Posted 27 Tháng 8, 2008 Chùm ảnh: "Tết của người Hmông" Jetaime www.vitinfo.com.vn Xuân về là lúc hoa đào, hoa mận nở trắng rừng. Các dân tộc trên mọi miền Tổ quốc đều có tục lệ đón xuân đặc trưng riêng của dân tộc mình.Nhưng cho dù là dân tộc nào thì tục lệ đón năm mới đều toát lên ước vọng mong muốn một năm hạnh phúc và nhiều may mắn. H'mông được coi là cộng đồng dân cư có cá tính mãnh liệt và phóng khoáng nhất. Họ sống trên các rẻo cao miền núi phía Bắc, đời sống người H'mông gắn liền cùng nương ngô, cây súng kíp... Tết H'mông rơi vào cuối tháng một, đầu tháng Chạp âm lịch. Tết thường kéo dài trong nhiều ngày với nhiều sinh hoạt cộng đồng... Trong ngày Tết, bên cạnh nghi lễ tín ngưỡng còn có nhiều trò chơi dân gian quen thuộc nhưng đầy tính thượng võ như chơi cù, ném pao, bắn nỏ, đua ngựa, múa khèn, chọi chim họa mi... Trong vui hội, không thể thiếu được phần múa hát. Người Mông không đón giao thừa. Đối với họ, tiếng gà gáy đầu tiên của sáng sớm mùng Một mới là cái mốc đánh dấu một năm mới bắt đầu. Tối hoặc nửa đêm 30, người ta cúng ma nhà (tổ tiên) bằng một con lợn sống, một con gà còn sống (và phải là gà trống, mà tốt nhất là gà trống tơ). Sau đó mới mang lợn và gà ấy đi giết thịt (nhà nào giàu có thì thịt một con lợn từ 28, 29 để ăn trước). Thịt xong đem cúng một mâm thịt chín, rồi ăn cơm uống rượu đến khi nghe thấy tiếng gà gáy đầu tiên.Tuy nhiên, cơm cúng có thể thiếu thịt (đối với những nhà nghèo) nhưng không thể thiếu món bánh dày, chính vì vậy, trong lễ hội thì thi giã bánh dày bao giờ cũng rất vui và được thi đầu tiên. Cơm nếp được nấu sẵn và mang đến, sau khi nghe hiệu lệnh, cơm được đổ ra cối và lập tức được giã nhanh chóng, vì giã lúc nóng thì bánh sẽ dẻo, cũng như khi giã giò phải giã thật nhanh tay khi thịt vừa pha xong còn nóng. Mỗi đội được giã trong vòng 50 phút, thành phẩm là 5 chiếc bánh đường kính 20cm, bánh phải trắng, dẻo, và kéo dài 30 cm không bị đứt. Cộng với điểm thời gian và trình bày sẽ quyết định đội thắng cuộc. Trong khi đàn ông giã bánh ... thì phụ nữ chuẩn bị lá, và bóp vụn lòng đỏ trứng gà để trộn vào bột trước khi nặn thành bánh. Các hội đều rất khẩn trương. Lễ hội hội tụ dân tộc H'Mông hoa, H'Mông xanh... trong cộng đồng người H'Mông. Khán giả xem rất đông và nhiệt tình. Kể cả các em nhỏ. Bánh đã giã xong, chắc chỉ trong vòng 10 phút, 4 chiếc với đường kính 20cm được đặt trên lá chuối, một chiếc được đặt trên đĩa để ban giám khảo chấm. Và phần thưởng đã được trao cho đội giã nhanh nhất, bánh trắng và trình bày đẹp nhất và tất nhiên phải kéo dài bánh 30cm mà không đứt. Thật may mắn vì tôi đã chọn đúng đội thắng cuộc, thực ra có một phần là khi quan sát phần chuẩn bị tôi cảm thấy người đội trưởng của đội H'Mông xanh là người cực kỳ kinh nghiệm và giỏi giang. Từng đám thanh thiếu niên vẫn tiếp tục đến hội. Vậy mà tôi lại phải về, thật tiếc giống như em bé này, tiếc nuối cuộc vui khi mẹ dắt tay về sớm. Bỗng ta nhớ đến những điệu hò câu hát, những điệu múa khèn, đàn môi, nhớ những trò chơi vừa mang tính khéo léo vừa mang tinh thần thượng võ của những người dân Tây Bắc, nhớ những rừng hoa mận, hoa đào, hoa ban, phủ trắng đại ngàn... Bỗng thấy yêu vô cùng đất Việt của tôi ơi! Một mùa xuân nữa lại đến rồi, chúc cho muôn nhà hạnh phúc, chúc cho mọi người sức khỏe, và chúc may mắn cho tất cả chúng ta. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 28 Tháng 8, 2008 Hát Xoan, hát Ghẹo Nguyễn Hà www.quehuong.org.vn Hát Ghẹo, hát Xoan là vốn quý văn nghệ dân gian lâu đời của tỉnh Phú Thọ, nằm trong kho tàng văn học dân gian giàu có của Việt Nam. Hát Xoan, hát Ghẹo là thế nào? Hẳn vẫn còn có người chưa tường.Hát Xoan là một loại dân ca độc đáo, tồn tại lâu đời ở hai xã Kim Đức và Phượng Lâu, thuộc huyện Phù Ninh cũ. Nay là huyện Phong Châu và thành phố Việt Trì. Trước Cách mạng tháng Tám 1945, hát Xoan thường được trình diễn vào mùa xuân trong những ngày hội đám ở một số đình làng trong tỉnh, nên còn được gọi là Hát cửa đình. Chữ Xoan là từ chữ Xuân đọc trẹo ra. Những người đi hát Xoan thường sống cùng chòm xóm và tổ chức thành phường. Người đứng đầu một phường Xoan gọi là ông Trùm. Các thành viên thì gọi trai là Kép, gái là Đào. Mỗi phường Xoan có khoảng 10 đến 15 người. Y phục dân tộc hệt quan họ Bắc Ninh. Nam thì áo the, khăn xếp, quần trắng; nữ mặc áo năm thân, khăn mỏ quạ, áo cánh trắng, yếm điều, thắt lưng bao, dải yếm các mầu, quần lụa, đeo xà tích. Hát xoan, ghẹo trong ngày giỗ Tổ Hùng VươngCác tiết mục múa hát thường theo thứ tự nhất định. Mở đầu là 4 tiết mục có tính nghi thức, mang nội dung khấn nguyện, chúc tụng, xen mô tả sản xuất. Đây là những bài ca cổ, chủ yếu hát nói hoặc ngâm ngợi; theo thứ tự: Giáo trống, giáo pháo, thơ nhang, đóng đám. Tiếp theo là phần hát cách (còn gọi là quả cách). Trong phần này, ông Trùm hoặc một kép chính giở sách ngân nga 14 bài thơ nôm dài với giọng phụ họa của các cô đào đứng ở phía sau. Mười bốn quả cách trong hát Xoan là những áng thơ khuyết danh với các đề tài khác nhau; như mô tả lao động, sinh hoạt ở nông thôn, ca ngợi cảnh vật thiên nhiên, kể các tích chuyện xưa. Sau phần hát cách đến các tiết mục có tính chất dân gian với nội dung đậm nét trữ tình, giao duyên. Mỗi tiết mục nối tiếp nhau ở đây thường gắn với những động tác và đội hình múa, hoặc lối diễn mang tính chất hoạt cảnh. Ví dụ: hát gái, bỏ bộ, xin huê, đố huê, đố chữ, gài huê, hát đúm, đánh cá,v.v...Xin mời các bạn thưởng thức vài lời trong điệu đố huê: Bên nam hát: Anh đố em biết huê gì nở trên rừng bạc bội? Anh đố em biết huê gì nở nội đồng không? Anh đố em biết huê gì nở bẩy tám lần chông? Anh đố em biết huê gì nở mùa đông hoa vàng trắng vàng? Bên nữ đáp: Anh đã đố thời em sẽ giảng (Qua hòa) anh chẳng biết thời em giảng anh nghe: Huê sim, huê mua nở trên rừng bạc bội Nhược bằng huê lúa nở nội đồng không Nhược bằng huê dứa nở bẩy tám lần chông Nhược bằng huê cải nở mùa đông vàng trắng vàng. Hát Ghẹo thì hơi khác. Hát Ghẹo là một loại dân ca phổ biến trong đại đa số quần chúng, không chỉ dành riêng cho một số ít người chuyên hoặc bán chuyên. Hát Ghẹo không tổ chức thành phường, bọn hay họ mà là của mọi người. ở miền bắc, ai đã qua tuổi thanh xuân, thì nhiều ít đều có biết hát Ghẹo, và cũng đôi lần hát trong những dịp hội hè, tế lễ ở địa phương. Người hát Ghẹo không phải để sinh sống, dù trong một thời gian ngắn nào đó, hoặc để lấy thưởng, mà chính là để mua vui tinh thần cho tuổi trẻ của họ. Dân ca hát Ghẹo thực sự là một hình thức văn hóa phổ thông trong nhân dân. Tuy nhiên, dù có rộng rãi trữ tình hơn, phóng túng hơn, nhưng hát Ghẹo vẫn mang phong cách của các dòng dân ca chung, nên các câu hát, giọng hát của hát Ghẹo cũng vẫn có quy định của một trật tự nhất định. Nhất là thứ tự của các câu trong giọng sổng. Người ta chia ra làm 4 loại giọng như sau: 1) Ví đãi trầu: Trầu thường bọc vào khăn tay, hoặc bày ở trên khay, trên đĩa. Các chị đưa trầu ra mời các anh bằng những câu ví: Miếng trầu để đĩa bưng ra Xin anh nhận lấy để mà thở than Lời mời thật lễ phép và ân cần, nhưng các anh chưa vội nhận, để cho các chị còn phải mời đi mời lại nhiều lần. Và có khi phải trách móc bóng gió: Miếng trầu để đĩa bưng ra Có cau, có vỏ lòng đà có vôi Hay là trầu héo, cau ôi Mà anh nỡ để trầu mời không ăn? Thế rồi, chần chừ nhưng khéo léo, các anh mới ngại ngùng đáp lại: Miếng trầu ăn nặng bằng chì Ăn thì ăn vậy biết lấy gì trả ơn! Trao đổi bằng ví đãi trầu như vậy có khi hàng giờ, rồi các anh mới chịu nhận trầu, ăn trầu và cùng hát sang giọng sổng. 2) Giọng sổng: là nét nhạc mà người ta dùng để hát câu ca khác nhau, nội dung lời ca là để tỏ bày: Bối rối là con chỉ thâm Những điều anh nói nhập tâm em rồi. 3) Sang giọng: theo các cụ thì ngày xưa có 36 giọng. Hát hết 36 giọng này là trời rạng sáng, ấy là khi sắp tàn một đêm ca. 4) Ví tiễn chân: Các câu ví lúc này thốt lên từ đáy lòng của mỗi con người vừa sống qua cuộc chuyện trò chứa chan tình cảm, cho nên lời ca ứng tác đầy cảm xúc, tha thiết như những câu ca Giã bạn trong Quan họ: Anh về có chốn thở than Em về ngồi tựa phòng loan một mình. Anh về tựa bóng sao Mai Em về em biết lấy ai bạn cùng! Hoặc: Trăm năm gắn bó như niêm Chữ tình tạc dạ, chữ duyên ghi lòng. Các anh chị tiễn chân nhau có khi cùng đi một đoạn đường rất xa, hàng mấy dặm, vừa đi vừa ví, lưu luyến tưởng khó chia đôi ngả. Hát Xoan cũng như hát Ghẹo ngày nay tuy không phát triển, nhưng mỗi lần qua vùng quê Phú Thọ, ta vẫn còn bắt gặp; cũng như ta thường được nghe trong những chương trình dân ca nhạc cổ trên sóng đài Tiếng nói Việt Nam. Những làn điệu ấy, chất liệu ấy đến giờ vẫn còn làm giầu làm đẹp mãi tâm hồn đằm thắm của dân tộc Việt Nam. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 28 Tháng 8, 2008 Hát văn www.quehuong.org.vn Hát văn hay còn gọi là hát chầu văn. Chầu văn là loại hình ca nhạc chuyên sử dụng trong các nghi lễ thờ cúng ở các đền miếu xưa, đặc biệt là khi ngồi đồng. Nhạc cụ dùng trong hát văn gồm đàn Nguyệt, trống đế, thanh la và phách.Người ca sĩ được gọi là cung văn, thông thường là người vừa hát giỏi, vừa biết nhiều làn điệu, vừa biết chơi nhạc cụ. Hát văn là một hình thức hát thờ, hát trong khi ngồi đồng nên các làn điệu và lối hát cũng phụ thuộc vào cuộc lên đồng. Mở đầu buổi lên đồng, cung văn hát điệu sai quan tướng, điệu này tiết tấu nhanh, gấp; sau đó khi đồng nhập thì hát chầu văn thờ để ca ngợi công tích hay sự tích các thánh, sau đó chuyển hát dọc để kích thích khả năng thăng thoát của người ngồi đồng, điệu này nhạc dồn dập, tưng bừng. Khi nhân vật đã nhập vai các thánh và “làm việc thánh” thì chuyển điệu còn là điệu thức cao hơn dọc một cung bậc. Tuy nhiên khi người ngồi đồng vào vai thánh nào thì người hát phải chuyển giọng theo ngôi thánh đó cho phù hợp (nhận biết ngôi vị này qua cách phục trang trong giá chầu). Hát văn và hầu bóng một (cách gọi khác của ngồi đồng) có thể có nguồn gốc từ văn hoá ca múa nhạc tôn giáo của người Chăm nên trong các điệu thức của hát văn cũng có điệu hát giàn (điệu hát của người Chăm). Mặt khác cung văn khi hát cũng phải hát sao cho thể hiện tâm lý tình cảm của các nhân vật nên giọng hát phải chuyển đổi luôn luôn. Vì thế mà chỉ trong một thể hát thì cũng có nhiều dạng khác nhau: thể phú thì có phú dựng, phú chênh để diễn tả tâm trạng vui, phú rầu để diễn tả tâm trạng buồn. Những khi thay đổi như thế thì âm nhạc đều chuyển điệu thức 5 âm để phụ họa theo. Nói chung hát văn không chỉ khó mà còn đòi hỏi cung văn phải nhanh, linh hoạt để vừa có thể chuyển lời, giọng và nhạc cho ăn khớp mà vẫn hay, vẫn sát vai của người ngồi đồng, lại vẫn thể hiện được tài năng riêng của mỗi cung văn. Nếu như không khí, nhịp điệu trong ca trù thính phòng là êm đềm, réo rắt, bổng trầm thì không khí, nhịp điệu trong hát văn ngược lại hẳn. Nó mang tính chất sôi nổi, kích động cộng với trống phách, thanh la rộn ràng làm cho buổi hầu đồng luôn trong không khí tưng bừng. Lời văn trong hát văn cũng phổ từ thơ ca dân gian, đôi khi vay mượn cả trong các tác phẩm văn thơ bác học và thường là thể lục bát, lục bát biến thể, thất ngôn, bốn chữ. Nội dung thường là kể về công tích, kỳ tích cũng như sự tích các thánh thần, vì thế mà giai điệu của hát văn khi thì mượt mà, hấp dẫn, khi lại dồn dập, khoẻ khoắn vui tươi. Với tính chất này hát văn ngày nay không chỉ bó hẹp trong phạm vi dùng trong nghi lễ mà hát văn cũng được coi như một hình thức ca nhạc dân gian vui tươi lành mạnh và đưa ra công diễn trước đông đảo quần chúng, bước đầu đã có những thành công đáng kể. Share this post Link to post Share on other sites