vậy Nhật tâm mới dám khẳng định chỉ dựa vào hướng và thời gian xuất hiện của các sao là cách lý giải không đúng. Theo cách lý giải như vậy một "động tác" quan trọng bắt buộc phải làm là phải lập luận để tổng quát hóa cho mọi trường hợp để loại tham số (việc này rất thực sự rất khó).

Bác Thiên Sứ đã đề cập đến các sách giải thích việc lập Hà đồ theo các sao và phương vị của chúng thì chưa có gì cho thấy việc chứng minh đó có vấn đề cả. Có thể các cách chứng minh có cách tiếp cận tốt không mất đi tính tổng quát, tính vô hướng thì vẫn hoàn toàn tốt.

Nếu có dịp cháu nhất định sẽ tìm hiểu thêm qua về Hà đồ qua các sách mà bác nhắc tới.

Trân Trọng.

Nhật Tâm

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bác Thiên Sứ kính mến,

bài viết trên đây là diễn đạt rõ ràng hơn cách nghĩ của cháu về vấn đề này. Trong tiểu luận cháu ghi phần này ngắn và không đủ ý nên Bác Thiên sứ hiểu nhầm là cháu muốn phê phán, loại bỏ Hà đồ ra khỏi Kinh dịch hoặc khẳng định Kinh dịch chỉ đúng trên mặt đất. Như đã khẳng định, cháu còn chưa thông Kinh dịch, thậm chí còn chưa hiểu hết công dụng Hà đồ để làm những gì. Mặc dù có có nhiều ý kiến của các học giả (kể cả các học giả Trung Quốc) nghi ngờ mối liên hệ giữa Hà đồ và Kinh dịch. Nhưng cháu cho rằng muốn loại bỏ Hà đồ (nếu có) thì việc trước tiên phải hiểu rõ Hà Đồ và Kinh dịch đã. Để đạt được tầm như vậy vượt xa quá nhiều so với khả năng của cháu nên cháu không hề có ý loại bỏ hay phê phán Hà Đồ, Kinh dịch.

cháu chưa có dịp được đọc các sách mà bác Thiên Sứ nhắc tới. Thêm nữa là bài nêu lên quan điểm giữa độ số với các sao(các hành tinh trong hệ mặt trời) mà cháu đã đọc không phải là của Bác Thiên Sứ. Bài đó chỉ đơn thuần nêu ra quan điểm đặt độ số dựa trên hướng và thời gian xuất hiện của các sao liên quan (một cách khá cụ thể). Theo quan điểm của cháu thì bài viết giải thích theo một trường hợp khá cụ thể nên làm mất tính tổng quát của Hà đồ. Chính vì vậy cháu thấy không thuyết phục nên muốn phủ nhận phương thức đó vì nó không chặt chẽ. Như Nhật Tâm đã chỉ ra điểm bất hợp lý về hướng và giờ khi quan sát ở sao xuất hiện ở Mỹ. Nhật tâm cũng đã kiểm chứng qua chương trình astroviwer. Sao Kim xuất hiện cả ở hướng Đông, Đông bắc (tùy vào vị trí quan sát). Chính vì vậy Nhật tâm mới dám khẳng định chỉ dựa vào hướng và thời gian xuất hiện của các sao là cách lý giải không đúng. Theo cách lý giải như vậy một "động tác" quan trọng bắt buộc phải làm là phải lập luận để tổng quát hóa cho mọi trường hợp để loại tham số (việc này rất thực sự rất khó).

Bác Thiên Sứ đã đề cập đến các sách giải thích việc lập Hà đồ theo các sao và phương vị của chúng thì chưa có gì cho thấy việc chứng minh đó có vấn đề cả. Có thể các cách chứng minh có cách tiếp cận tốt không mất đi tính tổng quát, tính vô hướng thì vẫn hoàn toàn tốt.

Nếu có dịp cháu nhất định sẽ tìm hiểu thêm qua về Hà đồ qua các sách mà bác nhắc tới.

Trân Trọng.

Nhật Tâm

Đồng ý với Nhật Tâm rằng: Đứng trên trái đất và quan sát ở vị trí khác nhau thì - thí dụ sao Kim - có thể nhìn thấy ở nhiều hướng. Nhưng độ số Hà Đồ là sự phối hợp phương vị của một sao thuộc Ngũ hành - thí dụ sao Kim - với mặt trời, mặt trăng (Âm Dương) cùng ở hướng đó, trong những thời điểm xác định đó.

Xem: Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt.

Trong Lý học Đông phương có nguồn gốc cổ thư chữ Hán thì họ cho rằng: Hà Đồ là nguồn gốc của Tiên Thiên Bát Quái và không hề có sự ứng dụng trong các phương pháp ứng dụng liên quan. Trong các sách Hán sự ứng dụng là Lạc Thư.

Bởi vậy, khi xác định nguyên lý căn để trong ứng dụng là Hà Đồ mới có tác dụng xác định thuộc về văn hiến Việt. Trên cơ sở ứng dụng Hà Đồ và Hậu Thiên Lạc Việt (Đổi chỗ Tốn Khôn) lý giải hầu hết các trường hợp liên quan, phù hợp với tiêu chí khoa học.

Nhật Tâm có thể tham khảo các sách:

- Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại.

- Tìm về cội nguồn kinh Dịch.

- Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bác Thiên Sứ kính mến,

Cháu sẽ tìm đọc những sách bác giới thiệu.

Cám ơn bác đã chỉ bảo.

Trân trọng.

Nhật Tâm

Đồng ý với Nhật Tâm rằng: Đứng trên trái đất và quan sát ở vị trí khác nhau thì - thí dụ sao Kim - có thể nhìn thấy ở nhiều hướng. Nhưng độ số Hà Đồ là sự phối hợp phương vị của một sao thuộc Ngũ hành - thí dụ sao Kim - với mặt trời, mặt trăng (Âm Dương) cùng ở hướng đó, trong những thời điểm xác định đó.

Xem: Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt.

Trong Lý học Đông phương có nguồn gốc cổ thư chữ Hán thì họ cho rằng: Hà Đồ là nguồn gốc của Tiên Thiên Bát Quái và không hề có sự ứng dụng trong các phương pháp ứng dụng liên quan. Trong các sách Hán sự ứng dụng là Lạc Thư.

Bởi vậy, khi xác định nguyên lý căn để trong ứng dụng là Hà Đồ mới có tác dụng xác định thuộc về văn hiến Việt. Trên cơ sở ứng dụng Hà Đồ và Hậu Thiên Lạc Việt (Đổi chỗ Tốn Khôn) lý giải hầu hết các trường hợp liên quan, phù hợp với tiêu chí khoa học.

Nhật Tâm có thể tham khảo các sách:

- Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại.

- Tìm về cội nguồn kinh Dịch.

- Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tạo một tài khoản hoặc đăng nhập để bình luận

Bạn phải là một thành viên để tham gia thảo luận.

Tạo một tài khoản

Đăng ký một tài khoản mới trong cộng đồng của chúng tôi. Dễ thôi!


Đăng ký tài khoản mới

Đăng nhập

Bạn đã có tài khoản? Đăng nhập tại đây.


Đăng nhập ngay