Posted 29 Tháng 5, 2010 THÁI ẤT DIỄN QUÁI YẾU GIẢI LỜI NÓI ĐẦU Theo quan niệm của người xưa, Thái Ất là thần của trời đất. Xét quan hệ giữa sao Thái Ất và 16 vị sao khác vận động trong không gian và thời gian x ba phạm trù thiên, địa, nhân (tam tài), phối hợp x x x thuyết âm dương ngũ hành, thập thiên can, x x x trong cấu trúc cửu cung và 12 phân dã, x x x và dự đoán được các việc gió, mưa, lụt, hạn trong x x, sự trị loạn, no đói trong nhân sự, sự thắng thua trong quân sự. Theo truyền thuyết, x x x Hoàng đế do mong muốn đem lại thái bình, x x x x nước, no ấm hạnh phúc cho muôn dân nên x x x x Thần Phong Hậu xem xét âm dương ngũ hành x x lịch số của trời đất, dựa vào các nguyên lý của Hà đồ Lạc thư, Thái cực Lưỡng nghi lập ra Thái ất thần số. Sau đó, x công, Lưu hầu phát triển thêm. Đến đời Tống, x x đóng góp thêm nhiều kinh nghiệm. Các nho sĩ đời Minh bổ sung, chú giải, nên môn học quý giá này càng thêm sáng tỏ. Tới Trương Hoa phối hợp Thái ất thần số với 64 quẻ dịch kinh thích ứng liên vận các thời đại, nội dung môn học càng thêm phong phú, cụ thể. Bảng nhỡn Lê Quý Đôn đánh giá cao môn Thái ất học. Ông nói: “ Thuyết Thái ất, phần nhiều nói về binh pháp. Địch ta, chủ khách, lợi hại, được mất, các cơ thịnh suy, trị loạn, cái thế thắng thua, yên nguy đều được diễn giải rõ ràng. Làm tướng mà không biết môn học Thái ất sẽ không biết rõ nên đánh hay giữ, tiến hay ngừng, khó quyết đoán các mưu kế khi ra trận địa. Trong triều đình nếu không biết môn Thái ất sẽ sai lầm ở sự động hay tĩnh, tiến công hay thoái thủ, khó quyết đoán những sách lược lớn.” Môn học thuyết cổ dù lớn bao nhiêu cũng không thể vượt qua những điều kiện lịch sử không nhất định. Đãi cát tìm vàng là mong muốn thiết tha của người cầu học Người viếtVũ Xuân Quang BÀI 1: SỐ CỦA 12 HỘI Cấu trúc thời gian (đồng thời cũng là cấu trúc không gian) của vũ trụ (thiên – địa – nhân) được thể hiện thành 12 Hội. Trước khi bàn về nội dung của 12 Hội, ta nên biết một số khái niệm thời gian có liên quan tới Hội. 1 đại nguyên = 30 nguyên (30 x 12 x 30 x 12 x 30) = 3.888.000 năm = 30 năm 1 nguyên = 12 hội (12 x 30 x 12 x 30) = 129.600 năm = 1 năm (360 ngày). 1 hội = 30 vận (30 x 12 x 30) = 10.800 năm = 30 ngày (1 tháng) 1 vận = 12 thế = 6 nguyên = 5 nguyên tý = 360 năm (12 x 30) = 12 giờ (1 ngày) 1 thế = 2 niên tiết = 30 năm = 30 phút 1 năm = (30 : 30) = 1 phút 1 tháng = 1phút / 12 = 1 giây 1 giây = 1 giây/ 30 = 1 giâyChú ý : Phép tính Thái ất lấy Hội làm cơ sở tính toán, đơn vị tính toán. Do đó, ta quy ước: Hội = N = 1 Cho nên ta có: N = 1 = 10.800 năm Cách tính của Thái ất lấy bội số ( và số chia ) 12; 30 làm cơ sở. Tính chất 1 phút và 1 năm, 1 ngày và 1 vận, 1 tháng và 1 hội về cơ bản là thống nhất.Số từng hội: Hội Tý = 10.800 năm = 129.600 tháng = 3.888.000 ngày = 46.656.000 giờ = 1.399.680 phân = 16.796.160.000 sao Hội Sửu = 21.600 năm = 259.200 tháng = 7.776.000 ngày (HTý x 2)= 93.312.000 giờ = 2.799.360.000 phân = 33.592.320.000 sao Hội Dần = 32.400 năm = 388.800 tháng = 11.654.000 ngày (HTý x 3)= 139.968.000 giờ = 419.904.000 phân = 5.038.848.000 sao Hội Mão = 43.200 năm = 518.400 tháng = 15.552.000 ngày (HTý x 4)= 186.624.000 giờ = 5.598.720.000 phân = 67.184.640.000 sao Hội Thìn = 54.000 năm = 648.000 tháng = 19.440.000 ngày (HTý x 5)= 233.280.000 giờ = 6.998.400.000 phân = 83.980.800.000 sao Hội Tị = 64.800 năm = 777.600 tháng = 23.327.000 ngày (HTý x 6)= 279.936.000 giờ = 3.398.080.000 phân = 100.776.960.000 sao Hội Ngọ = 75.600 năm = 907.200 tháng = 27.216.000 ngày (HTý x 7)= 326.592.000 giờ = 9.797.760.000 phân = 117.573.120.000 sao Hội Mùi = 86.400 năm = 1.036.800 tháng = 31.104.000 ngày (HTý x 8)= 373.248.000 giờ = 1.197.440.000 phân = 134.369.280.000 sao Hội Thân = 97.200 năm = 1.166.400 tháng = 34.992.000 ngày (HTý x 9)= 419.904.000 giờ = 12.597.120.000 phân = 151.165.440.000 sao Hội Dậu = 108.000 năm = 1.296.000 tháng = 38.880.000 ngày (HTý x 10)= 466.560.000 giờ = 1.399.680.000 phân = 167.961.600.000 sao Hội Tuất = 118.800 năm = 1.425.600 tháng = 42.768.000 ngày (HTý x 11)= 513.216.000 giờ = 15.396.480.000 phân = 18.475.760.000 sao Hội Hợi = 129.600 năm = 1.555.200 tháng = 46.656.000 ngày (HTý x 12)= 559.872.000 giờ = 16.796.160.000 phân = 201.553.920.000 saoCÔNG THỨC : 1x 12 x 30 x 12 x 30 x 12Quan hệ tương đương: Hội Tý = 1 tháng – Hội Thìn = 5 tháng – Hội Thân = 9 tháng. Hội Sửu = 2 tháng – Hội Tị = 6 tháng – Hội Dậu = 10 tháng. Hội Dần = 3 tháng – Hội Ngọ = 7 tháng – Hội Tuất = 11 tháng. Hội Mão = 4 tháng – Hội Mùi = 8 tháng – Hội Hợi = 12 tháng Hình vẽ THÁI ẤT THIÊN BÀN CƠ SỞ cuối bài 1 BÀI 2 NGŨ NGUYÊN TÝ Mỗi vận (360 năm) chia ra năm phần. Mỗi phần gọi là 1 nguyên tý. Một nguyên tý có 72 năm (360 : 5). Năm phần này hợp thành ngũ nguyên tý. Tên của ngũ nguyên tý là tên của các thiên can, phối hợp với địa chi tý. (Chi đứng đầu trong hệ thống 12 địa chi), cụ thể là: Nguyên giáp tý Nguyên bính tý Nguyên mậu tý Nguyên canh tý Nguyên nhâm tý.TAM NGUYÊN THƯỢNG, TRUNG, HẠ Mỗi vận chia thành 6 phần là: Thượng nguyên ( 2 lần ) Trung nguyên ( 2 lần ) Hạ nguyên ( 2 lần ) Mỗi nguyên 60 nămÂM CỤC VÀ DƯƠNG CỤC Theo quy định, từ năm 1324 đến năm 2403 (1.080) thuộc dương. Từ năm 2.404 đến năm 3.483 thuộc âm. Hiện nay, chúng ta đang sống trong thế kỷ thuộc dương.Bảng A Số nguyên tý từ năm 1.324 đến năm 2.403 (1080 năm) thuộc dương Nguyên giáp tý 1324 – 1395........1684 – 1755........2044 – 2115 Nguyên bính tý 1396 – 1467........1756 – 1827........2116 – 2187 Nguyên mậu tý 1468 – 1539........1828 – 1899........2188 – 2259 Nguyên canh tý 1540 – 1611........1900 – 1971........2260 – 2331 Nguyên nhâm tý 1612 – 1683.......1972 – 2043........2332 – 2463 ...............................I.......................II......................III..........Mỗi nguyên tý 72 năm [(72 x 15) = 18 nguyên]Bảng B Số nguyên tý từ năm 2404 đến năm 3483 (1080 năm) thuộc âm Nguyên giáp tý 2404 – 2475.........2764 – 2835..........3124 – 3195 Nguyên bính tý 2476 – 2547.........2836 – 2907..........3196 – 3267 Nguyên mậu tý 2548 – 2619.........2908 – 2979..........3268 – 3339 Nguyên canh tý 2620 – 2691.........2980 – 3051..........3340 – 3411 Nguyên nhâm tý 2692 – 2763.........3052 – 3123..........3412 – 3483 ...............................I.........................II........................III............ Như vậy, ta có 3 ngũ nguyên tý (1080) thuộc dương, và 3 ngũ nguyên tý thuộc âm. Theo nguyên lý “ Nhất âm nhất dương chi vị đạo ”. Do đó, 1080 năm tiếp theo ngũ nguyên tý là 2404 – 3483 thuộc âm. Niên cục thuộc các nguyên tý dương gọi là niên cục dương, thuộc các nguyên tý âm gọi là niên cục âm. Ba ngũ nguyên tý bao gồm 18 nguyên (60 x 18 = 1080). Các thượng, trung, hạ nguyên từ năm 1684 đến năm 2403, gồm 12 nguyên (720 năm) = 2 vận Thượng nguyên 1684 – 1743.........1864 – 1923..........2044 – 2103..........2224 – 2283 Trung nguyên...1744 – 1803..........1924 – 1983..........2104 – 2163..........2284 – 2343 Hạ nguyên.......1804 – 1863..........1984 – 2043..........2164 – 2223..........2344 – 2403 .............................I..........................II........................III.......................IV THÁI DƯƠNG THẬP NHỊ CUNG XÁ Thái dương thập nhị cung xá tức là 12 cung thuộc vòng hoàng đạo trong chiêm tinh học cổ đại phương Tây. Thập nhị địa chi phối hợp với 12 cung hoàng đạo như sau: Tý phối hợp với.......11 Bảo Bình....Năm 1684 Bắc ...................................................................1743 Sửu phối hợp với.....10 Ma kiệt..............1744 ........................................................1803 Đông Bắc Dần phối hợp với......9 Nhân mã............1804 ...................................................................1863 Mão phối hợp với......8 Thiên yết...........1864 Đông ...................................................................1923 Thìn phối hợp với......7 Thiên xứng........1924 ...................................................................1983 Đông Nam Tị phối hợp với.........6 Song nữ.............1984 ....................................................................2043 Ngọ phối hợp với......5 Sư tử.................2044 Nam ....................................................................2103 Mùi phối hợp với.......4 Cự giải...............2104 ....................................................................2163 Tây Nam Thân phối hợp với.....3 Âm dương...........2164 ....................................................................2223 Dậu phối hợp với......2 Kim ngưu............2224 Tây ....................................................................2283 Tuất phối hợp với.....1 Bạch dương.........2284 ....................................................................2343 Tây Bắc Hợi phối hợp với.....12 Song ngư............2344 ....................................................................2403 Tý phối hợp với.........Bảo bình...............2404 Bắc ....................................................................2463 Mỗi cung tương ứng với 60 năm (1 nguyên) Từ năm 2404 đến năm 3483 thuộc các nguyên tý âm. Từ đó ta suy ra từ năm 1323 lùi lại 1080 năm tức là từ năm 244 đến năm 1523 thuộc các nguyên tý âm. Từ năm 1324 lại bắt đầu phối hợp với Bảo bình trong “Thái dương thập nhị cung xá” với dương niên cục thuộc nguyên giáp tý dương.Bảng C Số nguyên tý từ năm 244 đến năm 1323 thuộc các nguyên tý âm Nguyên giáp tý.....244 – 315..........604 – 675............964 – 1035 Nguyên bính tý.....316 – 387..........676 – 747............1036 – 1107 Nguyên mậu tý.....388 – 459..........748 – 819............1108 – 1179 Nguyên canh tý....460 – 531...........820 – 891............1180 – 1251 Nguyên nhâm tý...532 – 603...........892 – 963............1252 – 1323 ...............................I.......................II.........................III............. Thượng nguyên..244 – 303......424 – 483......604 – 663......784 – 863......964 – 1023.......1144 - 1203 Trung nguyên....304 – 363......484 – 543......664 – 723......844 – 923......1024 – 1083......1204 – 1263 Hạ nguyên........364 – 423......544 – 603......724 – 783......904 – 983......1084 – 1143......1264 – 1323 ............................I...................II................III.................IV...................V.....................VI............. 18 nguyên (60 x 18 = 1080)SỐ NIÊN CỤC Mỗi nguyên tý có 72 năm. Niên cục được đánh số từ 1 đến 72 trong mỗi nguyên tý. Niên cục được tính theo chu kỳ của mỗi vận 360 năm. Ví dụ: - Năm 1570, theo bảng A ở trên, thuộc nguyên Canh tý dương. Nguyên Canh tý dương bắt đầu từ năm 1540. Ta coi: 1540 = 1 Vậy 1541 = 2 ; 1542 = 3 ; 1543 = 4 ; 1544 = 5…… Cứ thế ta tính tiếp, sẽ có : 1550 = 11 ; 1560 = 21 ; 1570 = 31 Do đó, năm 1570 thuộc nguyên Canh tý dương, dương niên cục 31. - Năm 1644, theo bảng A, thuộc nguyên Nhâm tý dương. Nguyên Nhâm tý dương bắt đầu từ năm 1612 Ta coi: 1612 = 1 Vậy: 1613 = 2 ; 1614 = 3 ; 1615 = 4 ; 1616 = 5…… Cứ thế ta tính tiếp, sẽ có: 1622 = 11 ; 1632 = 21 ; 1642 = 31 ; 1643 = 32 ; 1644 = 33 Do đó năm 1644 thuộc nguyên Nhâm tý dương, dương nguyên cục 33. - Năm 2404, theo bảng B ở trên, thuộc nguyên Giáp tý âm. Nguyên Giáp tý âm bắt đầu từ năm 2404. Ta coi: 2404 = 1 Do đó, năm 2404 thuộc nguyên Giáp tý âm, âm niên cục 1 - Năm 2478, theo bảng B, thuộc nguyên Bính tý âm. Nguyên Bính tý âm bắt đầu từ năm 2476. Ta coi: 2476 = 1 ; 2477 = 2 ; 2478 = 3 Do đó, năm 2478 thuộc nguyên Bính tý âm, âm niên cục 3.SỐ NGUYỆT CỤC Cục tương ứng với tháng gọi là Nguyệt cục. Gốc tính nguyệt cục là ngày mồng 1, tháng Giáp tý ,năm Giáp tý, thuộc triều đại Nguyên Gia thời nhà Tống Trung Quốc (tương ứng với ngày 7 tháng 12 năm 424 sau công nguyên). - Thử tính số nguyệt cục tháng Bính Dần, năm Kỷ Mão (năm 1999). Ta tính như sau: Từ tháng Giáp tý, năm Giáp tý (năm 424) đến tháng Quý hợi (trước tháng Giáp tý) năm Kỷ Mão (trước năm Canh Thìn tức là năm 1999), ta có: 1999 – 424 = 1575 năm (năm Mậu Dần, tháng Kỷ Mão) 1575 x 12 tháng = 18.900 tháng (tháng Hợi, năm Mậu Dần) Từ tháng Giáp tý, năm Kỷ Mão đến tháng Mậu Dần, năm Canh Thìn, có 3 tháng: 18.900 tháng + 3 tháng = 18.903 tháng (Bính Dần, năm Kỷ Mão) Dùng công thức I : 19.903 : 360 = số dư 183 Dùng công thức II : 183 : 72 = số dư 39 Năm 2000 thuộc nguyên Nhâm tý dương, ta nói : tháng Bính Dần năm Kỷ Mão (năm 1999) có nguyệt cục dương 39 thuộc nguyên Nhâm tý dương. 3 people like this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 29 Tháng 5, 2010 BÀI 3 SỐ NHẬT CỤC Gốc tính nhật cục từ ngày mồng 1 tháng Giáp tý, năm Quý Hợi thuộc triều đại Cảnh Bình đời nhà Tống – Trung Quốc (ứng với ngày 19/2/423 dương lịch) Điểm mấu chốt của cách tính nhật cục là tính số ngày từ gốc tính nhật cục đến ngày đang xét. Ví dụ: Tính nhật cục ngày 14/02/1992 (âm lịch). Bước đầu tiên là tính số ngày từ gốc tính nhật cục (ngày 19/2/423) đến ngày 18/01/1992. Trước hết, ta tính tròn số năm phải xét. Vậy tính đến tháng 2 năm 1992, ta có: 1992 – 423 = 1569 năm Tiếp đó, ta tính số ngày tròn trong 1569 năm: (1569 x 365,2422) – 10 = 573.055 ngày Bước tiếp theo, ta tính số ngày từ 19/01/1992 đến ngày 14/12/1999. Số ngày theo dương lịch, ta có: 19/1/1992 – 31/1/1992 = 13 ngày 1/2/1992 – 29/2/1992 = 29 ngày 1/3/1992 – 31/3/1992 = 31 ngày 1/4/1992 – 30/4/1992 = 30 ngày 1/5/1992 – 31/5/1992 = 31 ngày 1/6/1992 – 30/6/1992 = 30 ngày 1/7/1992 – 31/7/1992 = 31 ngày 1/8/1992 – 31/8/1992 = 31 ngày 1/9/1992 – 30/9/1992 = 30 ngày 1/10/1992 – 31/10/1992 = 31 ngày 1/11/1992 – 30/11/1992 = 30 ngày 1/12/1992 – 14/12/1992 = 14 ngày ...........................Cộng = 331 ngày Số ngày từ 18/2/423 đến 14/12/1999 là: 573.055 + 331 = 573.386 ngày Tính tiếp theo công thức I: 573.386 : 360 = số dư 266 Cuối cùng tính theo công thức II: 266 : 72 = số dư 19 Ngày 14/2/1992 sau Đông chí thuộc dương (sau ngày hạ chí thuộc âm). Ta nói: ngày 14/2/1992 có dương nhật cục 50 thuộc nguyên nhâm tý dương, hạ nguyên. (*)Ta biết rằng: ngày 21 (Giáp tý) tháng 11 (Nhâm tý) năm Nhâm thân. Gốc tính (Lê Quý Đôn): Âm lịch – mồng 1 – tháng 11 – Giáp tý Năm Giáp tý (dương lịch 7/12/424) SỐ THỜI CỤC Cách tính thời cục là dung số Can chi cho ngày và giờ. Gốc của Can chi ngày là ngày Giáp Tý = 1 ; ngày Ất Sửu = 2 ; ngày Bính Dần = 3…v.v… Thử tính thời cục giờ Giáp Tý, ngày Giáp Thìn (tương ứng với ngày 23/1/1992) Giờ Giáp Tý là giờ đầu tiên của ngày Giáp Thìn. Ta có: giờ Giáp Tý = 1 Tính từ ngày Giáp Tý = 1 đến ngày Giáp Thìn, ta có: ngày Giáp Thìn = 41 Nhưng ta chỉ tính đến hết ngày Quý Mão (trước ngày Giáp Thìn) Ngày Quý Mão có số Can chi = 40 Mỗi ngày có 12 giờ âm lịch: 40 x 12 = 480 giờ âm lịch Cộng thêm giờ Giáp Tý ngày Giáp Thìn, ta có: 480 + 1 = 481 giờ âm lịch Tính tiếp, ta dùng công thức I: 481 : 360 = số dư 121 Cuối cùng, ta dùng công thức II: 121 : 72 = số dư 49 Ngày 23/1/1993 sau Đông chí. Tính thời cục cũng lấy thời gian từ Đông chí về sau thuộc dương, từ Hạ chí về sau thuộc âm. Từ kết quả tính toán trên đây, ta nói: ngày 23/1/1993 có dương thời cục 49 thuộc nguyên tý… Cách tính số niên cục, nguyệt cục, nhật cục, thời cục gọi là “Tứ kế” (tuế kế, nguyệt kế, nhật kế, thời kế) Theo nguyên tắc “Tề nguyên Giáp Tý”, gốc tính đầu tiên của “Tứ kế” là giờ Giáp Tý, ngày Giáp Tý, tháng Giáp Tý, năm Giáp Tý, nguyên Giáp Tý thuộc Hội Giáp Tý. 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 29 Tháng 5, 2010 BÀI 4 NHỊ THẬP TỨ TIẾT KHÍ VÀ GIAO HỘI CỦA MẶT TRỜI MẶT TRĂNG Đại hàn: Mặt trăng vận hành tại cung Sửu, mặt trời vận hành tại cung Tý Giao hội tại khoảng giữa cung Sửu và cung Tý (tại…..) Vũ thuỷ: Mặt trăng vận hành tại cung Dần, mặt trời vận hành tại cung Hợi Giao hội tại khoảng giữa cung Dần và cung Hợi (tại…..) Xuân phân: Mặt trăng vận hành tại cung Mão, mặt trời vận hành tại cung Tuất Giao hội tại khoảng giữa cung Mão và cung Tuất (tại…..) Cốc vũ: Mặt trăng vận hành tại cung Thìn, mặt trời vận hành tại cung Dậu Giao hội tại khoảng giữa cung Thìn và cung Dậu (tại…..) Tiểu mãn: Mặt trăng vận hành tại cung Tị, mặt trời vận hành tại cung Thân Giao hội tại khoảng giữa cung Tị và cung Thân (tại…..) Hạ chí: Mặt trăng vận hành tại cung Ngọ, mặt trời vận hành tại cung Mùi Giao hội tại khoảng giữa cung Ngọ và cung Mùi (tại…..) Đại thử: Mặt trăng vận hành tại cung Mùi, mặt trời vận hành tại cung Ngọ Giao hội tại khoảng giữa cung Mùi và cung Ngọ (tại…..) Xử thử: Mặt trăng vận hành tại cung Thân, mặt trời vận hành tại cung Tị Giao hội tại khoảng giữa cung Thân và cung Tị (tại…..) Thu phân: Mặt trăng vận hành tại cung Dậu, mặt trời vận hành tại cung Thìn Giao hội tại khoảng giữa cung Dậu và cung Thìn (tại…..) Sương giáng: Mặt trăng vận hành tại cung Tuất, mặt trời vận hành tại cung Mão Giao hội tại khoảng giữa cung Tuất và cung Mão (tại…..) Tiểu tuyết: Mặt trăng vận hành tại cung Hợi, mặt trời vận hành tại cung Dần Giao hội tại khoảng giữa cung Hợi và cung Dần (tại…..) Đông chí: Mặt trăng vận hành tại cung Tý, mặt trời vận hành tại cung Sửu Giao hội tại khoảng giữa cung Tý và cung Sửu (tại…..) CÁC SAO CƠ BẢN TRONGTHÁI ẤT THẦN SỐ Trong thái ất thần số, các sao cơ bản gồm: Sao Thái ất ; sao Kế thần ; sao Văn xương ; sao Thuỷ kích Sao Thái ất: Theo các sách kinh điển, sao Thái ất là tôn thần của thiên đế, ở trước sao Bắc thần, chủ sai khiến 16 thần. Sao Thái ất chủ về dự đoán gió mưa, hạn hán, lụt lội, chiến tranh, đói rét, bệnh tật. Xem xét tình hình trong nước, sao Thái ất chủ sự hưng vong, lịch số dài ngắn. Sao Thái ất vận hành trong 8 cung qua bát quái, không vào trung cung. Tại mỗi cung, sao Thái ất cư trú 3 năm: năm thứ nhất gọi là Lý thiên, năm thứ 2 gọi là Lý địa, năm thứ 3 gọi là Lý nhân. Ở năm thứ nhất, chức năng Lý thiên của sao Thái ất có nhiệm vụ điều chỉnh các thất lạc độ số các hiện tượng mặt trời, mặt trăng, các sao xấu biến động phát sáng gây những hiện tượng quái gở. Ở năm thứ 2, chức năng Lý địa của sao Thái ất có nhiệm vụ điều chỉnh những biến động về núi lở, đất hõm, sông xê dịch, đất đai, cây cối. Ở năm thứ 3, chức năng Lý nhân của sao Thái ất có nhiệm vụ điều chỉnh những biến động về vua tôi, các hiện tượng cha con khẩu thiệt, đói rét, lưu vong trong nhân dân. Sau 24 năm, sao Thái ất đi hết 1 vòng bát quái Phép tính sao Thái ất trong Tuế kế Bài ca: Cục dương Thái ất khởi tự cung Càn Mỗi cung trú lại 3 năm Đi thuận từ số 1 đến 9 Cục âm, Thái ất khởi từ Tốn 9 Tính nghịch từ số 9 đến số 1 Chú ý là không vào số 5 Số dư sau khi tính là cung Thái ất tới Tính từ năm Giáp tý đời Thiên hoàng đến năm ta cần tìm là bao nhiêu năm gọi là tích niên Lấy tích niên chia cho số 3600 (đại chu thiên) Số dư nhỏ hơn 360 chia cho số 240. Được số dư tính tiếp như sau: bắt đầu tính 1 từ Càn 2 Ly 3 Cấn 4 Chấn (không vào 5) 6 Đoài 7 Khôn 8 Khảm 9 Tốn Tính thuận, hết vòng lại trở về ban đầu Lẻ 1 là Lý thiên Lẻ 2 là Lý địa Lẻ 3 là Lý nhân Xem ngược về những năm đã qua, mỗi năm giảm đi 1 số. Xem xuôi về những năm sắp tới, mỗi năm thêm 1 số. Ví dụ 1: Tính từ năm Giáp tý đời Thiên hoàng đến năm 2000 theo quy ước là 10.155.917 năm. Năm ta cần tìm là năm Canh Ngọ, niên hiệu chính trị năm thứ 13 triều Lê, có tích niên là 10.155.487 năm (một phép tính khác là 10.153.847 năm). Vậy năm Canh Ngọ nói trong ví dụ tương ứng với năm 1570. Lấy tích niên 10.155.487 chia cho 3600, có số dư là 247, nhỏ hơn số 360. Lại lấy số dư 247 chia cho số 240, được số dư là 7. Khởi Thái ất tính 1 từ Càn. Trú lại 3 năm. Còn dư 4 sang 2 Ly, lại trú 3 năm. Còn dư 1 sang 3 Cấn. Vậy là Thái ất đi vào cung 3 Cấn 1 năm. Số 1 tức là năm thứ nhất tương ứng với Lý thiên. Muốn tìm niên cục của năm Canh Ngọ trong ví dụ, ta lấy số dư 247 nói trên chia cho số 72, được số dư 31. Năm 1570, theo bảng A, thuộc nguyên Canh tý dương, vậy ta có dương niên cục 31 thuộc nguyên Canh tý dương – trung nguyên, ta nói: Năm Canh Ngọ niên hiệu chính trị năm thứ 13 triều Lê dương nguyên cục 31 thuộc nguyên Canh tý dương – trung nguyên sao Thái ất đi vào cung Cấn 3 một năm, ứng với Lý thiên. Ví dụ 2: Tính từ năm Giáp tý đời Thiên hoàng đến năm Nhâm Thìn, niên hiệu Quang Hưng năm thứ 15 triều Lê. Được tích niên là 10.155.509 năm. Vậy năm Nhâm Thìn nói trong ví dụ tương ứng với năm 1592 Lấy tích niên 10.155.509 chia cho số 3600. Được số dư là 269. Số 269 nhỏ hơn 360. Lại lấy số 269 chia cho số 240, được số dư là 29 Lại lấy số 29 chia cho số 24, được số dư là 5. Khởi Thái ất tính 1 từ Càn, trú tại 3 năm. Còn dư 2. Vậy Thái ất đi vào cung Ly 2 hai năm, tương ứng với Lý địa Muốn tìm niên cục của năm Nhâm Thìn trong ví dụ, ta lấy số dư 269 chia cho số 72, được số dư 53 Năm 1592, theo bảng A thuộc nguyên Canh Tý dương, vậy ta có dương niên cục 53 thuộc nguyên Canh tý dương – trung nguyên. Sao Thái ất đi vào cung Ly 2 hai năm ứng với Lý địa Ví dụ 3: Tính từ năm Giáp tý đời Thiên hoàng đến năm 1644. Được tích niên là 10.155.561 năm Lấy số tích niên 10.155.561 chia cho số 3600. Được số dư là 321 Lại lấy số dư 321 chia cho số 240, được số dư là 9. Khởi Thái ất tính 1 từ Càn, trú lại 3 năm Còn dư 6 sang cung Ly 2, trú lại 3 năm Còn dư 3 sang cung Cấn 3. Vậy sao Thái ất vào cung Cấn 3 ba năm, tương ứng với Lý nhân Muốn tính niên cục năm 1644 trong ví dụ, ta lấy số dư là 321 chia cho số 72, được số dư 33. Năm 1644 theo bảng A thuộc nguyên Canh Tý dương. Vậy ta có dương nguyên cục 33 thuộc nguyên Nhâm tý dương – hạ nguyên. Ta nói: Năm 1644 dương niên cục 33, nguyên Nhâm tý dương – hạ nguyên. Sao Thái ất đi vào cung Cấn 3 ba năm, tương ứng với Lý nhân. Ví dụ 4: Tính từ năm Giáp tý đời Thiên hoàng đến năm 1732, được số tích niên là 10.155.649 năm Lấy số tích niên 10.155.649 chia cho số 3600, được số dư là 49. Số 49 nhỏ hơn số 360. Số dư 49 nhỏ hơn số 240 cho nên lấy số dư 49 chia cho 24, được số dư là 1. Khởi Thái ất tính 1 từ Càn, trú lại năm thứ nhất tương ứng với Lý thiên. Muốn tính niên cục của năm 1732, ta thấy số dư 49 nói trên nhỏ hơn số 72. Vậy ta có dương niên cục 49, nguyên Giáp tý dương (theo bảng A), thượng nguyên. Ta nói: Năm 1732 dương niên cục 49, nguyên Giáp tý dương – thượng nguyên. Sao Thái ất vào cung Càn 1 năm thứ nhất tương ứng với Lý thiên. Ví dụ 5: Tính từ năm Giáp tý đời Thiên hoàng đến năm 1756, được số tích niên là 10.155.673 Lấy số tích niên 10.155.673 chia cho số 3600 được số dư là 73 Lấy số dư 73 chia cho số 24 được số dư là 1 Khởi Thái ất tính 1 từ Càn, trú lại năm thứ nhất, tương ứng với Lý thiên Muốn tính niên cục năm 1756, ta lấy số dư 73 chia cho số 72, được số dư là 1. Vậy theo bảng A, ta có dương niên cục 1, nguyên Bính tý dương – trung nguyên, ta nói: Năm 1756 dương niên cục 1, nguyên Bính tý dương – trung nguyên. Sao Thái ất đi vào cung Càn 1 năm thứ nhất ứng với Lý thiên. Ví dụ 6: Tính từ năm Giáp tý đời Thiên hoàng đến năm 2000, được số tích niên là 10.155.917 năm Lấy số tích niên 10.155.917 chia cho số 3600 được số dư là 29 Số dư 29 nhỏ hơn số 240 cho nên ta chia 29 cho 24, được số dư là 5 Khởi Thái ất tính 1 từ Càn, trú lại 3 năm Còn dư 2, sang Ly 2 hai năm, tương ứng với Lý địa Muốn tính niên cục của năm 2000, ta thấy số dư 29 nói trên nhỏ hơn 72 vậy có dương niên cục là 29 nguyên Nhâm tý dương (theo bảng A), hạ nguyên. Ta nói: Năm 2000 dương niên cục 29 nguyên Giáp tý dương – hạ nguyên. Sao Thái ất đi vào cung Ly 2 hai năm, tương ứng với Lý địa. Ví dụ 7: Tính từ năm Giáp tý đời Thiên hoàng đến năm 2404, có số tích niên là 10.156.321 năm. Lấy số tích niên 10.156.321 chia cho số 3600, được số dư là 1. Số dư 1 nhỏ hơn 24. Lấy số đó khởi Thái ất, năm 2404 thuộc cục âm. Cục âm tính nghịch, khởi Thái ất tính 1 từ Tốn 9, tức là vào cung Tốn 9 một năm, tương ứng với Lý thiên. Muốn tìm niên cục của năm 2404, ta thấy số dư 1 nhỏ hơn 72. Vậy ta có âm niên cục 1, nguyên Giáp tý âm (theo bảng B, thượng nguyên. Ta nói: Năm 2404 âm niên cục 1, nguyên Giáp tý âm – thượng nguyên. Sao Thái ất đi vào cung Càn 1 một năm, tương ứng với Lý thiên. Ví dụ 8: Tính từ năm Giáp tý đời Thiên hoàng đến năm 2464, được số tích niên là 10.156.381 năm. Lấy số tích niên 10.156.381 năm chia cho số 3600, được số dư là 61 Lại lấy số dư 61 chia cho số 24, được số dư là 13. Lấy số đó khởi Thái ất. Năm 2464 thuộc cục âm. Cục âm tính nghịch, Thái ất khởi từ Tốn 9, trú lại 3 năm Dư 10, sang Khảm 8, trú 3 năm Dư 7, sang Khôn 7, trú 3 năm Dư 4, sang Đoài 6, trú 3 năm Dư 1, sang Thái ất vào Chấn 4 một năm, ứng với Lý thiên. Muốn tìm niên cục của 2464 ta thấy số dư 61 nhỏ hơn 72. Vậy ta có âm niên cục 61, nguyên Giáp tý âm – trung nguyên. Ta nói: Năm 2464 âm niên cục 61 nguyên Giáp tý âm – trung nguyên. Sao Thái ất đi vào cung Chấn 4 một năm, ứng với Lý thiên. GHI CHÚ: - Cục dương tính thuận từ Càn 1 đến Tốn 9 ...Cục âm tính nghịch từ Tốn 9 đến Càn 1. - Thái ất không vào trong cung 5 Số Quái ứng với dương cục và âm cục số đều bằng 10 Ví dụ: Số cục âm 1 và số cục dương 1 ứng với Càn 1 và Tốn 9, cộng lại bằng 10 Một quái ứng với x tam tài thiên – địa – nhân Ví dụ: Dương cục 1 có Càn 1 ứng với Thiên Dương cục 2 có Càn 1 ứng với Địa Dương cục 3 có Càn 1 ứng với Nhân 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 29 Tháng 5, 2010 SAO KẾ THẦN Người xưa nói: “Sao kế thần là con rồng đuốc của sao Thái ất” Phương pháp tìm cung có sao kế thần đóng. Kế thần Tý niên khởi từ Dần Trong thập nhị thần phải nghịch tuần Thời kế: hạ chí, từ thân khởi, Cục âm, 12 thần cũng tính ngược. Tích thập nhị tính, chia dần đi Số dư rơi cung nào là kế thần đóng. Cách tìm kế thần: năm Tý khởi từ cung Dần, rồi lần lượt tính ngược 12 địa chi. Tính giờ theo phương pháp tiết hạ chí, khởi từ giờ Thân. Cục âm 12 địa chi cũng tính ngược. Lấy số 12 mà chia dần đi. Số dư rơi vào cung nào là nơi kế thần đóng. Tính năm nào, số tích niên là bao nhiêu. Lấy số 12 theo phép Đại tiểu chu mà chia. Mười hai thân là từ Tý, Sửu đến Tuất, Hợi – số dư (kể cả 12) là ngôi ở của kế thần. Cách tính như sau: lấy năm Tý khởi từ cung Dần, tính ngược lại, tới đâu là biết cung kế thần đóng Bốn cách tính theo niên kế, nguyệt kế, nhật kế, thời kế đều tính nghịch. Duy có tính nhật kế, thời kế từ Hạ chí dùng cục âm, khởi Tý từ cung Thân tính nghịch lại. Năm Tý khởi từ Dần, đi ngược 12 năm là hết 1 vòng trời (chu thiên) Trình tự khởi từ Dần, tính nghịch 12 địa chi: Dần – Sửu – Tý – Hợi – Tuất – Dậu – Thân – Mùi – Ngọ - Tị - Thìn – Mão – (Dần)… Tính theo nhật kế, thời kế từ hạ chí dùng âm cục, trình tự khởi từ Thân, tính nghịch 12 địa chi: Thân – Mùi – Ngọ - Tị - Thìn – Mão – Dần – Sửu – Tý – Hợi – Tuất – Dậu – (Thân)… Ví dụ 1 Tìm kế thần của năm Canh Ngọ, niên hiệu chính trị năm thứ 13 triều Lê. Được số tích niên là 10.155.487 năm Lấy số 10.155.478 chia cho số 12. Được số dư là 7. Khởi năm Giáp tý kể là 1, từ Dần tính ngược đến 7 thấy Canh ngọ ở cung Thân, tức là kế thần ở cung Thân. Cụ thể là: 1-Năm Tý tại Dần (tính nghịch) 2-Năm Sửu tại Sửu 3-Năm Dần tại Tý 4-Năm Mão tại Hợi 5-Năm Thìn tại Tuất 6-Năm Tị tại Dậu 7-Năm Ngọ tại Thân (cung kế thần đóng) Muốn tìm cục năm Canh Ngọ trong ví dụ, ta lấy số tích niên 10.155.487 chia cho số 3600. Được số dư là 247. Lấy số dư 247 chia cho số 72, được số dư là 31. Năm Canh Ngọ trong ví dụ tương ưng với năm 1570 dương lịch, thuộc nguyên Canh Tý dương (theo bảng A). Ta nói: Năm Canh Ngọ niên hiệu Chính trị năm thứ 13, triều Lê, tương ứng năm dương lịch 1570 có dương niên cục 31, nguyên Canh Tý dương – trung nguyên. Sao kế thần đóng cung Thân. Ví dụ 2: Tìm kế thần năm 1592 Được số tích niên là 10.155.509 năm. Lấy số 10.155.509 năm chia cho số 12, được số dư là 5. Tính toán như sau: 1-Năm Tý tại Dần 2-Năm Sửu tại Sửu 3-Năm Dần tại Tý 4-Năm Mão tại Hợi 5-Năm Thìn tại Tuất (cung kế thần đóng) Muốn tìm niên cục 1592, ta lấy số tích niên 10.155.509 năm chia cho số 3600. Được số dư là 269. Lấy số dư 269 chia cho số 72, được số dư là 53. Ta nói: Năm 1592 có dương niên cục 53 nguyên Canh Tý dương – trung nguyên. Sao kế thần đóng cung Tuất. Ví dụ 3: Tìm kế thần năm 1599, được số tích niên là 10.155.516 năm. Lấy số tích niên 10.155.516 chia cho số 12, được số dư là 12. Tính toán như sau: 1-Năm Tý tại Dần 2-Năm Sửu tại Sửu 3-Năm Dần tại Tý 4-Năm Mão tại Hợi 5-Năm Thìn tại Tuất 6-Năm Tị tại Dậu 7-Năm Ngọ tại Thân 8-Năm Mùi tại Mùi 9-Năm Thân tại Ngọ 10-Năm Dậu tại Tị 11-Năm Tuất tại Thìn 12-Năm Hợi tại Mão (cung kế thần đóng) Muốn tìm niên cục năm 1599, ta lấy số tích niên 10.155.516 năm chia cho số 3600, được số dư là 276. Lấy số dư 276 chia cho 72, được số dư là 60. Ta nói: Năm 1599 dương lịch có dương niên cục 60 nguyên Canh tý dương – trung nguyên. Sao kế thần đóng tại cung Mão. SAO VĂN XƯƠNG Còn có tên là Thiên mục. Như phép thời kế dùng cách này để dẹp quân đánh úp và nghe ngóng tình hình giặc để phòng bị. Phương pháp tính: Văn xương thiên mục khởi Thân hương Thập lục cung gian thuận suy tường Số chí càn khôn lưu song toán Âm cục khởi Dần cấn tốn phương Tích niên thập bát luỹ trừ ngoại Dự đoán trú xứ tứ Văn xương. Văn xương thiên mục khởi từ cung Thân. Trong khoảng 16 cung tích thuận đến cung Càn Khôn, lưu lại 2 số. Âm cục khởi từ cung Dần, tính đến cung Cấn, cung Tốn cũng lưu lại 2 số. Tích số của năm chia cho số 18. Số dư tính đến cung Mão là Văn xương ở cung ấy. Mười sáu cung tương ứng với 16 thần là: 1-Càn: Ân đức.................. 9-Tốn: Đại trắc 2-Hợi: Đại nghĩa...............10-Tị: Đại thần 3-Tý: Địa chu...................11-Ngọ: Thiên uy 4-Sửu: Dương đức.............12-Mùi: Thiên đạo 5-Can: Hoà đức................13-Khôn: Đại vũ 6-Dần: La hầu..................14-Thân: Vũ đức 7-Mão: Cao tùng...............15-Dậu: Thái thốc 8-Thìn: Thái dương...........16-Tuất: Âm chủ Số tích niên là bao nhiêu, đem chia cho số 18 của phép cục chu. Số còn lại không đủ 18, tính bắt đầu từ cung Thân, thuận theo 16 thần. Nếu gặp cung Càn, cung Khôn lưu lại một số, số dư tính đến cung nào thì Văn xương ở cung ấy. Ví dụ 1: Xem năm Canh Ngọ niên hiệu Chính trị năm thứ 13 triều Lê tương ứng với năm 1570 dương lịch. Được số tích niên là 10.155.487 năm. Chia số 10.155.487 cho số 18 của phép cục chu, được số dư là 13. Khởi từ cung - Thân kế là 1 - Dậu kế là 2 - Tuất kế là 3 - Càn kế là 4,5 (tính 2 lần) - Hợi kế là 6 - Tý kế là 7 - Sửu kế là 8 - Cấn kế là 9 - Dần kế là 10 - Mão kế là 11 - Thìn kế là 12 - Tốn kế là 13 (cung Văn xương đóng) Cung Tốn theo hệ 16 thập tương ứng với Đại trắc. Vậy theo phép tính nói trên, năm Canh Ngọ (1570) Văn xương thiên mục ở cung Đại trắc (Tốn). Muốn tìm niên cục năm Canh ngọ (1570), ta lấy số tích niên 10.155.487 năm chia cho số 3600, được số dư là 247. Lấy số dư 247 chia cho số 72, được số dư là 31. Năm Canh Ngọ (1570) thuộc nguyên Canh tý dương (theo bảng A) – trung nguyên. Dương niên cục 31. Ta nói: Năm Canh Ngọ (1570) có dương niên cục 31, nguyên Canh tý dương – trung nguyên. Sao Văn xương thiên mục đóng tại cung Đại trắc (Tốn) Ví dụ 2: Tìm Văn xương thiên mục năm 1592 dương lịch. Được số tích niên là 10.155.509 năm. Chia số 10.155.509 cho số 18 của phép cục chu, được số dư là 17. Khởi từ cung: - Thân kế là 1 - Dậu kế là 2 - Tuất kế là 3 - Càn kế là 4,5 (tính 2 lần) - Hợi kế là 6 - Tý kế là 7 - Sửu kế là 8 - Cấn kế là 9 - Dần kế là 10 - Mão kế là 11 - Thìn kế là 12 - Tốn kế là 13 - Tị kế là 14 - Ngọ kế là 15 - Mùi kế là 16 - Khôn kế là 17 (cung Văn xương đóng) Vậy theo phép tính nói trên, năm 1592 dương lịch, Văn xương thiên mục ở cung Đại vũ (Khôn). Muốn tìm niên cục năm 1592, ta lấy số tích niên 10.155.509 chia cho số 3600, được số dư là 269. Lấy số dư 269 chia cho số 72, được số dư là 53. Ta nói: Năm 1592 có dương niên cục 53, nguyên Canh tý dương (theo bảng A) – trung nguyên. Sao Văn xương thiên mục đóng tại cung Đại vũ (Khôn) Ví dụ 3: Tìm Văn xương thiên mục năm 1599 dương lịch. Được số tích niên là 10.155.516 năm. Chia số 10.155.516 cho số 18 của phép cục chu, được số dư là 6. Khởi từ cung: - Thân kế là 1 - Dậu kế là 2 - Tuất kế là 3 - Càn kế là 4,5 (tính 2 lần) - Hợi kế là 6 (cung Văn xương đóng) Vậy theo phép tính nói trên, năm 1599 dương lịch có Văn xương thiên mục ở cung Đại nghĩa (Hợi). Muốn tìm niên cục năm 1599 dương lịch, ta lấy số tích niên 10.155.516 chia cho số 3600, được số dư là 276. Lấy số dư 276 chia cho số 72, được số dư là 60. Ta nói: Năm 1599 có dương niên cục 60, nguyên Canh tý dương – trung nguyên. Sao Văn xương thiên mục đóng tại cung Đại nghĩa (Hợi) 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 29 Tháng 5, 2010 SAO KHÁCH MỤC THUỶ KÍCH Sao khách mục Thuỷ kích còn có tên là Địa mục. Như phép thời kế, dùng cách này để an vị khách là kỳ binh và nghe ngóng tình hình quân giặc để chuẩn bị đối phó. Phương pháp tính là: Khách mục Thuỷ kích khởi nguyên nhân, Cấn vi hoa đức, gia kế thần Văn xương lâm xứ vi Thuỷ kích Khách mục tất ta khán Thiên luân. Chỗ khởi đầu để tìm khách mục Thuỷ kích: Cấn là Hoa đức, gia vào kế thần. Nói chung Văn xương tới là thuỷ kích. Khách mục tất xem Thiên luân. Hiểu rõ nơi Kế thần đóng, đặt Hoa đức vào đó. Xem trên niên bàn, Văn xương tới cung nào là Thuỷ kích ở đó. Ví dụ 1: Xem năm Canh Ngọ, niên hiệu Chính trị năm thứ 13 triều Lê, tương ứng với năm 1570 dương lịch. Kế thần năm 1570 ở Thân, gia cung Cấn (Hoà đức) Tính thuận Dậu gia cung Dần (La thân) ...............Tuất gia cung Mão (Cao tùng) ...............Càn gia cung Thìn (Thái dương) ...............Hợi gia cung Tốn (Đại trắc) ...............Tý gia cung Tị (Đại thần) ...............Sửu gia cung Ngọ (Thiên uy) ...............Cấn gia cung Mùi (Thiên đạo) ...............Dần gia cung Khôn (Đại vũ) ...............Mão gia cung Thân (Vũ Đức) ...............Thìn gia cung Dậu (Thái thốc) Văn xương năm 1570 ở Tốn gia cung Tuất (âm chủ) – Thuỷ kích đóng. Ta nói: Năm Canh Ngọ (1570) Thuỷ kích đóng tại Tuất, âm chủ. Dương niên cục 31, nguyên Canh tý dương – trung nguyên. Ví dụ 2: Tìm vị trí của sao Thuỷ kích năm 1592 dương lịch. Kế thần năm 1592 dương lịch ở Tuất, gia cung Cấn (Hoà đức) Tính thuận Càn gia cung Dần (La thân) ................Hợi gia cung Mão (Cao tùng) ................Tý gia cung Thìn (Thái dương) ................Sửu gia cung Tốn (Đại trắc) ................Cấn gia cung Tị (Đại thần) ................Dần gia cung Ngọ (Thiên uy) ................Mão gia cung Mùi (Thiên đạo) ................Thìn gia cung Khôn (Đại vũ) ................Tốn gia cung Thân (Vũ Đức) ................Tị gia cung Dậu (Thái thốc) ................Ngọ gia cung Tuất (Âm chủ) ................Mùi gia cung Càn (Âm đức) Văn xương năm 1592 ở Khôn gia cung Hợi (Đại nghĩa) – Thuỷ kích đóng. Ta nói: Năm 1592 dương lịch Thuỷ kích đóng tại Hợi, Đại nghĩa. Dương niên cục 53, nguyên Canh tý dương – trung nguyên. Ví dụ 3: Tìm vị trí của sao Thuỷ kích năm 1599 dương lịch. Kế thần năm 1599 dương lịch ở Mão, gia cung Cấn (Hoà đức) Tính thuận Thìn gia cung Dần (La thân) ................Tốn gia cung Mão (Cao tùng) ................Tị gia cung Thìn (Thái dương) ................Ngọ gia cung Tốn (Đại trắc) ................Mùi gia cung Tị (Đại thần) ................Khôn gia cung Ngọ (Thiên uy) ................Thân gia cung Mùi (Thiên đạo) ................Dậu gia cung Khôn (Đại vũ) ................Tuất gia cung Thân (Vũ Đức) ................Càn gia cung Dậu (Thái thốc) Văn xương năm 1599 ở Hợi gia cung Tuất (Âm chủ) – Thuỷ kích đóng. Ta nói: Năm 1592 dương lịch Thuỷ kích đóng tại Tuất, Âm chủ. Dương niên cục 60, nguyên Canh tý dương – trung nguyên. TÌM CHỦ KHÁCH TỪNG NĂM Phương pháp tính: Chủ, khách nhị mục toán như hà Chỉ khán hành cung số kỷ đa Gián thần khơi nhật, tứ cung tứ, Lục cung khởi lục, thuận hành qua. Thái ất cung tiền, bất lãng việt, Đắc số tiện vi chủ toán ma. Hữu thần nhị mục lâm Thái ất, Chỉ thử cung trung chỉ toán ca. Chủ và khách hai vị tính như thế nào ? Chỉ cầu xin cung đi số là bao nhiêu ? Tính chủ từ Văn xương, tính khách từ Thuỷ kích. Thuỷ kích phối gián thần khởi 1. Cung 4 khởi từ 4, cung 6 khởi từ 6.Tính thuận, đến trước cung Thái ất ngừng lại. Số tìm được là chủ. Nếu hai thần Chủ và Khách lâm vào Thái ất, lấy cung đó và ngừng tính. Cần biết rõ Văn xương, Thuỷ kích, dấu cung nào (theo bát quái). Bắt đầu tính cùng với ngôi gián thần (Dần, Thân, Tị, Hợi – Thìn , Tuất, Sửu, Mùi) Nếu như cung quái vị là đầu tiên tất xét số cung thuộc quái vị để khởi tính. Nếu gián thần là ngôi đầu tiên, lấy số 1 mà tính, rồi tính tiếp theo thứ tự xác định. Không tính số ngôi gián thần, đều đến trước cung Thái ất là ngưng lại. Xem số dư là bao nhiêu, lấy chủ khách mà tính. Nếu Nhị mục đóng ở cung có Thái ất, tất cả y số của cung ấy mà ghi số cung của khách đóng. Ví dụ 1: Năm Canh Ngọ, niên hiệu Chính trị năm thứ 13 triều Lê, tương ứng năm 1570 dương lịch. Dương niên cục 31, tìm cung chủ đóng. Phép tính diễn ra như sau: Tính chủ từ Văn xương. Ta biết rằng năm 1570 Văn xương đóng tại cung Tốn 9. Tính khởi từ số: .................9 Tốn. Tính thuận theo cấu trúc bát quái .................2 Ly .................7 Khôn .................6 Đoài .................1 Càn .................8 Khảm (đến Cấn là cung Thái ất đóng, phải ngừng lại) Cộng được: 33 Số không quá 5 là Vô địa. Lại tính khách. Lấy Thuỷ kích gián thần đóng là số 1. Thuỷ kích đóng: Cung Tuất (gián thần)..số 1 (theo bát quái) Cung Càn (gián thần)...số 1 Cung Khảm (gián thần) số 8 (Thái ất đóng cung Cấn 3) .....................Cộng là :..10 Được số 10, không vào cửa Tù mà là Hoà. Định nghĩa một số khái niệm: Phát: Nếu đại, tiểu tướng (Tham tướng) không ở cùng 1 cửa. Văn xương không bị Tù, Bách. Thuỷ kích không bị yểm kích là Tướng phát. Phát có nghĩa là lợi mà hưng phát thành công. Quan: Nếu như đại, tiểu tướng ở cùng một cửa. Văn xương gặp Tù, Bách. Thuỷ kích gặp yểm kích là tướng không phát động được. Bởi vì số tính của Chủ Khách cùng 1 cung với Thái ất. Văn xương hoặc đại, tiểu tướng lại có số cùng bằng nhau là Quan. Quan có nghĩa là hai bên giao chiến tranh đoạt nhau, thế một sống một chết, nếu cứ làm sẽ bất lợi. Chủ khi tính được đa (nhiều) và hoà là thắng. Nếu tính được thiểu (ít) và bất hoà là bại. Tù: Thái ất cùng Văn xương, Đại, tiểu tướng xâm lấn nhau, dưới phạm trên, bị táng vong, thua bại. Bách: Hai bên Tủ Hữu Thái ất gặp Thiên mục, Địa mục và Đại, Tiểu tướng bức sát bản cung; biểu lộ trên dưới lấn át nhau, tả hữu bức bách nhau. ........Trước là ngoài, sau là trong. Giờ (thần) là cấp cung là hoan; ở sau Thái ất. ........Thái tuế ở trước cung Thái ất là phản. Yểm: Là Thuỷ kích tới cung Thái ất. Âm thịnh dương suy, trên lấn át, dưới tiếm quyền. Thấy như vậy tất dùng mệnh toán để phối hợp xem hoà hay bất hoà. Tính được hoà là tốt, bất hoà là xấu. ........Thái ất ở các cung 3, 8, 4, 9 là dương; mà tính được số 1, 3, 5, 7 là lẻ, lóc dương; thế là trùng dương, chủ về hạn hán, hoả tai. ........Nếu Thái ất ở các cung 1, 6, 2, 7 là âm; mà tính được số 2, 4, 6, 8 là chẵn; là trùng âm, chủ về mưa lụt, nước to. Đều là theo số tính thấy bất hoà. ........Nếu Thái ất ở cung dương, tính được số chẵn; ở cung âm tính được số lẻ, là tính được hoà. ........Hai sao Thiên mục, Địa mục lấy các cung Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài là dương; mà lấy Hợi, Sửu, Dần, Thân, Tị, Mùi, Thân, Tuất (ngôi gián thần) là âm. ........Nếu ở cung dương tính được số chẵn, ở cung âm tính được số lẻ là hoà; trái lại là bất hoà. ........Số 3, 9 gặp cung Dần, Thìn là thuần dương. Số 4, 8 gặp cung Sửu, Tị là tạp dương. ........Số 3, 6 gặp Hợi, Mùi là thuần âm. Số 1, 7 gặp Thân, Tuất là tạp âm. Các số 33, 39 tính được là trùng dương; các số 22, 26 tính được là trùng âm. .......Thái ất, Thiên mục đóng ở cung âm mà số tính được 24, 28 là tạp trùng âm tai hoạ rất lớn. .......Thái ất, Thiên mục đóng ở cung dương, số tính được 13, 19, 31, 37 là tạp trùng dương, tai hoạ vừa vừa, quá lắm là trong ngoài có lập mưu. .......Thái ất, Thiên mục ở cung âm mà số tính được 11, 17 là dương ở trong âm. Bên trong có âm mưu; đều lấy số tính được nhiều và hoà là thắng, trái với thế là bại. .......Thái ất, Thiên mục đóng ở cung dương, số tính được 33, 39 là thuần dương, là thái quá, chủ về điều hung, về vua bạo ngược. .......Thái ất, Thiên mục đóng ở cung âm mà số tính được 22, 26 là thuần âm; thái quá cũng là yểm. Nếu gặp cung 2, cung 8 là định khí; cung 4, cung 6 là tuyệt khí. .......Tính “niên kế” là nhà vua gặp hung; cung 9 là thuần âm. Cung 1 là tuyệt dương, bề tôi gặp điều dữ xấu, bị giết. Kích: là Thuỷ kích bức bách gần Thái ất. Phía trước là tả, phía sau là hữu, bên trong đâm chém nhau, trên lấn át, dưới tiếm quyền. Nếu gặp giờ “kích” tai hoạ rất lớn. Nếu gặp cung “Kích” tai hoạ chậm hơn. Bên trong gặp rắc rối từ các bà hậu, bà phi; bên ngoài gặp phiền nhiễu từ ngoại quốc. Ví dụ 2: Tính Chủ Khách năm 1592 dương lịch. Dương niên cục 53. Nguyên Canh tý dương , trung nguyên. Thái ất đóng tại cung Ly 2 – Lý địa Văn xương đóng tại cung Đại vũ (Khôn 7) Thuỷ kích đóng tại cung Hợi – Đại nghĩa. Phép tính diễn ra như sau: Tìm cung Chủ đóng, trước hết tính từ Văn xương tại Khôn 7 .........................................................................Đoài 6 ..........................................................................Càn 1 ........................................................................Khảm 8 ..........................................................................Cấn 3 .........................................................................Chấn 4 ............Đến Ly 2 là cung Thái ất đóng phải ngừng lại Tốn 9 ...............................................................Cộng được: 38 Tìm cung Khách đóng, lấy Thuỷ kích gián thần đóng là số 1 Thuỷ kích đóng cung.........Hợi số 1 ..................................Khảm số 8 .....................................Cấn số 3 ...................................Chấn số 4 Thái ất đóng tại cung Ly 2 Tốn số 9.... ..............................Cộng được: 25 Thái ất đóng cung Ly 2 là âm. Số tính được 25 là lẻ. Ví dụ 3: Tính Chủ Khách năm 1599 dương lịch. Dương niên cục 60. Nguyên Canh tý dương , trung nguyên. Thái ất đóng tại cung Chấn 4 Văn xương đóng tại cung Đại nghĩa (Hợi) Thuỷ kích đóng tại cung Tuất, âm chủ. Phép tính diễn ra như sau: Tìm cung Chủ đóng, trước hết tính từ Văn xương tại Hợi 1 .....................................................................Khảm 8 ........................................................................Cấn 3 ...............................................Thái ất đóng tại Chấn 4 ............................................................Cộng được: 12 Tiếp đến tính Khách, lấy Thuỷ kích gián thần đóng là số 1 Thuỷ kích đóng cung Tuất số 1 ..............................Càn số 1 ...........................Khảm số 8 ..............................Cấn số 3 .....Thái ất đóng tại Chấn số 4 ......................Cộng được: 13 Thái ất đóng cung Chấn 4 là dương. Số tính được 13 là lẻ. 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 29 Tháng 5, 2010 TÌM CHỦ, KHÁCH ĐẠI TƯỚNG VÀ THAM TƯỚNG Phương pháp tính: Chủ, Khách, Đại tướng suy pháp đồng, Khứ thập linh giả tức hành cung. Thập toán khứ cửu, chỉ dụng nhất, Tham tướng y Đại tam nhân thống. Đắc số vi cung, thủ lĩnh số, Phát, bách, tù, quan, khán cát hung. Chủ, Khách, Đại tướng cùng 1 phép tính. Trừ 10, số thừa ra là hành cung. Mười trừ 9 còn 1; Tham tướng dựa vào phương pháp tìm Đại tướng. Số Đại tướng nhân 3 lấy số lẻ. Tính phát, bách, tù, quan để xem tốt hay xấu. Ví dụ 1: Xem năm Canh Ngọ, niên hiệu Chính trị năm thứ 13 triều Lê tương ứng với năm 1570 dương lịch. Dương niên cục 31. Chủ tính được là 33; trừ đi 30, dùng 3, là Đại tướng ở cung 3; mà Thái ất cùng ở cung 3, là TÙ. Tù là có sự tang ma, vong bại. Chủ Tham tướng lấy số 3 của Đại tướng mà nhân với 3 (3 x 3 = 9), tức là chủ Tham tướng ở cung 9, mà Văn xương cũng ở cung 9; cũng là TÙ, là xấu. Tiếp đến tính Khách là 10. Bỏ 9 chỉ dùng 1 tức là Khách Đại tướng ở cung 1. Không gặp tù, bách, yểm, kích là tướng phát, là cát. Lấy 3 x 1 vẫn là 3, tức là Khách Tham tướng ở cung 3, cũng cùng cung với Thái ất tức là TÙ, là tiểu tướng bất lợi. Cục này, Thái ất tuy trợ Chủ, mà Chủ lại bất hoà. Hai tướng gặp tù nên an cư, không thể hành động trước. Khách hoà, tướng phát, lợi về khách. Nên an cư, lợi về hành động sau. Thiên mục ở trước là trong có thể công ngoài; ở sau là ngoài có thể công trong. Từ Càn đến Thìn là trong. Từ Tốn đến Tuất là ngoài. Thái ất ở các cung 1, 8, 3, 4 là “Thiên nội” là trợ Chủ, không thể đem quân cống phạt, muốn đánh địch, không nên khởi động trước, nên hậu ứng. Thái ất ở các cung 2, 9, 6, 7 là “Thiên ngoại”, là trợ Khách, lợi việc lấy binh đánh dẹp. Nếu muốn đánh địch phải đánh trước, không nên khởi động sau. Ví dụ 2: Xem năm 1592 dương lịch. Dương niên cục 53. Thái ất đóng cung Ly 2 hai năm Văn xương đóng cung Đại vũ (Khôn 7) Chủ tính được là 38 Khách tính được là 25 Chủ tính được 38; trừ đi 30, dùng 8. Tức là Đại tướng ở cung 8, mà Thái ất ở cung 2, không bị TÙ. Chủ tham tướng lấy số 8 của Đại tướng mà nhân với 3 (8 x 3 = 24). Trừ đi 20, dùng số 4.Tức là Chủ tham tướng ở cung 4, mà Văn xương đóng ở cung 7, Thái ất ở cung 2, không bị TÙ. Khách tính được số 25. Bỏ đi 20, dùng số 5, tức là Khách đại tướng ở cung 5 mà Thái ất ở cung 2, Văn xương đóng cung 7 là không bị TÙ. Lấy 3 x 5 = 15. Bỏ đi 10, dùng số 5, tức là Khách tham tướng đóng cung 5, mà Thái ất đóng cung 3, Văn xương đóng cung 7, là không bị tù. Ví dụ 3: Xem năm 1599 dương lịch. Dương niên cục 60. Thái ất đóng cung Chấn 4 Văn xương đóng cung Hợi Chủ tính được là 12 Khách tính được là 13 Chủ tính được 12, bỏ đi 10, dùng số 2; tức là Chủ đại tướng đóng cung Ly 2 mà Thái ất đóng cung Chấn 4, Văn xương đóng cung Hợi, là không bị tù. Chủ tham tướng lấy số 2 của Chủ đại tướng nhân với 3 (2 x 3 = 6). Tức là Chủ tham tướng đóng cung Đoài 6, mà Thái ất đóng cung Chấn 4, Văn xương đóng cung Hợi là không bị tù. Khách tính được số 13. Bỏ đi 10, dùng số 3; tức là Khách đại tướng đóng cung Cấn 3; mà Thái ất đóng cung Chấn 4, Văn xương đóng cung Hợi là không bị tù. Lấy 3 x 3 = 9. Tức là Khách tham tướng đóng cung Tốn 9. Thái ất đóng cung Chấn 4, Văn xương đóng cung Hợi, là không bị tù. PHÉP TÌM ĐỊNH KẾ MỤC Phương pháp tính: Vi Khách tối nan minh định kế. Tiệm dĩ Tuế hợp gia tuế chi. Văn xương lâm sứ vi khởi toán. Thái ất cung tiền chỉ toán thì. Đại, Tham diệc như Chủ, Khách pháp, Tù, quan, cách, đôi tu bất nghi. Là Khách rất khó rõ cho nên định kế mục. Bèn lấy tuế hợp gia vào tuế chi. Khởi tính từ cung Văn xương đóng. Ngừng lại trước cung Thái ất. Đại tướng, Tham tướng cũng giống phép tính chủ. Khách gặp tù, quan, cách, đôi là không hợp. Xem trên thiên bàn thấy Văn xương đến cung nào, tất cung Thân ở dưới là Kê mục. Lấy cung bản vị khởi tính như cung thân x là đầu tiên, theo cung số để khởi tính gián thần x là đầu tiên. X khởi số 1 mà tính, sau chi dùng cung thân x. Tính số đến trước cung Thái ất thì ngừng lại. Xem số “kích” được bao nhiêu, trừ 10 dùng số lẻ. Số đó là nơi định kế mục Đại tướng đóng. Lấy số đó nhân với 3 là nơi định kế Tham tướng đóng. Xem tù, cách, bách, quan cũng như phép trước. Tác dụng của định kế mục: Tình hình của Khách (đối phương) khó tiên đoán, cho nên lập phép định kế mục để trùng thẩm. Ví dụ 1: Xem năm Tân Mùi, niên hiệu Chính trị, năm thứ 14 triều Lê (tương ứng với năm 1571 dương lịch) để định kế mục. Năm ấy Thái ất đi vào cục 32 dương. Thái ất ở cung 3 Cấn, Thiên mục ở Tị, Đại thần. Lấy Tuế hợp, viết chữ Ngọ trên tuế chi Mùi Tuế hợp: Tí hợp Sửu Dần hợp Hợi Mão hợp Tuất Thìn hợp Dậu Tị hợp Thân Ngọ hợp Mùi Nhìn Thiên mục Văn xương ở Tị, lâm vào trên cung 2 Ly – Ngọ (thiên uy), vậy Ngọ là cung để định kế mục. Ngọ là đầu tiên ở cung Ly số 2 (khởi tính thuận) Khôn – 7 Đoài – 6 Càn – 1 Khảm – 8 Thái ất đóng cung Cấn – 3 Cộng được = 24 Không có quân, tù, cách, bách là hoà Bỏ đi 20, còn 4. Vậy Khách định kế Đại tướng tại cung 4. Lấy 4 x 3 = 12. Bỏ đi 10, còn 2; tức là Khách định kế Tham tướng ở cung 2. Ví dụ 2: Định kế mục năm 1570 dương lịch, tướng ứng với năm Can chi âm lịch là Canh ngọ. Dương niên cục 31. Thái ất đóng cung 3 Cấn. Văn xương tại 9 Tốn, Đại trắc. Lấy tuế hợp, viết chữ Mùi trên tuế chi Ngọ: Mùi – Ngọ (Ly 2) Văn xương ở Tốn 9 trên gián thần Tị Tị là đầu tiên số 1 Ly la đầu tiên số 2 Khôn là đầu tiên số 7 Đoài là đầu tiên số 6 Càn là đầu tiên số 1 Khảm là đầu tiên số 8 Thái ất tại cung 3 Cấn Cộng được : 25 Bỏ đi 20, còn 5.Vậy Khách định kế Đại tướng tại cung 5. Lấy 5 x 3 = 15 Bỏ đi 10, còn 5; tức là Khách định kế Tham tướng cũng ở cung 5. Ví dụ 3: Định kế mục năm 1592 dương lịch, tương ứng với năm can chi âm lịch là Nhâm Thìn. Tuế hợp của tuế chi Thìn là Dậu. Viết chữ Dậu trên tuế chi Thìn: Dậu – Thìn dương niên cục 53. Thái ất đóng cung Ly 2 Văn xương đóng cung Khôn 7, Đại vũ. Văn xương ở Khôn 7 trên gián thần Thân Thân là đầu tiên số 1 Đoài là đầu tiên số 6 Càn là đầu tiên số 1 Khảm là đầu tiên số 8 Cấn là đầu tiên số 3 Chấn là đầu tiên số 4 Tốn là đầu tiên số 9 Thái ất đóng Ly 2 Cộng được : 32 Bỏ đi 30, còn 2. Vậy Khách định kế Đại tướng ở cung 2. Lấy 2 x 3 = 6 Vậy khách định kế Tham tướng ở cung 6. 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 29 Tháng 5, 2010 PHÉP TÌM BÁT MÔN TRONG TUẾ KẾ Phương pháp tính: Tuế kế bát môn trí tích niên Nhị Thiên tứ bách luỹ trừ tiên. Thiên hạ phụ trừ nhị bách tử Dư toán khai môn vị thủ truyền. Tam thập ước chi cầu sứ trực Mệnh gia Thái ất tả chu truyền Khai, Hưu, Sinh môn vị tam cát Đỗ, Tử, Thương hồ đại hưng ngôn Kinh vãn tiểu hưng, cảnh tiểu cát Vượng, Tướng bội hề, khắc giảm yêu. Thái ất, Thiên mục cát môn lập Tam bất cụ hề, nghi thủ kiên Tam môn cụ hề, ngũ tướng phát Xuất sư chiến thắng, tất công tuyền. Phương pháp tính là: Tìm năm xem Bát môn, lấy số tích niên chia cho số 2400. Dưới 1000 chia tiếp cho 240. Số dư tính bắt đầu từ khai môn. Lấy số 36 mà ước đi để tìm Trực sứ. Gia Thái ất lên đây mà tính thuận đi. Ba cửa cát là Khai, Hưu, Sinh. Ba cửa Đỗ, Tử, Thương là đại hung. Cửa Kinh xấu vừa, của Cảnh lành vừa. Gặp Vượng, Tướng thì tăng bội. Gặp khắc, giảm bớt. Thái ất, Thiên mục đứng ở cát môn. Ba cửa không đủ, nếu cố thủ bền bỉ. Ba cửa đủ, năm tướng phát, ra quân chiến đấu tất thắng hoàn toàn. Số tích niên là bao nhiêu, lấy phép Đại Chu bát môn là 2400 trừ dần đi. Dưới số 1000, trừ tiếp cho 240. Không đủ 240 là số dư của môn chu, lấy từ môn ước dần đi với số 30, đặt khi môn tính thuận, tức là được trực sứ của Bát môn. Lấy trực sứ gia Thái ất, tính quay về trái, tức là biết cửa nào thuộc khu phận nào, tai hoạ hay cát lợi. Bát môn là Hưu, Sinh, Thương, Đỗ, Cảnh, Tử, Kinh, Khai. Nếu tính theo Lạc thư, bát môn thứ tự như sau: 1-Hưu 5-Khai 2-Tử 6-Kinh 3-Thương 7-Sinh 4-Đỗ 8-Cảnh Có cửa cát, có cửa hung. Phương nào gặp Vượng, Tướng có khí, phúc sẽ tăng gấp bội. Phương nào gặp khắc chế, không có khí, sự lành dữ giảm đi một nửa. Mỗi cửa 30 năm 1 lần đổi thế là 30 x 8 = 240 năm hết 1 Chu (vòng) của 8 cửa. Lấy cửa Khai là đầu tiên, tính vòng theo trái. Hết vòng lại bắt đầu. Nếu Thái ất, Thiên mục ở dưới cửa Khai và Sinh là 2 cửa không đủ: vì Hữu và Đỗ đối nhau. Sinh và Tử đối nhau. Đứng ở đất lành hướng về cửa xấu. Nếu không đủ đã có cửa cảnh ở giữa 2 cửa Đỗ và Tử. Nếu Thái ất, Thiên mục ở dưới cửa Hưu, là 3 cửa không đủ: vì cửa Hưu và cửa Cảnh đối nhau, là bên trái bên phải bị cách ức ở cửa Đỗ và cửa Tử. Bất lợi cho việc dấy quân Nếu ba cửa đủ, năm tướng phát, tám cửa khai thông, đường sá thanh thản, chiến đấu thắng lợi cả về công và thủ. Năm tướng là: Thái ất là gián tướng Văn xương là chủ thương tướng Thuỷ kích là khách thương tướng Hai Đại tướng của Chủ và Khách. Nếu Thuỷ kích không bị yểm, kích; Văn xương không bị tù, bách, Đại tiểu tướng không tương quan, và số tính được là trường hoà, là 5 tướng phát. Cửa không đủ, tướng không phát, cửa lấy không thông là điềm quân bị thua, tướng bị chết. Ví dụ 1: Xem năm Tân Mùi, niên hiệu Chính trị năm thứ 14, tìm Trực sứ, tương ứng với năm 1571 dương lịch. Số tích niên được 10.155.488 năm Lấy phép Đại chu bát môn mà chia. Số dư là 128. Dưới số 240, nên lấy số 30 của bát môn trừ dần đi. Bắt đầu từ Khai môn, trừ đi 30. Hưu môn trừ đi 30. Sinh môn trừ đi 30. Thương môn trừ đi 30 Trừ qua 4 cửa là 120. Còn dư là 8. Vậy Trực sứ ở cửa Đỗ. Lấy Đỗ gia Thái ất ở cung 3 Cấn, tức là cửa Cảnh ở cung 4 Chấn, cửa Tử ở cung 9 Tốn, cửa Kinh ở cung 2 Ly, cửa Khai ở cung 7 Khôn, cửa Hưu ở cung 6 Đoài, cửa Sinh ở cung 1 Càn, cửa Thương ở cung 8 Khảm, mà thấy được lành hay dữ. Năm ấy, Thái ất ở dương niên cục 32, đóng cung 3 Cấn; hợp với cửa Đỗ. Thiên mục ở Tị, hợp với cửa Tử; Chủ tính được là 2, 10, 5 cửa Đỗ. Thuỷ kích ở Tý kích Thái ất. Khách tính được là 8, đoản. Khách Đại tướng bị nội bách. Khách Tham tướng là ngoại bách. Kế thần ở Mùi Cục này, Thái ất Thiên mục không đứng ở ba cửa Khai, Hưu, Sinh là tam cát môn (là ba cửa đều đủ, có thể xuất quân). Thái ất gặp Thuỷ kích. Khách Đại tướng, Tham tướng gặp kích Bách. Chủ nhân ở cửa Đỗ là vô môn. Như số khách đoản. Chủ - Khách đều bất lợi, không thể đánh một cách miễn cưỡng. Ví dụ 2: Xem năm 1924, tương ứng với năm Can chi âm lịch là Giáp Tý. Số tích niên là 10.155.841 năm Lấy số tích niên 10.155.841 năm chia cho số 2400. Số dư được 1.441. Chia tiếp số 1441 cho 240. Số dư được 1. Vậy Trực sứ ở Khai môn. Năm 1924, Thái ất ở dương niên cục 1, đóng tại cung 1 Càn. Lấy Khai gia Thái ất ở cung 1 Càn. Vậy Khai môn cũng tại cung 1 càn. Trực sứ cũng ở Khai môn. Văn xương đóng tại cung Thân, hợp với cửa tử Thuỷ kích đóng tại cung 7 Khôn hợp với cửa tử Ví dụ 3: Xem năm 1954, tương ứng với năm Can chi âm lịch là Giáp Ngọ. Số tích niên là 10.155.871 năm Lấy số 10.155.871 năm chia cho số 2400. Số dư được 1471. Chia tiếp số 1471 cho số 240. Số dư được 31. Bắt đầu từ khai môn, trừ đi 30, còn dư 1. Vậy trực sứ ở Hưu môn. Năm 1954, Thái ất ở dương niên cục 55, đóng tại cung 3 Cấn Lấy Hữu môn gia vào Thái ất tại cung Cấn 3 Văn xương đóng tại cung Mão hợp với cửa Hưu Thuỷ kích đóng tại cung Sửu hợp với cửa Khai 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 29 Tháng 5, 2010 TÌM THÁI ẤT TRONG NGUYỆT KẾ Phương pháp tính: Nguyệt kế chi pháp tuế kế đồng Thái ất tam nguyệt di nhất cung Tiên bố tích niên giảm nhất toán Nguyệt thực thập nhị thừa chi công Tam bách lục thập trừ bất tận Dư toán nhập cục, lý tư thông Thái ất cứ 3 tháng là rời 1 cung. Trước tiên, đặt số tích niên của năm, rồi giảm đi 1. Số tháng dư nhân với 12; rồi chia cho 360. Số dư là nơi nguyệt kế Thái ất đóng. [(Tích niên – 1) x 12] / 360 = (Số dư / 60) : 72 = Cục Thái ất đóng Ví dụ 1: Tìm tháng Giêng năm Canh Ngọ, niên hiệu Chính trị năm thứ 13 triều Lê, tương ứng năm 1570 dương lịch. Nguyên kế có gốc tính là tháng Giáp Tý, năm Giáp tý, triều đại Nguyên gia nhà Tống – Trung Quốc. Ngày đầu tháng Giáp tý năm đó tương ứng với ngày 7 tháng 12 năm 424 dương lịch Số tích niên đến năm Canh Ngọ (1570) là 1.147 năm Giảm đi 1. Lấy số 12 tháng nhân lên, được số tháng Dần là 13.752 tháng, chia với số 3600. Số dư dưới 3600 chia tiếp cho số 360, được số dư là 72. Số 72 lấy phép chu kỳ 60 chia 1 lần 60 là Thượng nguyên Giáp tý. Kỷ thứ nhất số dư là 12. Từ Giáp tý đến Ất Hợi là trúng số 12 tháng. Vậy tháng 10 của năm Kỷ Tị là tháng Ất Hợi vào kỷ thứ 2, trung nguyên Giáp Tý. Lại từ tháng 11 đến tháng giêng, lấy 3 mà tính được số 15. Tức là biết tháng giêng năm Canh Ngọ là tháng Mậu Dần. Số dư 72 nói trên, thêm 3 là 75, chia cho 72, dư 3 là tháng Mậu Dần, chính vào nguyên tý dương cục 3. Thái ất ở cung 1 Càn. Thiên mục ở Tuất. Chủ toán 1 chu Đại tướng ở cung 1. Chủ Tham tướng ở cung 3. Kế thần ở Tý, Thuỷ kích ở Hợi. Khách toán số 40. Khách Đại tướng ở cung 4. Khách Tham tướng ở cung 2. Ví dụ 2: X niên đầu tiên hiệu Nguyên gia nhà Tống, tháng 11 năm Giáp x đến năm Nhâm tý, tương ứng với năm1732 dương lịch. Được số tích niên là 1309 năm Số 1309 giảm đi 1 rồi tính. Lấy số 12 tháng mà nhân, được số tháng thực là 15.696 tháng. Chia 15.696 tháng cho số 3600, được số dư là 216. Lấy 216 chia tiếp cho số 60, được số dư là 36. Từ Giáp kể là 1, tính đến Kỷ Hợi vừa đúng 36. Đó là tháng 10 Kỷ Hợi năm Tân Hợi (trước năm Nhâm Tý đang tính); tức là vào kỷ nguyên Thượng nguyên Giáp tý Lại từ tháng 11 Canh tý năm Tân Hợi đến tháng giêng năm Nhâm tý thêm 3 số để tính, cộng với số dư 36 ở trên được 39; tức là tháng Nhâm Dần năm Nhâm tý. Số dư 216 nói trên, thêm 3 là 219. Lấy 219 chia cho 72, được số dư là 3; tức là tháng Nhâm Dần năm Canh tý đi vào nguyên Canh tý dương cục thứ 3. Thái ất ở cung 1 Thiên mục ở cung Tuất Chủ toán được 1 Chủ đại tướng đóng cung 3 Khách, toán được 40 Khách đại tướng đóng cung 4 Khách tham tướng đóng cung 2 Ví dụ 3: Xem năm Giáp tý niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 5 triều Lê, tương ứng với năm 1744 dương lịch. Từ gốc tính nguyệt kế đến năm 1744 được số tích niên là 1321 năm. Số 1321 năm giảm đi 1 để tính. Lấy số 12 tháng nhân lên được 15840 tháng. Số 15.840 chia cho số 3600, được số dư là 360 Chia tiếp 360 cho số 60. Số dư là 60. Từ Giáp tý kể là 1 tính đến 60 gặp Quý Hợi. Đó là tháng 10 Quý Hợi năm Quý Hợi. Lại lấy số 3 gia vào mà tính, tất từ tháng giêng năm Giáp tý là tháng Bính Dần. Số dư 360 nói trên thêm 3 là 363 chia cho số 72, được số dư là 3. Vậy tháng Bính Dần năm Giáp tý (1744) đi vào cục 3 nguyên Giáp tý dương (vị trí các sao như năm 1732) Thái ất ở cung 1 Thiên mục ở cung Tuất Chủ toán được 1 Chủ đại tướng đóng cung 1 Chủ tham tướng đóng cung 3 Khách, toán được 40 Khách đại tướng đóng cung 4 Khách tham tướng đóng cung 2 PHÉP TÌM NHẬT KẾ Phương pháp tính: Nhật kế chi pháp, nguyệt kế cầu Nguyệt thực số đắc tiện vi đầu Nhuận pháp tam thập nhị phân ngoại Ngũ thập thất sao quy trừ chu Trừ đắc nhuận số gia nguyệt thực, Nhật bình hội pháp tử tế sưu. Sưu bố nhị thập cửu nhật toán, Ngũ thập tam phân sao lục hưu. Nhật bình nguyệt thực tương thừa liễu. Nhật kế tích số thử truyền lưu Muốn tìm nhật kế, dựa vào nguyệt kế mà tính. Đầu tiên lấy số tháng thực. Dùng phép tính tháng nhuận là 32 phân 57 dây mà quy trừ. Tính được số nhuận thì thêm vào số tháng thực. Tính để ứng dụng nhất bình hội pháp. Tìm số 29 ngày 53 phân 6 dây là ngừng. Lấy số nhật bình nhân với số nguyệt thực là thấy tích số của nhật kế (số tích nhật). Tìm số tháng thực, lấy phép nhuận là 32 phân 57 dây quy trừ đi. Được bao nhiêu tháng nhuận, lẻ bao nhiêu. Số lẻ đó không góp vào số tháng thực cùng tính Còn số lẻ, dùng nhật bình hội pháp là 29 ngày 53 phân 6 dây mà nhân. Tích số (cùng số lẻ), lấy phép Đại tiểu chu 3600 mà chia. Nếu số dư không bằng số 360, chia tiếp cho số 60. Số dư là nhật kế của Giáp tý vào kỷ nguyên vào cục giống như phép tìm niên kế. Nếu như muốn tìm Thất nguyên cầm tinh đóng ngày đó, tìm số tích nhật, lấy số 28 sao mà chia, số dư khởi sao cơ đến số cuối cùng đóng ở sao nào, tức là ngày đó gặp sao ấy. Ví dụ 1: Theo phép tính nhật kế, tìm ngày mồng 6 tháng giêng năm Canh Ngọ niên hiệu chính trị thứ 13 triều Lê tương ứng với năm 1570 dương lịch. Từ gốc tính nguyệt kế, đến tháng ấy, năm ấy, được số tích nguyệt là 13.755 tháng thực. Lấy phép nhuận nguyệt là 32 phân 57 dây làm phép quy trừ, được số tháng nhuận là 222 tháng, dư 1 phân không 96, không bằng phép nhuận. Bỏ không dùng mà tính gộp vào số tháng thực, cộng được là 14.177 tháng. Lấy nhật bình hội pháp là 29 ngày 53 phần 06 dây nhân lên được 418.625 ngày 78 phân 56 dây. Lấy phép Đại tiểu chu mà chia, được số dư là 305. Lấy phép 60 Giáp tý mà chia tiếp số dư 305; 5 lần 60 bằng 300. Số dư 305 – 300 = 5. Tức là vào kỷ Giáp tý, còn dư 5. Vậy, ngày 30 tháng 12 năm Kỷ tị (trước năm Canh ngọ) đi vào kỷ nguyên Giáp tý thứ 6, là ngày Mậu Thìn. Lại gia số 6 để tính, số dư 5 nói trên + 6 = 11. Tức là ngày mồng 6 tháng giêng năm Canh Ngọ là ngày Giáp tuất. Số dư 305 nói trên, gia thêm 6 thành 311. Lấy số 311 chia cho số 72, được số dư 23. Vậy, năm Canh Ngọ (1570) thuộc nguyên Canh tý dương, trung nguyên, dương niên cục 23, ngày Giáp Tuất. Thái ất đóng cung 9 Chủ toán là 16 Chủ Đại tướng đóng cung 6 Chủ Tham tướng đóng cung 8 Kế thần đóng cung Thìn Thuỷ kích đóng cung Thân Thiên mục đóng cung 1 Càn Khách toán là 23 Khách đại tướng đóng cung 3 Khách Tham tướng đóng cung 9 Ví dụ 2: Theo phép nhật kế, tìm ngày 14 tháng 12 năm 1992 dương lịch, năm Can chi Nhâm Thân. Ta biết rằng gốc tích nhật kế, theo quy ước là ngày 19 tháng 2 năm 423. Ngày 19/02/423 chắc còn trong tháng Giáp Dần, năm Quí Hợi. Phép tính diễn ra như sau: 1992 – 423 = 1596 năm dương lịch Hiệu số từ ngày 14 (đang xét) đến ngày 19 (gốc tính nhật kế): 19 ngày – 14 ngày = 5 ngày Số ngày “x” trong dương lịch là 10 ngày. Theo bài 3 “số nhật cục”, số ngày tính đến 14 tháng 12 năm 1992, có 573.353 ngày. Lấy số 573.353 ngày chia cho số 360, được số dư là 1. Số dư 1 nhỏ hơn 60. Vậy ngày 14 tháng 12 năm 1992 đi vào kỷ nguyên Giáp tý thứ nhất, tính theo Can chi là ngày Giáp tý năm Nhâm Thân Tính tiếp theo phép tính đã nói trong bài 3 “Số nhật cục”, ta có: Ngày 14/12/1992 thuộc nguyên Nhâm Tý dương, hạ nguyên, dương nhật cục 17, ngày Giáp tý. Thái ất đóng cung 7 Khôn Kế thần đóng cung Tuất Văn xương đóng cung 7 Khôn Thuỷ kích đóng cung Hợi Chủ toán là 7 Chủ đại tướng đóng cung 7 Khôn Chủ tham tướng đóng cung 1 Càn Khách toán là 27 Khách Đại tướng đóng cung 7 Khôn Khách Tham tướng đóng cung 1 Càn. Lại lấy số tích nhật 537.353 ngày chia cho 28 sao, được số dư là 25. Khởi sao cơ là 1. Tính đến 25 ứng với sao Đế. Vậy ngày Giáp tý năm Nhâm Thân gặp sao Đế Thổ lạc. 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 29 Tháng 5, 2010 PHÉP TÍNH THỜI KẾ Phương pháp tính: Thời kế định ư nhị Chí trung Nhược phùng Giáp Tý tiện vị tông Nhất nhất tu hạ Thập nhị toán Dương nhật dụng thời số kỷ chung Giáp Tý lục thập dư tích toán Nhị thập tứ số trừ hành cung Nhất pháp ngũ nhật vi nhất kỷ Ngũ lục tam tuần lục kỷ chung Đông chí tiết hậu dụng dương độn Hạ chí âm cục độn bất đồng Hữu thổ chi quân minh tuế kế Nguyệt kế tu ư khanh dữ cống Nhật kế chung quan giai cộng dụng Vận trù tướng soái thời kế thông. Thời kế định ở trong 2 chí (Đông chí và Hạ chí). Nếu gặp Giáp Tý là Đông chí. Dương ngày dùng giờ bao nhiêu là hết. Số dư của tích số sau khi chia cho Giáp Tý 60 là bao nhiêu, lại lấy số 24 chia hành cung. Một phép khác là: Lấy 5 ngày là 1 kỷ 5 x 6 = 3 tuần. 6 kỷ là kết thúc. Sau tiết Đông chí, dùng dương độn. Sau tiết Hạ chí dùng âm độn Bậc vua có đất nước, xem tuế kế. Nguyệt kế xem cho bậc công khanh. Nhật kế dùng cho các quan và dân chúng. Tướng soái vận trù việc quân xem thời kế. Trước tiên, xác định là sau tiết Đông chí, dùng cục dương. Lấy ngày Giáp Tý để khởi đầu tính đến ngày cần xem tích số là bao nhiêu. Giảm đi 1. Lấy phép 12 giờ mà chia. Dư không đầy số 60 là vào kỷ. Lại lấy phép 72 ước dần đi là vào cục. Sau Hạ chí dùng cục âm. Thái ất khởi từ cung 9 Ví dụ 1: Xem giờ Đinh Sửu, ngày Canh Thìn mười sáu tháng 11 năm Canh Ngọ niên hiệu Chính trị năm thứ 13 triều Lê. Phép tính diễn ra như sau: Khởi tính từ Giáp Tý đến Canh Thìn cộng là 17 số. -Giáp Tý 1 -Kỷ Tị 6 -Ất Hợi 12 -Ất Sửu 2 -Canh Ngọ 7 -Bính Tý 13 -Bính Dần 3 -Tân Mùi 8 -Đinh Sửu 14 -Đinh Mão 4 -Nhâm Thân 9 -Mậu Dần 15 -Mậu Thìn 5 -Quý Dậu 10 -Kỷ Mão 16 -Giáp Tuất 11 -Canh Thìn 17 Số 17 giảm đi 1 rồi nhân với 12 giờ, được số 192. Lại tính Tý, Sửu là 2 giờ gia 2 số cộng là 194 Lấy 194 chia cho số 60, được 3 lần. Đây là ba kỷ thượng – trung – hạ nguyên Giáp Tý. Số dư là 14. Tức là tính đến giờ Đinh Sửu ngày, tháng nói trên, gặp kỷ thứ tư, thượng nguyên Giáp Tý. Lại lấy số 194 nói trên chia cho số 72, được 2 lần 60, số dư 50; tức là qua nguyên Giáp Tý, Bính Tý, vào nguyên Mậu Tý; sau Đông chí là dương thời cục 50 Thái ất đóng cung 1 Càn Kế thần đóng cung Sửu Văn xương đóng cung Tị Thuỷ kích đóng cung Ngọ Chủ toán là 16 Chủ Đại tướng đóng cung 6 Đoài Chủ Tham tướng đóng cung 8 Khảm Khách toán là 15 Khách Đại tướng đóng cung 5 Khách Tham tướng đóng cung 5 Ví dụ 2: Xem giờ Ất Sửu, ngày Giáp Thìn, tháng giêng năm Quý Dậu (tương ứng với ngày 24/1/1993 dương lịch) Dương lịch: 1993 niên 1 nguyệt 23 nhật 1 thời ; Âm lịch: 1993 niên 1 nguyệt 1 nhật 1 thời Can chi: Quý Dậu - Giáp Dần - Giáp Thìn - Ất Sửu ; Tuần không: [Tuất Hợi - Tý Sửu - Dần Mão - Tuất Hợi] Tích Niên: 10.155.910 - 310 - 22 ; Tích Nguyệt: 121.870.911 - 111 - 39 ; Tích Nhật: 3.709.369.601 - 161 - 17 ; Tích Thời: 44.512.435.202 - 122 Nhập Kỷ Nguyên Cục số: Nguyên thứ 2-Bính Tý - Kỷ thứ 2 - Dương độn 50 cục Phép tính diễn ra như sau: Khởi tính từ Giáp Tý đến Giáp Thìn, cộng là 41 số -Giáp Tý 1 – Giáp Tuất 11 – Giáp Thân 21 – Giáp Ngọ 31 – Giáp Thìn 41 -Ất Sửu 2 …… Số 41 giảm đi 1, rồi nhân với 12 giờ (40 x 12 = 480 giờ) Lại tính Tý, Sửu là 2 giờ; 480 gia hai được số 482 Lấy số 482 : 60 = 8, dư 2. Tám lần tương ứng với trung nguyên Giáp Tý (lần thứ 3) Số dư 2, tức là tính đến giờ Ất Sửu, ngày tháng nói trên gặp Hạ nguyên Giáp Tý (lần thứ 3). Cụ thể là: Lần thứ nhất 1-Thượng nguyên Giáp Tý I: 60 2-Trung nguyên Giáp Tý II: 60 3-Hạ nguyên Giáp Tý III: 60 Lần thứ hai 4-Thượng nguyên Giáp Tý I: 60 5-Trung nguyên Giáp Tý II: 60 6-Hạ nguyên Giáp Tý III: 60 Lần thứ ba 7-Thượng nguyên Giáp Tý I: 60 8-Trung nguyên Giáp Tý II: 60 9-Hạ nguyên Giáp Tý III: 2…… Cộng được : 482 giờ Lại lấy số 482 chia cho số 72, được 6 lần, có số dư 50. Tức là qua các nguyên tý: Lần thứ nhất Nguyên Giáp Tý số 1 Nguyên Bính Tý số 2 Nguyên Mậu Tý số 3 Nguyên Canh Tý số 4 Nguyên Nhâm Tý số 5 Lần thứ hai Nguyên Giáp Tý số 1 Nguyên Bính Tý số 2…… Ta nói: giờ Ất Sửu, ngày Giáp Thìn, tháng giêng năm Quý Dậu (24/1/1993) vào nguyên Bính Tý; sau Đông chí là dương khởi cục 50 Thái ất đóng tại cung 1 Càn Kế thần đóng tại cung Sửu Văn xương đóng tại cung Tị Thuỷ kích đóng tại cung Ngọ Chủ toán là 16 Chủ Đại tướng đóng tại cung 6 Đoài Chủ Tham tướng đóng tại cung 8 Khảm Khách toán là 15 Khách Đại tướng đóng tại cung 5 Khách Tham tướng đóng tại cung 5. 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 29 Tháng 5, 2010 CHÍN SAO THUỘC THÁI ẤT Chín sao thuộc Thái ất là các sao trong vùng sao Bắc đẩu. 16 năm 1 lần đổi ngôi đi trong khoảng can và chi. 90 năm là 1 tiểu chu, 900 năm là 1 đại chu. 1 là Chính tinh, còn gọi là Khu; tên là Thiên anh. 2 là Pháp tinh, còn gọi là Toàn; tên là Thiên Nhậm 3 là Hội tinh, còn gọi là Cơ; tên là Thiên Trụ 4 là Phạt tinh, còn gọi là Quyền; tên là Thiên Tâm 5 là Sát tinh, còn gọi là Hoành; tên là Thiên Cầm 6 là Nguy tinh, còn gọi là Khai dương; tên là Thiên Phụ 7 là Bộ tinh, còn gọi là Dao Quang; tên là Thiên Xung 8 là Huyền Qua, còn gọi là Thiên Nhuế. 9 là Chiêu Dao, còn gọi là Thiên Bồng. Chín sao trên nếu gặp Thái ất ở những năm yểm, bách, khai, tù, kích, cách, đề, hiệp tất sinh tai hoạ Phương pháp tính: Đặt từ thượng cổ Giáp Tý thượng nguyên đến năm cần tìm. Số tích niên là bao nhiêu, dùng phép cửu tinh đại chu là số 900 mà chia. Số dư dưới 900, lấy phép tiểu chu là số 90 chia tiếp. Nếu không hết thì lấy vòng sao Số dư lấy số sau đem 10 mà ước trừ đi, số tìm được là số cung của sao đóng. Cách tìm số niên: Tính từ 1 là Thiên Bồng, đi thuận theo 9 sao. Ngoài số 9 là trực phù 9 sao và số năm. Thứ tự và vị trí 9 sao khi chưa động: 1-Thiên Bồng là Lục Mậu tinh (6 năm có can Mậu đứng đầu), đóng cung 1 Càn. Chủ về biến động, không yên việc thay đổi 2-Thiên Nhuế là Lục Kỷ tinh (6 năm có can Kỷ đứng đầu), đóng cung 2 Ly. Chủ về chiến tranh, quân sự, trộm cướp, hưng phế. 3-Thiên Xung là Lục Canh tinh (6 năm có can Canh đứng đầu), đóng cung 3 Cấn. Chủ về việc chinh chiến, sát phạt. 4-Thiên Phụ là Lục Tân tinh (6 năm có can Tân đứng đầu), đóng cung 4 Chấn. Chủ về việc kho tang, ngũ cốc. Cát 5-Thiên Cầm là Lục Nhâm tinh (6 năm có can Nhâm đứng đầu), đóng cung 5 ở giữa. Chủ về việc giết, trừng trị kẻ có tội. Cát. 6-Thiên Tâm là Lục Quý tinh (6 năm có can Quý đứng đầu), đóng cung 6 Đoài. Chủ về việc đánh dẹp kẻ vô đạo. Cát. 7-Thiên Trụ là Lục Đinh tinh (6 năm có can Đinh đứng đầu), đóng cung 7 Khôn. Chủ về tai hoạ, tổn hại; hiệu lệnh. 8-Thiên Nhậm là Lục Bính tinh (6 năm có can Bính đứng đầu), đóng cung 8 Khảm. Chủ về âm hình, việc của nữ chúa. 9-Thiên Anh là Lục Ất tinh (6 năm có can Ất đứng đầu), đóng cung 9 Tốn. Chủ về dương đức của bậc nhân quân. Giáp là đầu hang. Trực phù là sứ của các tinh cung. Dùng Trực phù để phối hợp với 9 sao. Khi muốn tìm các năm Lục Giáp đến thì đặt vào cung trực phù muốn tìm. Ví dụ: Các năm Lục ất, theo cách tìm nói trên, thấy Lục ất tương ứng với sao Thiên Anh. Vậy gia Thiên Anh vào cung 9 Tốn làm trực phù (khi chưa động) Các năm Lục Bính, gia Thiên Nhậm vào cung 8 Khảm làm trực phù (khi chưa động). Nếu như Lục Bính, tìm được Thiên Bồng làm trực phù tất thứ nhất lấy Thiên Bồng đưa vào cung 8 Khảm, trên cung Thiên Nhậm. Thứ hai, đưa Thiên Nhuế vào cung 9 Tốn trên cung Thiên Anh. Thứ ba, đưa Thiên Xung vào cung 1 Càn trên cung Thiên Bồng. Thứ tư, đưa Thiên Phụ vào cung 2 Ly trên cung Thiên Nhuế Thứ năm, đưa Thiên Cầm vào cung 3 Cấn trên cung Thiên Xung Thứ sáu, đưa cung Thiên Tâm vào cung 4 Chấn trên cung Thiên Phụ Thứ bảy, đưa Thiên Trụ vào cung 5 T trên cung Thiên Cầm. Thứ tám, đưa Thiên Nhậm vào cung 6 Đoài trên cung Thiên Tâm. Thứ chín, đưa Thiên Anh vào cung 7 Khôn trên cung Thiên Trụ. Ví dụ 2: Tìm trực phù năm 1570 (năm Canh Ngọ âm lịch trung nguyên) Số tích niên tính đến năm 1570 là 10.155.487 năm Lấy số 10.155.487 chia cho số 90, được số dư là 67 Lại chia tiếp 67 cho 10, được 6 lần và số dư là 7 Vậy trực phù ở cung 7 (năm thứ 7), tương ứng với Lục Đinh. Lại lấy số dư 67 chia cho 9, được số dư là 4. Vậy trực phù là Thiên phụ 4 đóng cung 7 Khôn (năm thứ 7) Năm Canh Ngọ thuộc nguyên Canh Tý dương tính thuận, Thiên Bồng tại Giáp Tý Mậu đóng cung 7 Khôn. M7 T1 D4 Giáp Tý Mậu 7 Thiên Bồng Thiên phụ trực phù giáp ngọ Tân K8 N2 B5 Giáp Tuất Kỷ 8 Thiên Nhuế Thiên Cầm giáp Thìn Nhâm C9 Q3 A6 Giáp Thân Canh 9 Thiên Xung Thiên Tâm giáp Dần Quý Giáp Ngọ Tân 1 Thiên Phụ Thiên Trụ Đinh Kỳ. Giáp Thìn Nhâm 2 Thiên Cầm Thiên Nhậm Bính Kỳ Giáp Dần Quý 3 Thiên Tâm Thiên Anh ất Kỳ Đinh Kỳ 4 Thiên Trụ Thiên Bồng giáp Tý Mậu Bính Kỳ 5 Thiên Nhậm Thiên Nhuế giáp Tuất Kỷ Ất Kỳ 6 Thiên Anh Thiên Xung giáp Thân Canh Ví dụ 3: Tìm Trực phù năm 2000 (năm Canh Thìn, nguyên Nhâm Tý dương hạ nguyên) Số tích niên đến năm 2000 là 10.155.917 năm Lấy số 10.155.917 chia cho số 90, được số dư là 47 Số 47 lớn hơn 10. Lại lấy số 47 chia cho số 10, được 4 lần, số dư là 7. Vậy Trực phù đóng cung 5 (năm thứ 7), tương ứng với Lục Nhâm. M5 T8 Đ2 K6 N9 B3 C7 Q1 A4 Lại lấy số dư 47 chia cho 9, được số dư là 2. Vậy Trực phù là Thiên Nhuế 2 đóng cung 5 T Năm Canh Thìn thuộc nguyên Nhâm Tý dương, hạ nguyên, tính thuận, Thiên Bồng, tại Giáp Tý Mậu đóng cung 5 T (năm thứ 7) Giáp Tý Mậu 5 Thiên Bồng Thiên Nhuế trực phù giáp Tuất kỷ Giáp Tuất Kỷ 6 Thiên Nhuế Thiên Xung Giáp thân canh Giáp Thân Canh 7 Thiên Xung Thiên Phụ giáp Ngọ Tân Giáp Ngọ Tân 8 Thiên Trụ Thiên Cầm giáp Thìn Nhâm Giáp Thìn Nhâm 9 Thiên Cầm Thiên Tâm giáp Dần Quý Giáp Dần Quý 1 Thiên Tâm Thiên Trụ đinh Kỳ Đinh Kỳ 2 Thiên Trụ Thiên nhậm Bính Kỳ Bính Kỳ 3 Thiên Nhậm Thiên Anh ất kỳ Ất Kỳ 4 Thiên Anh Thiên Bồng Giáp Tý Mậu Ví dụ 4: Tìm trực phù năm 2404 dương lịch (năm Giáp Tý nguyên Giáp Tý âm, thượng nguyên) Số tích niên tính đến năm 2404 là 10.156.321 năm Lấy số 10.156.321 chia cho 90, được số dư là 1. Vậy trực phù là Thiên Bồng 1 đóng cung 1 Càn (năm thứ nhất) tương ứng với Lục Mậu Năm Canh Thìn, nguyên Giáp Tý âm, thượng nguyên; tính thuận, Thiên Bồng tại Giáp Tý mậu đóng cung 1 Càn (năm thứ nhất) M1 T7 Đ4 Giáp tý 1 Thiên Bồng Thiên Bồng trực phù Giáp Tý Mậu K9 N6 B3 Giáp Tuất Kỷ 9 Thiên Nhuế Thiên Nhuế giáp Tuất kỷ C8 Q5 A2 Giáp Thân Canh 8 Thiên Xung Thiên Xung giáp Tân canh Giáp Ngọ Tân 7 Thiên phụ Thiên phụ Giáp Ngọ Tân Giáp Thìn Nhâm 6 Thiên Cầm Thiên Cầm giáp Thìn Nhâm Giáp Dần Quý 5 Thiên Tâm Thiên Tâm Giáp Dần Quý Đinh Kỳ 4 Thiên Trụ Thiên Trụ Đinh kỳ Bính Kỳ 3 Thiên Nhậm Thiên Nhậm Bính kỳ Ất kỳ 2 Thiên Anh Thiên Anh Ất kỳ CHÍN SAO THUỘC VĂN XƯƠNG Chín sao thuộc Văn xương là sư của Thái ất. Mỗi sao 30 năm đi qua 1 cung, là trực sư. Đặt vào 5 cung liên can cần tìm xem tới khu vực nào, để xem biến đổi về lành dữ Phương pháp tính: Tính từ năm thương nguyên Giáp Tý đến năm cần tìm xem số tích niên là bao nhiêu. Lấy phép Cửu tinh đại chu thiên là 2700 mà chia. Số dư dưới 2700, dùng phép cửu tinh tiểu chu, chia tiếp cho số 270. Số dư dưới lấy số 30 ước trừ đi, sẽ được cung số. Những số còn lại không hết là tính vào cung để tìm số năm. Bắt đầu từ cung 1 là Văn xương, đi qua 9 cung. Ngoài số đó là số cung mà trực sứ đóng. Thứ tự 9 sao thuộc Văn xương (khi chưa động) 1-Văn xương ở cung 1 Càn, có can Nhâm 2-Huyền Phượng ở cung 2 Ly, có can Đinh. 3-Minh Ly ở cung 3 Cấn, có can Giáp. 4-Âm Đức ở cung 4 Chấn, có can Ất 5-Chiêu Dao ở cung 5 T có can Mậu Kỷ 6-Hoà Âm ở cung 6 Đoài, có can Tân 7-Huyền Vũ ở cung 7 Khôn, có can Canh 8-Huyền Minh ở cung 8 Khảm, có can Quý 9-Hùng Minh ở cung 9 Tốn, có can Bính. Ví dụ 1: Tìm trực sứ năm 2000 (năm Canh Thìn, nguyên Nhâm Tý dương, hạ nguyên) Số tích niên đến năm 2000 là 10.155.917 năm Lấy số 10.155.917 chia cho số 270, được số dư là 137. Số 137 nhỏ hơn 270. Ta chia tiếp 137 cho 30; được 4 lần, có số dư là 17. Vậy trực sứ đóng cung 5 (năm thứ 17) Lại lấy số dư 137 chia cho số 9 sao. Được 15 lần, có số dư là 2. Vậy ta có Trực sứ là Huyền Phượng 2, đoán cung 5 T (năm thứ 17) Năm Canh Thìn, nguyên Nhâm Tý dương hạ nguyên, trực sứ Huyền Phượng 2 đóng tại cung 5 T (năm thứ 17). Ta có bảng sau: Lục nghi tam kỳ Cửu tinh Thái ất Lục nghi tam kỳ Cửu tinh Thái ất Cửu tinh Văn Xương Giáp Tý Mậu 5 Thiên Bồng Giáp Tuất kỷ Thiên Nhuế TP Huyền Phương Giáp Tuất kỷ 6 Thiên Nhuế Giáp Thân Canh Thiên Xung Minh Ly Giáp Thân Canh 7 Thiên Xung Giáp Ngọ Tân Thiên Phụ Âm Đức Giáp Ngọ Tân 8 Thiên Phụ Giáp Thìn Nhâm Thiên Cầm Chiêu Dao Giáp Thìn Nhâm 9 Thiên Cầm Giáp Dần quý Thiên Tâm Hoà Âm Giáp Dần quý 1 Thiên Tâm Đinh kỳ Thiên Trụ Huyền Vũ Đinh kỳ 2 Thiên Trụ Bính kỳ Thiên Nhậm Huyền Minh Bính kỳ 3 Thiên Nhậm Ất kỳ Thiên Anh Hùng Minh Ất kỳ 4 Thiên anh Giáp Tý Mậu Thiên Bồng Văn Xương Giáp Tý Mậu 5 Thiên Bồng Thiên Nhuế trực phù giáp Tuất kỷ Giáp Tuất Kỷ 6 Thiên Nhuế Thiên Xung Giáp thân canh Giáp Thân Canh 7 Thiên Xung Thiên Phụ giáp Ngọ Tân Giáp Ngọ Tân 8 Thiên Trụ Thiên Cầm giáp Thìn Nhâm Giáp Thìn Nhâm 9 Thiên Cầm Thiên Tâm giáp Dần Quý Giáp Dần Quý 1 Thiên Tâm Thiên Trụ đinh Kỳ Đinh Kỳ 2 Thiên Trụ Thiên nhậm Bính Kỳ Bính Kỳ 3 Thiên Nhậm Thiên Anh ất kỳ Ất Kỳ 4 Thiên Anh Thiên Bồng Giáp Tý Mậu Ví dụ 2: Tìm trực sứ năm 2404 dương lịch (năm Giáp Tý, nguyên Giáp tý âm thượng nguyên) Số tích niên đến năm 2404 là 10.156.321 năm Lấy số 10.156.321 chia cho 270, được số dư là 1 Vậy trực sứ đóng cung 1 Càn (năm thứ nhất), và ta có trực sứ là Văn xương 1 Năm Giáp Tý, nguyên Giáp Tý âm, thượng nguyên, Trực sứ Văn xương 1 đóng tại cung 1 Càn (năm thứ nhất). Ta có bảng sau: Lục nghi tam kỳ Cửu tinh Thái ất Lục nghi tam kỳ Cửu tinh Thái ất Cửu tinh Văn Xương Giáp Tý Mậu 1 Thiên Bồng Giáp kỷ mậu Thiên Bồng TP Huyền Phương Giáp Tuất kỷ 9 Thiên Nhuế Giáp Hợi kỷ Thiên Nhuế Minh Ly Giáp Thân Canh 8 Thiên Xung Giáp Thân Canh Thiên Xung Âm Đức Giáp Ngọ Tân 7 Thiên Phụ Giáp Ngọ Tân Thiên Phụ Chiêu Dao Giáp Thìn Nhâm 6 Thiên Cầm Giáp Thìn Nhâm Thiên Cầm Hoà Âm Giáp Dần quý 5 Thiên Tâm Giáp Dần quý Thiên Tâm Huyền Vũ Đinh kỳ 4 Thiên Trụ Đinh kỳ Thiên Trụ Huyền Minh Bính kỳ 3 Thiên Nhậm Bính kỳ Thiên Nhậm Hùng Minh Ất kỳ 2 Thiên anh Ất kỳ Thiên Anh Văn Xương. 2 people like this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 29 Tháng 5, 2010 QUÂN CƠ Quân cơ Thái ất chủ tượng về nhân quân. Khởi ở Ngọ, đi thuận theo 12 thần địa chi đến địa phận nào thì mùa màng được không loạn lạc, tướng khoẻ, quân mạnh, vua sửa đức độ. Phương pháp tính: Khởi từ Ngọ, mỗi cung đóng lại 30 năm tư thiên, 10 năm tư địa, 10 năm tư nhân. Một vòng là 360 năm. (Khởi từ Ngọ, mỗi cung đóng lại 30 năm: 10 năm tư thiên, 10 năm tư địa, 10 năm tư nhân. Một vòng là 360 năm.) Tính từ năm Giáp Tý thượng nguyên đến năm cần tìm, số tích niên là bao nhiêu, thêm số Bang doanh sai là 250, lấy phép Đại chu là 3600 mà chia, không hết là Bang sai. Số dư lấy hành bang là 30 đem ước trừ đi. Số tìm được là Bang số. Không đầy 30 là vào Bang. Để tìm số của năm cần tìm Bang số khởi tính từ Ngọ, tính lần lượt theo 12 cung. Ngoài số tức là được Quân cơ đóng và số năm. Quân cơ từ năm Tân Tị niên hiệu Vạn Lịch năm thứ 9 triều Minh, là niên hiệu Quang Hưng năm thứ 4 triều Lê (Mậu Dần 1578 – 1599), vào cung Hợi đầy 30 năm. Đến năm Tân Hợi niên hiệu Hoằng Định năm thứ 12 triều Lê (Canh Tý 1600 – 1619), vào cung Tý. Đến năm Tân Tị, niên hiệu Dương Hoà năm thứ 7 triều Lê (Ất Hợi 1635 – 1643) vào cung Sửu. Đến năm Tân Hợi niên hiệu Cảnh Trị năm thứ 19 triều Lê (Quý Mão 1663 – 1671) vào cung Thìn. Đến năm Tân Tị, niên hiệu Chính Hoà năm thứ 22 triều Lê (Canh Thân 1680 – 1705) vào cung Tị. Từ năm Tân Hợi (1311 dương lịch) - (1671) - (2031) Tân Tị (1341 dương lịch) - (1701) - (2061) Tân Hợi (1371 dương lịch) - (1731) - (2091) Tân Tị (1401 dương lịch) - (1761) - (2121) Tân Hợi (1431 dương lịch) - (1791) - (2151) Tân Tị (1461 dương lịch) - (1821) - (2181) Tân Hợi (1491 dương lịch) - (1851) - (2211) Tân Tị (1521 dương lịch) - (1881) - (2241) Tân Hợi (1551 dương lịch) - (1911) - (2271) Tân Tị (1581 dương lịch) - (1941) - (2301) Tân Hợi (1611 dương lịch) - (1971) - (2331) Tân Tị (1641 dương lịch) - (2001) - (2361) Năm Tân Tị Quang Hưng năm thứ tư là năm 1581 vào cung Hợi 30 năm Năm Tân Hợi Hoằng Định năm thứ 12 là năm 1611 vào cung Tý 30 năm Năm Tân Tị Dương Hoà năm thứ bảy là năm 1641 vào cung Sửu 30 năm Năm Tân Hợi Cảnh Trị năm thứ chín là năm 1671 vào cung Dần 30 năm Năm Tân Tị Chính Hoà năm thứ 22 là năm 1701 vào cung Mão 30 năm Số tích niên tính đến năm 1581 là 10.155.498 năm. Thêm 250, thành 10.155.748 Lấy số 10.155.748 chia cho số 3600, được số dư là 148 Lại lấy số 148 chia cho 30 được 4 lần, và có số dư là 28 Từ cung Ngọ, ta đếm xuống 4, gặp cung Dậu. Lại lấy số 28 chia cho 12 tháng, được 2 lần và số dư là 4 (tức là 3 lần thiếu). Từ Dậu, ta đếm tiếp xuống 3 lần và gặp Hợi. Vậy Quân cơ đóng tại cung Hợi. Ta nói: Năm Tân Tị niên hiệu Quang Hưng thứ tư triều Lê (Mậu Dần 1578 – 1599) tương ứng với năm dương lịch 1581 thuộc nguyên Canh Tý dương, trung nguyên, Quân cơ vào cung Hợi. (Cách an này cần kiểm lại) THẦN CƠ Thần cơ là biểu tượng của phụ tướng Phương pháp tính: Cũng khởi đầu từ cung Ngọ, đi thuận theo 12 thần (12 địa chi) Nơi Thần cơ đến sẽ xuất hiện hiền thần, nhân dân yên vui, ngũ cốc phong phú. Mỗi cung trụ lại 3 năm. 36 năm là 1 vòng. Tính từ thượng nguyên Giáp Tý đến năm cần tìm. Số tích niên của năm là bao nhiêu gia sai số 250 Lấy số 360 mà chia. Nếu chưa hết, lấy số 36 mà chia. Chia không hết, dùng chu kỳ cung. Số dư ước trừ dần đi với 3 là số cung đóng. Số không đủ đưa vào cung để tìm số năm (niên) Số năm (niên) khởi từ cung Ngọ, tính thuận theo 12 thần, số dư là Thần cơ. Số năm (niên) và khu vực cũng tính như vậy. Thần cơ từ năm Quý Tị, niên hiệu Vạn Lịch năm thứ 21 triều Minh Trung Quốc, tương đương niên hiệu Quang Hưng năm thứ 16 triều Lê Việt Nam, đi vào cung Dần. Năm Quý Hợi niên hiệu Vĩnh Tộ thứ năm đi vào cung Dậu Năm Bính Thân niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 12 triều Lê đi vào cung Tý Năm Canh Thân niên hiệu Cảnh Hưng năm đầu triều Lê, đi vào cung Thân; năm thứ 20 năm Kỷ Mão đi vào cung Mão. Năm Quý Tị, Quang Hưng thứ 16 tương đương năm Dần 1593 dương lịch. Năm Quý Hợi, Vĩnh Tộ thứ 5 tương đương năm Dậu 1623 dương lịch. Năm Bính Thân, Vĩnh Trịnh thứ 12, tương đương năm 1716 dương lịch. Năm Canh Thân, Cảnh Hưng năm đầu tương đương năm Tý 1740 dương lịch Năm Kỷ Mão, Cảnh Hưng năm thứ 20, tương đương năm Thân 1759 dương lịch (Cách an này cần kiểm lại) Tính đến năm 1593, số tích niên là 10.155.510 năm. Số 10.155.510 gia 250 thành 10.155.760 Lấy số 10.155.760 chia cho số 360, được số dư là 160. Lại lấy 160 chia cho 36, được 4 lần, có số dư là 16. Từ cung Ngọ, ta đếm xuống 4, gặp cung Dậu. Lại lấy số 16 chia cho 3, được 5 lần, số dư là 1. Tức là 6 lần thiếu. Từ cung Dậu, ta đếm thuận 6 gặp cung Dần. Từ cung Dần, ta đếm 1 (số dư) vẫn là Dần. Vậy Thần cơ đóng tại cung Dần, ta nói: Năm Quý Tị, niên hiệu Quang Hưng thứ 16 triều Lê, tương đương năm dương lịch1593, thuộc nguyên Canh Tý dương, trung nguyên, Thần cơ vào cung Dần. DÂN CƠ Dân cơ là biểu tượng của dân chúng. Tới nơi nào, ở đó dân giàu, được mùa, không có tai hoạ về binh đao, bệnh tật. Phương pháp tính: Khởi tính từ cung Tuất. Mỗi năm 1 ngôi. Tính thuận đi 12 thần (12 địa chi) Tính từ Thượng nguyên Giáp Tý đến năm cần tính. Số tích niên là bao nhiêu năm, gia sai số là 250. Lấy phép Đại chu 360 mà chia. Nếu chưa hết, lấy phép tiểu chu là 36 chia tiếp. Nếu chưa hết, lại lấy số 12 mà ước trừ dần đi. Khởi từ cung Tuất, tính theo thứ tự 12 thần. Số thừa là nơi đóng của Dân cơ. Số tính năm và khu vực, cũng tính như trên. Cả ba cơ quân, thần, dân tới đâu đều không nên khởi sự công phạt, chiến đấu. Xét kỹ thời thế, hướng vào cung đó mưu cầu sự cát lợi. Dân cơ từ năm Quý Hợi, niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 5 (năm dương lịch 1623) đi vào cung Mùi Năm Canh Thân, niên hiệu Cảnh Hưng năm đầu (năm dương lịch 1740) đi vào cung Thìn. Năm Tân Tị, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 22 (năm dương lịch1761) đi vào cung Sửu. Dần cơ do mỗi cung ở 1 năm nên ko bị sai Tính đến năm 1623 (năm Quý Hợi), số tích niên là 10.155.540 năm Số 10.155.540 gia số 250 thành 10.155.790 Lấy số 10.155.790 chia cho 360, được số dư là 190. Chia tiếp số 190 cho số 36, được số dư là 10 Số 10 nhỏ hơn số 12, tức là được 1 lần thiếu. Ta khởi tính từ Tuất, coi là 1 đến 10 gặp Mùi. Vậy năm Quý Hợi (năm 1623) Dân cơ đi vào cung Mùi. Ta nói: Năm 1623 dương lịch (năm Quý Hợi), nguyên Nhâm Tý dương, trung nguyên, Dân cơ đi vào cung Mùi. 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 29 Tháng 5, 2010 NGŨ PHÚC Ngũ phúc là thần ở trên trời, cùng Thái ất cho phúc lành. Ngũ phúc du hành qua 5 cung: Càn, Tốn, Khôn, Cấn và cung giữa. Mỗi cung trụ lại 45 năm: 15 năm Lý thiên, bốn mùa thuận hoà, tám tiết an vui. 15 năm Lý địa, núi sinh ngọc tốt, đất đẻ cỏ thiêng. 15 năm Lý nhân, đời sinh người giỏi, dân yên nước giàu. Đến cung nào, ở cung đó vua có phúc, dân giàu mạnh. Cung chiếu cũng thế, không có binh đao, hạn lụt, ốm đau. Phương pháp tính: Tính đến năm cần xem, số tích niên được bao nhiêu năm, gia sai số cung là 115, lấy phép Đại chu là 2250 mà chia. Nếu không hết lấy phép Tiểu chu là 225 mà chia. Số không hết là vòng tính cung. Số dư lấy 45 ước trừ dần đi. Lấy số tính được là cung số. Số không đầy là cung đóng vào. Tìm số năm (niên), bắt đầu tính từ Càn, qua Cấn, Tốn, Khôn, trung cung. Tức là được cung Ngũ phúc đóng và được số cung số năm. 1-Cung Hoàng Bí, khu Tuất, Càn, Hợi (cung 1 Càn) 2-Cung Hoàng Thuỷ, khu Sửu, Cấn, Dần (cung 3 Cấn) 3-Cung Hoàng Thất, khu Thìn, Tốn, Tị (cung 9 Tốn) 4-Cung Hoàng Đình, khu Mùi, Khôn, Thân (cung 7 Khôn) 5-Cung Huyền Thất, khu Tý, Ngọ, Mão, Dậu (cung 5 trung ương) Năm Giáp Tý niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 6 vào cung Cấn 3 (năm 1624) Năm Kỷ Dậu, niên hiệu Cảnh Trị thứ 7 vào cung Tốn 9 (năm 1669) Năm Quý Tị, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 9 vào cung Khôn 7 (năm 1713) Năm Kỷ Mão, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 20 vào trung cung (năm 1759) Tính đầu năm 1759 (năm Kỷ Mão), số tích niên được là 10.155.676 năm Gia sai số 115 thành số 10.155.791. Lấy 10.155.791 chia cho số 2250, được số dư là 1541 Lại lấy 1541 chia cho số 225, được 6 lần, có số dư là 191 Chia tiếp 191 cho số 45, được 4 lần, có số dư là 11. Tức là được 5 lần thiếu. Tính từ Càn là 1; Cấn là 2; Tốn 3; Khôn 4. Đến số 5 vào Trung cung. TỨ THẦN, THIÊN ẤT, ĐỊA ẤT, TRỰC PHÙ TỨ THẦN là đầu của khí thuỷ, nước có đạo thì thịnh, nước vô đạo thì bại vong. Ở đất vô đạo, là quê hương của chiến tranh, binh đao, hạn lụt, nhân dân cấu xé lẫn nhau. Phương pháp tính: Tính số tích niên được bao nhiêu, dùng phép Đại chu 360 mà chia; không hết dùng phép Tiểu chu 36 chia tiếp. Không hết dùng cung chu. Số dư lấy 3 mà ước trừ dần đi; số tính được là cung số không đầy số là cung đi vào. Để tìm số năm (niên) Thượng nguyên khởi từ cung 1, đi thuận qua 9 cung, tiếp đó qua giáng cung, Minh đường, Ngọc đường. Cứ 3 năm thì rời cung, hết lại quay về bắt đầu. Trung nguyên khởi từ cung 9. Hạ nguyên khởi từ cung 5. Một vòng là 36 năm. Tứ thần năm Chính Hoà thứ năm là Giáp Tý thượng nguyên khởi ở Dần (năm 1684) Năm Mậu Ngọ niên hiệu Vĩnh Hựu thứ tư vào cung Thân (năm 1738) Năm Giáp Tý niên hiệu Cảnh Hưng thứ năm vào cung Tuất (năm 1744) Năm Ất Dậu niên hiệu Cảnh Hưng thứ 26 vào cung Tị (năm 1765) Ví dụ: Tìm tứ thần năm 1738 (năm Mậu Ngọ), thượng nguyên. Tính số tích niên được 10.155.655 năm Lấy 10.155.655 chia cho số 360, được số dư là 55 Chia tiếp 55 cho số 36, được số dư là 19. Chia tiếp 19 cho số 3, được 6 lần, có số dư là 1. Tức là 7 lần thiếu. Từ Dần coi là 1, đếm thuận đến 7, ta gặp Thân. Ta nói: Năm Mậu Ngọ (năm 1738 dương lịch), nguyên Giáp Tý dương, thượng nguyên, Tứ thần đi vào cung Thần. THIÊN ẤT là khí Nghịch Kim của cung 6. Đến cung nào thì binh đao khởi lớn; đến nước nào tức là có nghĩa quyết đoán về được hay thua. Phương pháp tính: Tính số tích niên được bao nhiêu, dùng phép Đại chu 360 mà chia. Tiếp đến lấy 3 mà ước trừ đi là cung số. Tính thuận theo 9 cung, sau đến Giáng cung, Minh đường, Ngọc đường mà vận hành. Thượng nguyên khởi cung 6, Trung nguyên khởi cung 2, Hạ nguyên ở Giáng cung. Cứ 3 năm thì rời cung. Một vòng 36 năm. Thiên ất, năm Giáp Tý niên hiệu Chính Hoà thứ năm khởi ở Mùi (năm 1684) Năm Mậu Ngọ (năm 1738), niên hiệu Vĩnh Hựu thứ tư vào cung Sửu. Năm Giáp Tý (năm 1744) niên hiệu Cảnh Hưng thứ năm vào cung Mão Năm Ất Dậu (năm 1765) niên hiệu Cảnh Hưng thứ 26 vào cung Tuất. ****** Tính Thiên ất năm 1738 (năm Mậu Ngọ), thượng nguyên. Tính số tích niên được 10.155.655 năm. Lấy 10.155.655 chia cho số 360, được số dư là 55 Chia tiếp 55 cho số 36, được số dư là 19 Lại chia 19 cho số 3, được 6 lần, có số dư là 1; tức là được 7 lần thiếu Từ Mùi, coi là 1; đếm thuận đến 7, ta gặp Sửu. Ta nói: Năm Mậu Ngọ (năm 1738 dương lịch), nguyên Giáp Tý dương, thượng nguyên Thiên ất đi vào cung Sửu. ĐỊA ẤT là 6 can kỷ, là thổ thần. Giữ cung nào tất có binh đao, đói khát, mất mùa. Vào nước vô đạo thì hung dữ, binh đao càng nhiều. Phương pháp tính cung giống phương pháp tính Tứ thần, Thiên ất. Thượng nguyên khởi cung 9. Trung nguyên khởi cung 5. Hạ nguyên cung 1. Ba năm rời 1 cung. Một vòng là 36 năm. ****** Địa ất năm Giáp Tý, niên hiệu Chính Hoà thứ 5 khởi ở Tuất (năm 1684) Năm Mậu Ngọ niên hiệu Vĩnh Hựu thứ tư triều Lê (năm 1738) đi vào cung 7 Thìn. Năm Giáp Tý niên hiệu Cảnh Hưng thứ 5 triều Lê (năm 1744) đi vào cung Ngọ Năm Ất Dậu niên hiệu Cảnh Hưng thứ 26 triều Lê (năm 1765) đi vào cung Sửu. Ví dụ: Năm Mậu Ngọ (năm 1783), thượng nguyên. Tính số tích niên được 10.155.655 năm Lấy 10.155.655 chia cho số 360, được số dư là 55. Chia tiếp 55 cho 36, được 6 lần, có số dư là 1; tức là được 7 lần thiếu. Từ Tuất coi là 1, đếm thuận đến 7, ta gặp Thìn. TRỰC PHÙ là Hoả thần, là sứ tinh của trời, quan sát sự thiện ác trong nhân gian, hoạ phúc của dân chúng. Nếu lâm vào nước vô đạo tất xảy ra hạn lụt, đao binh, nhân dân tan tác. Phương pháp tính toán cũng như phương pháp tính Tứ thần. Thượng nguyên khởi từ cung 5; trung nguyên cung 1; Hạ nguyên cung 9. Đi thuận, 3 năm là rời cung. Một vòng là 36 năm. Trực phù năm Giáp Tý niên hiệu Chính Hoà thứ năm triều Lê (năm 1684) khởi ở Ngọ Năm Mậu Ngọ, niên hiệu Vĩnh Hựu thứ tư triều Lê (năm 1738) đi vào cung Tý Năm Giáp Tý, niên hiệu Cảnh Hưng thứ năm triều Lê (năm 1744) đi vào cung Dần. Năm Ất Dậu, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 26 triều Lê (năm 1765) đi vào cung Dậu. Ví dụ: Tính Trực phù năm 1744 (năm Giáp Tý), trung nguyên. Tính số tích niên được 10.155.661 năm. Lấy 10.155.661 chia cho số 360, được số dư là 61 Chia tiếp 61 cho số 36, được số dư là 25. Lại chia 25 cho số 3, được 8 lần, có số dư là 1; tức là được 9 lần thiếu. Từ Ngọ coi là 1, đếm thuận đến 9, ta gặp Dần. Ta nói: Năm Giáp Tý (năm 1744), trung nguyên, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 5 triều Lê, trực phù đi vào cung Dần. 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 29 Tháng 5, 2010 TRỰC PHÙ là Hoả thần, là sứ tinh của trời, quan sát sự thiện ác trong nhân gian, hoạ phúc của dân chúng. Nếu lâm vào nước vô đạo tất xảy ra hạn lụt, đao binh, nhân dân tan tác. Phương pháp tính toán cũng như phương pháp tính Tứ thần. Thượng nguyên khởi từ cung 5; trung nguyên cung 1; Hạ nguyên cung 9. Đi thuận, 3 năm là rời cung. Một vòng là 36 năm. Trực phù năm Giáp Tý niên hiệu Chính Hoà thứ năm triều Lê (năm 1684) khởi ở Ngọ Năm Mậu Ngọ, niên hiệu Vĩnh Hựu thứ tư triều Lê (năm 1738) đi vào cung Tý Năm Giáp Tý, niên hiệu Cảnh Hưng thứ năm triều Lê (năm 1744) đi vào cung Dần. Năm Ất Dậu, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 26 triều Lê (năm 1765) đi vào cung Dậu. Ví dụ: Tính Trực phù năm 1744 (năm Giáp Tý), trung nguyên. Tính số tích niên được 10.155.661 năm. Lấy 10.155.661 chia cho số 360, được số dư là 61 Chia tiếp 61 cho số 36, được số dư là 25. Lại chia 25 cho số 3, được 8 lần, có số dư là 1; tức là được 9 lần thiếu. Từ Ngọ coi là 1, đếm thuận đến 9, ta gặp Dần. Ta nói: Năm Giáp Tý (năm 1744), trung nguyên, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 5 triều Lê, trực phù đi vào cung Dần. TIỂU DU THÁI ẤT Phương pháp tính tiểu du Thái ất giống như phương pháp tính Tuế kế Thái ất ở trên. Tiểu du Thái ất tính từ năm Canh Dần, niên hiệu Trường Hưng năm đầu (TQ) tức là năm 930 vào cung 7 Khôn Năm Bính Dần (năm 966) vào cung 8 Khảm Năm Nhâm Dần (năm 1002) vào cung 9 Tốn Năm Mậu Dần (năm 1038) vào cung 1 Càn Năm Giáp Dần (năm 1074) vào cung 2 Ly Năm Canh Dần (năm 1110) vào cung 3 Cấn Năm Bính Dần (năm 1146) vào cung 4 Chấn Năm Nhâm Dần (năm 1182) vào cung 6 Đoài Năm Mậu Dần niên hiệu Kiến Gia thứ 8 triều Lý (năm 1218) vào cung 7 Khôn. Năm Giáp Dần, niên hiệu Nguyên Phong thứ tư triều Trần (năm 1254) vào cung 8 Khảm Năm Canh Dần (năm 1290) vào cung 9 Tốn Năm Nhâm Dần (năm 1362) vào cung 2 Ly Năm Bính Dần (năm 1326) vào cung 1 Càn. Năm Mậu Dần, niên hiệu Kiến Tân năm đầu tiên triều Trần (năm 1398) vào cung 3 Cấn Năm Giáp Dần, niên hiệu Thiệu Bình năm đầu tiên triều Lê (năm 1434) vào cung 4 Chấn Năm Canh Dần, niên hiệu Hồng Đức năm đầu triều Lê (năm 1470) vào cung 6 Đoài Năm Bính Dần, niên hiệu Đoan Khánh thứ hai triều Lê (năm 1506) vào cung 7 Khôn. Năm Nhâm Dần, niên hiệu Nguyên Hoà thứ 10 triều Lê (năm 1542) vào cung 8 Khảm Năm Mậu Dần (năm 1578) vào cung Tốn. Năm Giáp Dần, niên hiệu Hoằng Định thứ 15 triều Lê (năm 1614) vào cung 1 Càn Năm Canh Dần niên hiệu Khánh Đức thứ hai triều Lê (năm 1650) vào cung 2 Ly Năm Bính Dần, niên hiệu Chính Hoà thứ 7 triều Lê (năm 1686) vào cung 3 Cấn. Năm Nhâm Dần, niên hiệu Bảo Thái thứ 3, triều Lê (năm 1722) vào cung 4 Chấn Năm Mậu Dần niên hiệu Cảnh Hưng thứ 19 triều Lê (năm 1758) vào cung 6 Đoài. Ví dụ: Tính tiểu du Thái ất năm 1758 (năm Mậu Dần), trung nguyên. Tính số tích niên được 10.155.675 năm Theo phương pháp tính toán ghi trong bài 4 về cách tìm sao Thái ất trong Tuế kế, ta lấy 10.155.675 chia cho số 3600; được số dư là 75. Lấy 75 chia cho số 36; được 3 lần, số dư là 3. Tức là được 4 lần thiếu. Bắt đầu tính 1 từ 3 Cấn 2 đến 4 Chấn 3 đến Không vào số 5 4 đến 6 Đoài. Ta nói: Năm 1758 (năm Mậu Dần), nguyên Bính Tý dương, trung nguyên, Tiểu du Thái ất đi vào cung 6 Đoài. ĐẠI DU THÁI ẤT Đại du Thái ất là chi phối khí của 7 sao; là Kim thần. Tuần hành 8 cung, không vào cung giữa. Đại du Thái ất 36 năm chủ trị một cung 12 năm Lý thiên, 12 năm Lý địa, 12 năm Lý nhân; 288 năm hết 1 vòng thi hành sự trừng phạt (36 x 8 = 288) Phương pháp tính: Từ thượng nguyên Giáp Tý đến năm cần tìm, tính số tích niên là bao nhiêu, gia sai số cung là 34. Lấy phép Đại chu 2880 mà chia; không hết là cung chu. Số dư lấy phép tiểu chu là 288 chia tiếp; không hết là cung chu. Số dư lại lấy phép hành cung 36 mà ước trừ dần đi. Số được là số cung. Số không đầy là số vào cung. Để tìm số tính năm, bắt đầu từ cung 7, tính thuận sang 8 qua 9, 1, 2……Không vào cung giữa 5. Ngoài số tính tức là được cung Đại du Thái ất đóng, và vào cung đó để tìm số năm. Năm Bính Dần, niên hiệu Chính Đức năm đầu (năm 1506), Đại du Thái ất ở cung 7 Năm Nhâm Dần niên hiệu Gia Tĩnh thứ 21 (năm1542) ở cung 8. Năm Mậu Dần, niên hiệu Vạn Lịch thứ 6 (năm 1578) ở cung 9 Năm Giáp Dần niên hiệu Vạn Lịch thứ 42 (năm 1614) ở cung 1. Năm Canh Dần niên hiệu Khánh Đức thứ 2 triều Lê (năm 1650) ở cung 2. Ví dụ: Tìm Đại du Thái ất năm Canh Dần (năm 1650), nguyên Nhâm Tý dương, hạ nguyên. Tính đến năm 1650 được số tích niên là 10.155.567 năm Gia sai số 34 thành số 10.155.601 Lấy 10.155.601 chia cho số 2880, được số dư là 721 Chia tiếp 721 cho số 288, được số dư là 145. Lại chia 145 cho số 36; được 4 lần, có số dư là 1. Tức là được 5 lần thiếu. Khởi tính 1 từ cung 7 Khôn 2 từ cung 8 Khảm 3 từ cung 9 Tốn 4 từ cung 1 Càn 5 từ cung 2 Ly Tính đến 5, ta gặp cung 2 Ly. Vậy Đại du Thái ất năm 1650 đóng cung 2 Ly. Ta nói: Năm Canh Dần (1650), nguyên Nhâm Tý dương, hạ nguyên. Đại du Thái ất đóng cung 2 Ly. PHƯƠNG VỊ PHÚC TINH QUA CÁC NĂM Cung phúc tính đóng Niên can Dần Giáp Sửu Ất Tý Bính Hợi Đinh Thân Mậu Mùi Kỷ Ngọ Canh Tị Tân Thìn Nhâm Mão Quý 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 29 Tháng 5, 2010 NHỊ THẬP BÁT TÚ Nhị thập bát tú chia thành 4 nhóm thuộc 4 phương Đông, Tây, Nam, Bắc. Cụ thể như sau:Nhóm 7 sao thuộc phương Đông: -Sao Giốc (hành mộc), chủ về đại nhân lo quân xuất trận. -Sao Cang (hành kim), dân an vui. -Sao Đê (hành thổ), bên trong có bầy tôi phản nghịch; trung cung phải phòng hoả hoạn. -Sao Phòng (Nhật – Thái dương), bên trong lo về việc động binh. -Sao Tâm (Nguyệt – Thái âm), thái tử và các vương hầu lo nghĩ. -Sao Vỹ (hành hoả), chốn hậu cung có điều kinh sợ; Hậu phi có tai hoạ. -Sao cơ (hành thuỷ), có việc binh đao, quân sĩ lưu vong.Nhóm 7 sao thuộc phương Bắc: -Sao Đẩu (hành mộc). Bề tôi mất tước lộc. Nhân dân xâm lấn nhau. -Sao Ngưu (hành kim). Thóc cao, gạo kém. Dân đói. Trâu, bò, dê chết nhiều. -Sao Nữ (hành thổ). Hậu phi ốm đau. Hoả hoạn -Sao Hư (Nhật – Thái dương). Cải cách chính sách. Xoá tội khoan dung. -Sao Nguy (Nguyệt – Thái âm). Đất cát hưng thịnh. Nhiều bệnh tật. -Sao Thất (hành hoả). Đại thần giấu mưu hiểm, không chịu theo năm mất mùa. -Sao Bích (hành thuỷ). Văn chương hưng thịnh. Bỏ việc binh đao. Đại phát.Nhóm 7 sao thuộc phương Nam: -Sao Tỉnh (hành mộc). Sông ngòi, đầm ao ứ đọng. Giặc cướp, dân chúng lưu vong. -Sao Quỷ (hành kim). Hậu phi thất thế. Nhân dân nhiều bệnh tật. -Sao Liễu (hành thổ). Dân chúng đói khát, mất mùa, lưu vong. -Sao Tinh (Nhật – Thái dương). Hoả hoạn -Sao Trương (Nguyệt – Thái âm). Có nhiều biến đổi về lễ nghi. -Sao Dực (hành hoả). Âm dương mất thứ tự. Nhiều mưa lụt. -Sao Chẩn (hành thuỷ). Thua bại. Chết chóc. Đại tang. Mất mát. Các sao trên là tuỳ theo Tuế kế Thái ất vào cung nào, nhà nào mà xem xét các năm có sự việc làm chủ. Lại có 1 phép tính là: lấy Kế thần gia Hoà Đức vào, rồi xem cung Thuỷ kích tới để xét cát hung. Lại suy tính cung mà năm Thái ất tới để xét sâu hay nông như Thái ất lý thiên, dựa vào sao thứ nhất; Lý địa dựa vào sao thứ hai; Lý nhân dựa vào sao thứ ba. Nếu Thuỷ kích không ở các cung Tý, Ngọ, Mão, Dậu mà lâm vào 1 sao thì sao đó phải đảm đương; lâm vào 2 sao thì chia đều để quản một năm. An nhị thập bát tú theo năm: -Sao Giốc: Các năm 1890, 1918, 1946, 1974, 2002, 2030, 2058…… (A + 28) -Sao Đẩu: Các năm 1869, 1897, 1925, 1953, 1981, 2009, 2037…… (B + 28) -Sao Khuê: Các năm 1876, 1904, 1932, 1960, 1988, 2016, 2044…… (C + 28) -Sao Tinh: Các năm 1883, 1911, 1939, 1967, 1995, 2023, 2041…… (D + 28)Ví dụ: Nhị thập bát tú ngoài việc tính theo năm còn tính theo tháng, ngày để xét cát hung trong các khoảng thời gian tương ứng. Xin tham khảo thêm vạn niên lịch từng năm. Ví dụ: Năm Kỷ Mão 1999 Mồng 1 tháng giêng âm lịch Sao Vĩ (cả tháng: sao Tinh) Mồng 1 tháng hai âm lịch Sao Đẩu (cả tháng: sao Trương) Mồng 1 tháng ba âm lịch Sao Ngưu (cả tháng: sao Dực) Mồng 1 tháng tư âm lịch Sao Nữ (cả tháng: sao Chẩn) Mồng 1 tháng năm âm lịch Sao Nguy (cả tháng: sao Giốc) Mồng 1 tháng sáu âm lịch Sao Thất (cả tháng: sao Cang) Mồng 1 tháng bảy âm lịch Sao Bích (cả tháng: sao Đê) Mồng 1 tháng tám âm lịch Sao Lâu (cả tháng: sao Phòng) Mồng 1 tháng chín âm lịch Sao Vị (cả tháng: sao Tâm) Mồng 1 tháng mười âm lịch Sao Tất (cả tháng: sao Vĩ) Mồng 1 tháng mười một âm lịch Sao Sâm (cả tháng: sao Cơ) Mồng 1 tháng chạp âm lịch Sao Quỷ (cả tháng; sao Đẩu)Chú ý: Chu kỳ hoàn nguyên của nhị thập bát tú là 7 năm (tức là sau 84 tháng mới trở về 1 tháng cùng tên sao). Tháng nhuận không có tên sao, mà lấy tên sao của tháng kề trước. ****** Nhóm 7 sao thuộc phương Đông tương ứng với sao Thanh Long. Nhóm 7 sao thuộc phương Bắc tương ứng với sao Huyền Vũ. Nhóm 7 sao thuộc phương Tây tương ứng với sao Bạch Hổ. Nhóm 7 sao thuộc phương Nam tương ứng với sao Chu Tước. ******Ngày tiết khí: Giữa xuân (Xuân phân) Mưa rào (Cốc vũ) Duối vàng (Tiểu mãn) Giữa hè (Hạ chí) Nóng nực (Đại thử) Mưa ngâu (Xử thử) Giữa thu (Thu phân) Sương sa (Sương giáng) Hanh heo (Tiểu tuyết) Giữa đông (Đông chí) Giá rét (Đại hàn) Ẩm ướt (Vũ thuỷ)Ngày trung khí: Trong sáng (Thanh minh) Đầu hè (Lập hạ) Tua rua (Mang chủng) Nắng oi (Tiểu thử) Đầu thu (Lập thu) Nắng nhạt (Bạch lộ) Mát mẻ (Hàn lộ) Đầu đông (Lập đông) Khô úa (Đại tuyết) Chớm rét (Tiểu hàn) Đầu xuân (Lập xuân) Sâu nở (Kinh trập) ******Tháng tiết khí : Tháng Dần (tháng giêng) Lập xuân -Vũ Thuỷ Tháng Mão (tháng hai) Kinh trập -Xuân phân Tháng Thìn (tháng ba) Thanh minh -Cốc vũ Tháng Tị (tháng tư) Lập hạ -Tiểu mãn Tháng Ngọ (tháng năm) Mang chủng -Hạ chí Tháng Mùi (tháng sáu) Tiểu thử -Đại thử Tháng Thân (tháng bảy) Lập thu -Xử thử Tháng Dậu (tháng tám) Bạch lộ -Thu phân Tháng Tuất (tháng chín) Hàn lộ -Sương giáng Tháng Hợi (tháng mười) Lập đông -Tiểu tuyết Tháng Tý (tháng mười một) Đại tuyết -Đông chí Tháng Sửu (tháng chạp) Tiểu hàn -Đại hànTÍNH CHẤT NHỊ THẬP BÁT TÚ1-Sao Giốc (hành mộc): Tốt Giốc tinh: Được việc, thân thế vinh hiển. Đi thi đỗ. Gặp quý nhân. Giá thú, hôn nhân, sinh con đều tốt. Nên tránh các việc mai tang, sửa sang mộ phần.2-Sao Cang (hành kim): Xấu Cang tinh: Đứng trưởng nên đề phòng giữ mình. Công việc làm ăn phải tính toán rành rẽ. Tránh các việc chôn cất, hôn nhân. Làm ẩu sẽ có hậu quả xấu.3-Sao Đê (hành thổ): Xấu Đê tinh: Rất xấu Phải đề phòng các việc động thổ, hôn nhân, kinh doanh, ký kết, xuất hành, xây cất, hay gặp tai ương, hỏng việc.4-Sao Phong (Nhật – Thái dương): Tốt Phong tinh: Rất tốt. Điền tài thịnh vượng Giàu sang, hạnh phúc vẹn toàn. Xây cất, cưới xin, gia cảnh đều đẹp Sĩ, nông, công, thương đều hoà hài.5-Sao Tâm (Nguyệt – Thái âm): Xấu Sao Tâm: Rất xấu. Cẩn thận giữ gìn trong mọi công việc Tránh ăn hỏi, cưới xin Kinh doanh dễ thua lỗ, kiện tụng.6-Sao Vĩ (hành hoả): Tốt Vĩ tinh: Chiếu sáng. Rất tốt Nên làm nhà, cưới hỏi đều hanh thong Xuất ngoại, kinh doanh có nhiều thuận lợi. Thăng quan, tiến chức, sự nghiệp hưng thịnh.7-Sao Cơ (hành thuỷ): Tốt Cơ tinh: Sáng chiếu giúp mọi người. Sự nghiệp cao cả viễn cảnh đẹp Nhà to, cửa rộng. Bạc tiền nhiều. Phúc đức ông cha để lại lâu dài.8-Sao Đẩu (hành mộc): Tốt Đẩu tinh: Sáng láng, dồi dào. Hôn nhân, sinh nở đều vẹn toàn. Chăn nuôi, cấy gặt, tiền của nhiều. Làm nhà, thả cá đều tốt.9-Sao Ngưu (hành kim): Xấu Ngưu tinh: Tốn sức, hao tài. Tránh việc xây dựng, dễ gặp chuyện bi ai. Cưới hỏi, đi xa nhà nên cẩn thận Kinh doanh, trồng trọt dễ mất cả vốn lẫn lãi.10-Sao Nữ (hành thổ): Xấu Nữ tinh: Phụ nữ phải giữ mình Quan hệ, giao thiệp đề phòng kẻ sở khanh. Sinh nở nên tìm thầy thuốc, bà đỡ giỏi. Dễ bị hao tài, tốn của, thiệt hại gia đình.11-Sao Hư (Nhật – Thái dương): Xấu Sao Hư chủ về tai ương, hư tổn. Nam nữ gần nhau phải giữ gìn. Khôn ba năm dại một giờ để lại đau khổ về sau.12-Sao Nguy (Nguyệt – Thái âm): Xấu Nguy tinh: Kỵ nhất việc làm nhà, dễ gây nguy hại cho người trong gia đình. Tránh việc hiếu, việc kinh doanh sợ bị khuynh gia bại sản.13-Sao Thất (hành hoả): Tốt Thất tinh: Chiếu sáng, công việc hanh thông. Công danh sự nghiệp vinh hiển. Mở hiệu, làm nhà đều được thịnh đạt Hôn nhân, con cái nên người.14-Sao Bích (hành thuỷ): Tốt Bích tinh: Làm mọi việc đều thuận nhân tình Cưới hỏi, sinh con đều đạt mong muốn. Thương mại, kinh doanh nhiều lợi lộc Làm nhà, lợp mái đều được khang ninh.15-Sao Khuê (hành mộc): Xấu Khuê tinh: Tuy xấu nhưng cũng có phần lành. Vợ chồng hoà thuận, có phúc lộc. Chỉ cần tránh các việc mở hang, động thổ, đưa ma, sửa sang mộ phần.16-Sao Lâu (hành kim): Tốt Sao Lâu: Lợp mái nhà rất tốt. Thêm người thêm của, cơ nghiệp hưng thịnh. Hôn nhân vào ngày tháng ứng với sao lâu, sinh quý tử. Nhậm chức vào ngày đó sẽ mau thăng chức.17-Sao Vị (hành thổ): Tốt Vị tinh: Chủ về vinh hoa, phú quý. Trong mọi việc, nên cố gắng thực hiện. Nên tiến hành các việc mua bán, xây nhà, cưới hỏi. Các công to việc lớn rất thuận lợi.18-Sao Mão (Nhật – Thái dương): Xấu Mão tinh: Nên cẩn thận việc chăn nuôi. Làm nhà, làm cửa dễ gây thiệt hại về người. Làm quan, nhậm chức đề phòng tai hoạ. Hôn nhân, giá thú sợ hạnh phúc kém lâu bền.19-Sao Tất (Nguyệt – Thái âm): Tốt Tất tinh: Chiếu sáng, điều hoà mọi việc. Nông trang, thóc gạo, lụa tằm bội thu. Nên xây dựng, nhà cửa, tiến hành hôn thú. Sẽ sinh được con cái nên người.20-Sao Chuỷ (hành hoả): Xấu Chuỷ tinh: Nên cẩn thận dễ mắc việc kiện cáo. Vàng nén, bạc kho cũng hết. Làm việc quan, có chức có danh càng phải giữ gìn. Làm thầy, làm thợ cần dè chừng chuyện tai tiếng.21-Sao Sâm (hành thuỷ): Tốt Sâm tinh: Còn gọi là văn xương, văn khúc. Mưu cầu sự nghiệp là đại cát tường. Mở hiệu, xây nhà rất tốt. Tránh hôn thú sợ có chuyện chia rẽ về sau.22-Sao Tỉnh (hành mộc): Tốt Tỉnh tinh: Chỉ cần tránh việc tang Các việc sau đều tốt Thi cử, mưu công danh, trồng trọt. Chăn nuôi, làm nhà, hôn thú.23-Sao Quỷ (hành kim): Xấu Quỷ tinh: Chiếu rọi dễ gây chuyện buồn thương. Làm nhà dễ khiến chủ nhân vong mệnh. Tránh cưới xin, chỉ lợi việc hiếu, việc tang.24-Sao Liễu (hành thổ): Xấu Liễu tinh: Chiếu rọi gây lắm chuyện nguy nan. Hao tài, tổn sức, bi thương. Nên chăm làm việc thiện.25-Sao Tinh (Nhật – Thái dương): Xấu Tinh tinh chiếu rọi, tránh hôn thú, vợ chồng dễ ruồng bỏ nhau. Tốt nhất là tiến hành việc làm nhà, thứ hai là lo việc công danh.26-Sao Trương (Nguyệt – Thái âm): Tốt Trương tinh: nên cưới hỏi, làm nhà, mở hàng, nhập học, tang ma sẽ để lại phúc ấm lâu dài27-Sao Dực (hành hoả): Xấu Dực tinh tối kỵ việc làm nhà, dễ xảy ra tai nạn, thiệt hại chủ nhà. Nam nữ gần nhau nên giữ gìn. Mê đắm nguyệt hoa dễ gây chuyện xót xa.28-Sao Chẩn (hành thuỷ): Tốt Chẩn tinh: Chiếu rọi chủ về sự vẻ vang. Thăng quan, thăng cấp, tài lộc cũng tăng. Việc hiếu, việc hôn nhân, kinh doanh buôn bán đều rất tốt. 2 people like this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 29 Tháng 5, 2010 CHU THIÊN Chu thiên (1 vòng trời) có 12 cung. Mỗi cung 30 độ Mỗi độ 60 phút Mỗi phút 60 giây Mỗi giây 60 vi Mỗi vi 60 tiêm Mỗi tiêm 60 hốt Mỗi hốt 60 mang Mỗi ngày 12 giờ (giờ cổ) Mỗi giờ 24 khắc Mỗi khắc 15 phút Mỗi phút 60 giây. (Đến vi, tiêm, hốt, mang cũng tương tự) Một khắc có 15 phút, tất 4 khắc là 60 phút, 8 khắc là 1 giờ (4 khắc là sơ nhất khắc, sơ nhị khắc, sơ tam khắc, sơ tứ khắc; tức là chính nhất khắc, chính nhị khắc, chính tam khắc, chính tứ khắc). 120 phút là 1 giờ 12 giờ là 1440 phút (tức là 1 ngày) 30 ngày là 43.200 phút 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 29 Tháng 5, 2010 TÍNH TUẾ KẾ Tính Tuế kế, tức là tính niên cục Phương pháp tính: Tính số tích niên từ thượng nguyên Giáp Tý thiên hoàng cổ đại, đến năm Mậu Ngọ, niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 6 (năm 1798 dương lịch); được 10.155.715 năm, là vào trung nguyên Giáp Tý, kỷ thứ 2; vào nguyên Bính Tý dương, dương niên cục 43. Tra bảng “Thái ất 72 âm dương cục” (bài 9). Ta được: Thái ất đóng cung 8 Khảm Văn xương ở Tý vào cung 8 Khảm Chủ toán số 8 (Đơn dương, vô thiên) Chủ Đại tướng đóng cung 8 Khảm (tù) Chủ tham tướng đóng cung 4 Chấn (Phát) Kế thần ở Thân. Thuỷ kích ở Tị (Đại thần) Khách toán số 17 (tạp trùng dương) Khách đại tướng đóng cung 7 Khôn (Phát) Khách tham tướng đóng cung 1 Càn (nội Bách) Tính tiếp: Quân cơ ở Mùi Thần cơ ở Mão Dân cơ, Ngũ phúc ở cung giữa 5 Tứ thần ở Thìn Thiên Ất ở Dậu Địa ất ở Ngọ ****** Ví dụ : Tính Tuế kế năm Tân Hợi niên hiệu Tự Đức thứ 6 (năm 1853 dương lịch); được số tích niên là 10.155.768 năm. Tra “Bảng Thái ất 72 âm dương cục” (bài 9). Ta được: Thái ất đóng cung 8 Khảm, năm thứ hai là Lý địa, ở kỷ Giáp Tý thứ 3, Hạ nguyên được 48 năm. Tức là năm Giáp Tý 10 năm, đến Giáp Tuất 10 năm, đến Giáp Thân 10 năm. Tính đủ 48 năm là thuộc năm thứ 8 của tuần Giáp Thìn, tức là năm Tân Hợi. Vào nguyên Mậu Tý dương, dương niên cục 24. ****** TÍNH NGUYỆT KẾ Ngắt từ năm Giáp Tý, niên hiệu Nguyên Gia năm đầu, triều Tống tháng 11 Giáp Tý (năm 424 dương lịch); tính đến năm Mậu Ngọ niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 6 (triều Tây Sơn) năm 1798 dương lịch cộng được số tích niên là 1.673 năm. TÍNH NHẬT KẾ. Khởi từ năm Mậu Thân niên hiệu Hoằng Trị năm đầu triều Minh (năm 1488 dương lịch), tính được số 243. Dùng số đó tính theo năm một tiến, một lùi. Nếu gặp năm nhuận thì phải lùi. Nếu tiến, dùng những năm đã qua là số 24 tháng. Nếu lùi, dùng những số tháng thiếu của năm đã qua. Giả dụ như ngày mồng 1 Tết năm nay ở sau ngày mùng 1 Tết năm ngoái, phải dùng phép lùi. Nếu ngày mùng 1 Tết sang năm mà đứng trước ngày mồng 1 Tết năm nay, phải dùng phép tiến. Lùi tất không quá số 5, 6. Tiến tất không quá số 24 (là số nhất định) Trước hết lấy Kỷ để tìm ngày, tiếp sau lấy nguyên để tìm cục (giống như phép tính năm) ****** LUẬN VỀ QUAN, TÙ, YỂM, BÁCH, KÍCH Quan: -Có nghĩa là 2 bên giao chiến, thế 1 sống 1 chết, 2 bên phòng bị lẫn nhau, tướng văn tướng võ đều phải kiêng kỵ. -Có biểu tượng lấn át, tranh đoạt nhau. Nếu cứ làm sẽ bất lợi. Chỉ khi tính được đa (nhiều) và hoà là thắng; tính được thiếu (ít) và bất hoà là bại. -Có ý nghĩa là sự việc không kịp tới bậc nhân quân. -Về vị trí tức là Chủ, Khách Đại tướng, tiểu tướng cùng ở 1 cung, phải thay nhau mà quan phòng. Tình hình ác liệt như 2 cọp trong 1 rừng, hai thuồng luồng 1 suối. Khi có thịnh suy, thế không đội trời chung được, phải xem nhị Mục ở cung nào mà dùng Ngũ hành để quyết đoán, sẽ rõ sự thắng bại. -Khách Đại tướng, Khách Tiểu tướng phạm vào Thuỷ kích là Chủ quan Khách. -Tuế kế mà gặp như thế là chủ tướng bất hoà. Tù: -Tù là Thái ất, Văn xương, Đại tướng, Tiểu tướng xâm lấn lẫn nhau. Có ý nghĩa là dưới phạm trên, trói buộc, bài xích nhau, cố chấp nhau; sẽ bị hoạ tang vong, thua bại. -Về vị trí là Thái ất và Văn xương cùng đóng 1 cung. -Ở đất dịch tuyệt là rất dữ. -Ở đất Tuyệt âm, Tuyệt dương là tự thua, không lợi cho bên hành động trước. Kích: -Kích là Thuỷ kích ở bên phải, bên trái cung Thái ất cùng lấn đánh lẫn nhau. -Ngoại kích là các nước chư hầu xâm lấn, tôi con, bề dưới phản nghịch. Nước ngoài vào xâm lăng. -Nội kích là kẻ cận thần cùng họ với Hậu phi gây sự phế bỏ, giết chóc. -Thần gặp kích tất gấp. Cung gặp kích là chậm. -Nhà vua và tướng đều phải kiêng kỵ. Bách: -Bách là bên tả, bên hữu Thái ất gặp Thiên Mục, Địa mục và Đại tướng, Tiểu tướng bức sát gần bản cung. Chỉ vào sự xâm lấn, bức bách kìm giữ. Biểu lộ tình hình trên dưới lấn át nhau, tả hữu bức bách nhau. -Trước là ngoài, sau là trong. -Thần là cấp, cung là hoãn, ở sau Thái ất. -Năm dương, tai hoạ nhẹ. Năm âm tai hoạ nặng. Bách còn có nghĩa là Chủ, Khách, nhị Mục, tứ Tướng và Kế mục ở bên phải bên trái cung Thái ất, biểu hiện tình hình bầy tôi bức bách vua. -Ngoại bách là đại thần ngược lại mệnh vua có âm mưu bên trong, cùng họ có âm mưu phản nghịch, Hậu phi 2 lòng. -Nội ngoại Bách kích là trong ngoài liên kết mưu mô. Số tính là bất hoà thì thua; nếu cùng ở cung Dịch tuyệt là trước sau bại. -Ở đằng trước cung ấy là minh bách; sự việc xảy ra từ bên ngoài. -Ở đằng sau cung ấy là ám bách; sự việc xảy ra từ bên trong. Phản: -Phản là Thái tuế đóng trước cung Thái ất; có ý nghĩa phản nghịch, không tuân lệnh, dưới chống đối trên. Yểm: -Yểm là Thuỷ kích tới cung Thái ất. Có ý nghĩa âm thịnh, dương suy, dường mối nhà vua không còn trên lấn áp, dưới tiếm quyền, tụ tập cướp giết. Phàm thấy như vậy thì dùng mệnh toán để phối hợp xem hoà và bất hoà. Một âm, một dương gọi là đạo, tính được hoà. Khí được thuận, là tốt. Nếu bất hoà, khí nghịch là xấu. -Thái ất ở các cung 3, 8, 4, 9 là dương; tính được số 1, 3, 5, 7 là lẻ; thế là trùng dương; chủ về sự khó khăn, hạn hán, hoả tai. -Thái ất ở các cung 1, 6, 2, 7 là âm, tính được số 2, 4, 6, 8 là chẵn, thế là trùng âm; chủ về mưa dầm, lụt, nước to, đều là theo số tính thấy bất hoà. -Nếu Thái ất ở dương cung, tính được số chẵn; ở âm cung, tính được số lẻ, là tính được hoà. -Hai sao Thiên mục, Địa mục lấy các cung Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài là dương; lấy các cung Hợi, Sửu, Dần, Thìn, Tị, Mùi, Thân, Tuất, ngôi gián thần đóng là âm. -Ở cung dương, tính được số chẵn, ở cung âm tính được số lẻ là hoà. Trái lại là bất hoà. -Số 3, 9 gặp cung Dần, Thìn là thuần dương. -Số 4, 8 gặp Sửu, Tị là tạp dương. -Số 2, 6 gặp Hợi, Mùi là thuần âm. -Số 1, 7 gặp Thân, Tuất là tạp âm. -Các số 33, 39 tính được là trùng dương. -Các số 22, 26 tính được là trùng âm. -Thái ất, Thiên mục đóng ở âm cung, số tính được 24, 28 là tạp trùng âm; tai hoạ rất lớn. -Thái ất, Thiên mục đóng ở cung dương, số tính được 19, 13, 31, 37 là tạp trùng dương. Tai hoạ vừa vừa, quá lắm là trong ngoài có lập mưu. Ở cung âm mà số tính được 11, 17 là dương ở trong âm, bên trong có âm mưu. Đều lấy số tính được nhiều và hoà là thắng; trái với thế là bại. -Thái ất, Thiên mục đóng ở cung dương số tính được 33, 39 là thuần dương, là thái quá; chủ về điều hung, va bạo ngược. Đóng ở cung âm mà số tính được 22, 26 là thuần âm, là thái quá, cung là yểm. Nếu gặp cung 2, cung 8 là dịch khí; cung 4, cung 6 là tuyệt khí, tính niên kế là nhà vua gặp hung. Và cung 9 là thuần âm, cung 1 là tuyệt dương, chủ về việc bầy tôi gặp điều dữ, xấu mà bị giết. -Yểm là Thuỷ kích gia vào cung Thái ất là âm yểm dương, gặp tình hình này thì chính trị không thi hành được, kỷ cương nhà vua mất, bầy tôi mạnh, vua yếu; thân chết, nước mất, trộm cướp, binh đao, lụt hạn, bệnh dịch. -Nếu yểm ở cung dịch tuyệt là nhà vua gặp dữ lớn; ở đất tuyệt dương, tuyệt âm, là đại thần bị giết. -Nếu yểm chủ đại tướng mà số tính về chủ không hoà là dữ, số tính hoà là lành. Đại tướng tuy gặp dữ nhưng Tham tướng số tính được hoà lợi, lấy tiểu tướng đánh thì thắng. Nếu Tham tướng bị yểm thì tiểu tướng gặp điều dữ. Cách: -Cách là Khách mục, Đại tiểu tướng cùng đối xung với Thái ất, Cách biến thành tiếm đoạt, chống cự ở đất dịch tuyệt là rất dữ. -Chủ cách khách quan; nếu chiến đấu tất chủ thắng. Chủ quan, khách cách; nếu chiến đấu thì khách thắng. Chủ khách nhà số tính là bất hoà thì bại. Tuế kế mà gặp như vậy là bề tôi ở dưới, lừa dối kinh nhờn nhà vua. Kích: -Kích là Thuỷ kích bức bách gần Thái ất, tiền tả hậu hữu; trong là lấn át, đâm chém nhau, trên lấn áp, dưới tiếm quyền. -Nếu gặp thần “kích” thì tai hoạ rất gấp nếu gặp cung “kích” là tai hoạ chậm hơn. Từ vua chúa đến thứ dân, các quan văn võ đều nên kiêng kỵ. Nếu cứ làm sẽ bất lợi. Bên trong gặp rắc rối phía các bà hậu, bà phi; bên ngoài gặp phiền nhiễu từ các phiên thần hay ngoại quốc. -Kích còn là Thuỷ kích ở bên phải, bên trái cung Thái ất. Có ý nghĩa là cùng lấn đánh lẫn nhau. -Ngoại kích là các nước chư hầu xâm lấn, tôi con phản nghịch, nước ngoài vào xâm lăng. -Nội kích là kẻ cận thần cùng họ với Hậu phi có âm mưu phế bỏ, giết chóc. -Thần gặp kích là gấp, cung gặp kích thì chậm. Nhà vua và tướng tá đều phải kiêng kỵ. -Như xem năm Canh Ngọ, niên hiệu Chính trị thứ 13 triều Lê (năm dương lịch 1570), chủ tính được 33, trừ đi 30, dùng 3 tức là Chủ Đại tướng ở cung 3 mà Thái ất cũng ở cung 3 là Tù. Tù tức là có sự tang vong, là điều xấu. -Chủ Tham tướng, lấy số 3 mà nhân, 3 x 3 = 9, tức là Chủ Tham tướng ở cung 9, mà văn xương cũng ở cung 9, cũng là Tù, là xấu. -Lại tính Khách là 10, bỏ 10 dùng 1, tức là Khách Đại tướng ở cung 1, không gặp Tù, Bách, Yểm, Kích là tướng phát, là lành. -Lấy 3 x 1 = 3, tức là Khách Tham tướng ở cung 3, cùng cung với Thái ất; tức là tù, là Tiểu tướng bất lợi. -Cục này, Thái ất tuy trợ chủ, mà chủ lại bất hoà; hai tướng gặp tù, nên an cư, không thể hành động trước. -Khách hoà, tướng phát; lợi về khách; nên an cư vì lợi về hành động sau. -Thiên mục ở trước là trong có thể công ngoài; ở sau là ngoài có thể công trong. Từ Càn đến Thìn là trong. Từ Tốn đến Tuất là ngoài. -Thái ất ở các cung 1, 8, 3, 4 là Thiên nội, là trợ thủ, không thể đem quân công phạt. Muốn đánh địch, không nên khởi động trước, tức là nên hậu ứng. -Nếu Thái ất ở các cung 2, 3, 6, 7 là Thiên ngoại là trợ khách, lợi cho việc dấy binh đánh dẹp; nếu muốn đánh địch, không nên tiến sau, mà phải đánh trước. -Xét theo Tuế kế, năm Canh Ngọ niên hiệu Chính trị thứ 13 triều Lê, tương ứng với năm 1570 dương lịch, thuộc nguyên Canh Tý dương, trung nguyên, dương niên cục 31. Theo “Bảng Thái ất 72 âm dương cục”, cục dương 31 có các sao đóng tai các cung như sau: Thái ất đóng cung 3 Kế thần đóng cung Thân Văn xương đóng cung Tốn Thuỷ kích đóng cung Tuất Chủ toán số 33 Chủ Đại tướng đóng cung 3 Chủ Tham tướng đóng cung 9. Khách toán số 10 Khách Đại tướng đóng cung 1 Khách Tham tướng đóng cung 3 Đối: -Đối là chủ mục đối xứng với cung Thái ất, có ý nghĩa là sự xung đột, đối kháng nhau, là bậc đại thần có hai long, lừa dối vua, chặn đường người hiền, ghét đuổi bậc trung lương. -Nếu Chủ mục, Khách mục, Đại tướng, Tiểu tướng đối với cung với Thái ất thì tướng lại hiệp mưu gian, bề tôi dối trá. Đề hiệp: -Đề hiệp là Chủ mục, Khách mục cùng 2 tướng hoặc 1 tướng mà Hiệp cùng Thái ất, Chủ mục, Khách mục cùng 2 Đại tướng, Tiểu tướng ở cung chính ấy là Đề hiệp. -Nếu chủ mục, Khách mục ở gián thần, Chủ khách hai tướng cùng Thái ất hiệp nhị Mục ở gián thần là Hiệp quan. -Nếu chủ khách mục, tương quan số tính mà Trường hoà là thắng. -Nếu chủ khách mục, hoặc 2 tướng hoặc 1 tướng mà cùng Thái ất hiệp chủ khách mục hoặc đại tiểu tướng, ấy là vừa tôi đồng mưu, cùng giết kẻ bất nghĩa bất đạo. -Nếu nhị Mục với Đại tiểu tướng cùng hiệp Thái ất là chính sự trong tay bậc đại thần, bề tôi chuyên quyền. Số tính hoà mà có cách đối cung Thái ất là dữ; bất hoà mà không có cách đối cung thì trước thắng sau bại. -Khách mục, Đại Tiểu tướng hiệp Chủ mục ở cung gián thần thì khách thắng, nếu như hiệp Thái ất thì trước thắng sau bại. -Nếu Chủ Đại tướng gặp tù ở cung Thái ất cũng là khách thắng. -Nếu nhị Mục cùng bốn tướng hiệp lẫn nhau là 2 bên cùng dương có âm mưu. -Nếu Thiên về hiệp 1 tướng một Mục tất bên hiệp sẽ bại. -Khách tại nội, ngoại gặp Bách mà hiệp đều là bất lợi cho việc hành động trước. -Nếu Văn xương gặp tù bách mà khách Đại Tiểu tướng hiệp là đều bất lợi chủ. Chấp đề: -Chấp đề là Thái ất hợp cùng hai cửa Khai và Sinh. Đề cách: -Đề cách là Thái ất xung với hai cửa Khai và Sinh. -Chủ khách Đại tiểu tướng ở cửa Sinh đến xung cách là dữ, không nên cử sự. Xem việc quân cũng như thế. Tứ quách cố: -Tứ quách cố là văn xương gặp tù ở cung Thái ất. Chủ đại tiểu tướng lại cùng gặp Quan hoặc có Thuỷ kích, hoặc khách Đại tiểu tướng tương quan, hoặc cùng chủ đại, tiểu tướng tương quan. -Tuế kế mà gặp như thế là có hoạ thoán ngôi, kẻ dưới giết bề trên. -Có Khách tham tướng, văn xương cùng có mặt chủ đại tướng cùng khách đại tướng tương quan. -Có kiêm cả Yểm, Bách, Quan, Cách, là “Tứ quách đô”, là bất lợi cho việc xuất quân, đều bị Yểm không thong, mọi việc không thành. Đó là rất hung. 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 29 Tháng 5, 2010 CHỌN CHỦ KHÁCH VÀ THÁI ẤT, NHỊ MỤC TỐT XẤU. Âm dương hoà hay bất hoà là nói về Thái ất, Chủ Khách, nhị Mục, thần nào đóng ở cung nào. Chủ về tai hoạ do bầy tôi mạnh. Tuy ở cung dương mà tính được thuần dương cũng không tốt. Nếu năm đó tính được số 14, 18, 23 là Thương hoà; chủ về tám phương bình an, nước có điềm lành. Nhị mục mà được như vậy là các tướng đại lợi. Các số 23, 36, 29 là Thứ hoà. Chủ về tình hình thiên hạ yên hoà, nhân dân vui vẻ, mùa màng được. Các số 12, 16, 27, 34, 38 là Hạ hoà. Chủ về chín cõi bình an, cơm no áo đủ. Tuế kế mà gặp như vậy là năm thông thuận. Tính được các số 16, 26, 36, 17, 27, 37, 18, 28, 38, 19, 29, 39 là Tam tài đều đủ. Tính Tuế kế mà gặp thế, lại không có Quan, Tù, Yểm, Bách, Cách, Đối, Đề, Hiệp phạm vào là chủ về việc trời, giáng phúc lành, dân yên, mùa được. Nếu số tính được các số đơn: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9 không đến số 10 là số đến số 10 là số Vô thiên. Hoặc gặp quan, tù, yểm, bách, cách, tuyệt và âm dương bất hoà là trời có biến đổi lạ thường, hai sao bị ăn khuyết, năm vì sai lệch, sao Tuệ (sao chổi), sao Bột (sao thổ) xuất hiện là có tai hoạ về sương buông và mưa đá. Nếu tính được số 11, 12, 13, 14, 21, 23, 24, 31, 32, 33, 34 số tính không quá 5 là 5 là Vô Địa. Hoặc gặp các điều xấu thì mặt đất có nhiều biến đổi lạ thường như núi lở, đất rung, sông cạn, nước bồng; thậm chí còn có sâu bọ nảy sinh, dân chúng xâu xé lẫn nhau. Nếu tính được số 10, 20, 30, 40 là số không qua 1 là Vô nhân. Hoặc có các điều phạm về bất hoà thì con người có biến đổi lạ thường (cãi cọ, lật lọng, dối trá, trộm cướp…). Thậm chí còn loạn lạc, tật dịch, phiêu bạt, mất mùa, chết đói, rất nhiều tai hoạ. Nếu như tính được các số 2, 12, 32 là đủ ba x của năm tương phát, lợi việc dấy binh xuất quân. Nếu như số tính được 10 là Tướng quân, được 5 là Lại sĩ, được 1 là binh lính. Không trúng số 10 là không có Tướng; ra quân không có lợi cho chủ tướng. Không trúng số 5 là không có Lại sĩ; bất lợi cho phó tướng. Không trúng số 1 là không có binh lính; bất lợi cho quân sĩ. Nếu như tính được từ số 16 trở lên là Hoà, là Tướng, Lại, quân lính đều đầy đủ; lợi cho việc dấy quân, làm trăm việc. Nếu dưới số 16, số đơn từ 9 trở lên là bất lợi cho việc ra quân, kỵ trăm việc. LUẬN VỀ CHỦ KHÁCH, TRƯỚC SAU. Như dân quân ở đồng bằng, cờ trống cùng trông, thấy nhau; hành động trước là khách, ứng phó sau là chủ. Nếu ở thời an cư, hành động trước là chủ, ứng phó sau là khách. Sách phong giốc chiêm nói: Làm vua một xứ, độc 1 mình là chủ; đem quân vào đất lạ là khách. Sách Thống tôn nói: Lấy Trung Quốc là chủ thì xem chủ mục, Văn xương. Lấy rọ ngoài là chủ thì nhìn khách mục, Thuỷ kích. Sách Đăng dàn nói: Như bốn tướng cùng 1 cung, thì Khách có thể Quan được Chủ, chủ không thể Quan được Khách. Đương lúc như vậy nên cử binh trước để ứng chiến với Khách. Nếu là Chủ mà khởi sự sau thì gặp đại hung. Muốn rõ Thiên đạo, trước phải suy tính Chủ, sau suy tính Khách. Nếu cả chủ khách đều được kế lành, ba cửa đủ, năm tướng phát, âm dương hoà là lợi cho việc dấy binh, đi đâu được đó. Khởi sự trước là thắng, khởi sự sau tất bại. Nếu chủ khách đều gặp kế xấu, ba cửa không đủ, năm tướng không phát, âm dương không hoà thì khởi sự trước là bại, khởi sự sau sẽ thắng. Tính về cát hung, trường là thắng, đoản là bại. Tính chủ khách, lấy trường nhiều là thắng; đoản ít là thua. Trường nhiều thì nên vào sâu; trường ít thì vào nông. Xem nước ngoài động tĩnh ra sao, lấy giờ của phép tính khách mà xem vào cửa Đỗ thì giặc không đến. Cửa đủ, tướng phát, âm dương hoà, chủ khách đều hội ở trước Thái ất thì giặc đến hàng. Như xem rợ Bắc Dịch, khách mục chuyển mà đi về phía Nam là giặc đến; chuyển đi về phía Bắc là giặc không đến. Xem về việc quân địch cho sứ đến giảng hoà, có thể tin hay không, nên xem Thái ất chế ngự. Như tính thời kế Thái ất ở cung 2 là Ly hoả. Thuỷ kích đến Thân, Vũ Đức là kim, Hoả chế khắc kim là sứ bên địch thực hàng. Xem có phản gián hay không, nên xem Khách mục trước và sau. Như Thái ất ở cung 1 Càn. Nếu chủ khách Đại tướng, Tiểu tướng, Thuỷ kích đến các cung 6, 7, 2 là ngoài, là trước; đến các cung 8, 3, 4, 9 là trong, là sau. Nếu Khách mục Thuỷ kích đến Tuất là có giặc đến nhòm ngó. Xem quân giặc đến nhiều hay ít, nếu lấy số khách tính được 16 trở lên, âm dương thịnh là quân giặc nhiều, có tướng mạnh. Nếu được dưới số 15 thì quân giặc ít. Thiên mục đến phía trái thì giặc từ phía Đông kéo đến; đến phía phải thì giặc từ phía Tây kéo đến; vào cửa Đỗ thì giặc không đến. Xem về sự đối địch, nên xem thế mây gió, chim bay, muông chạy. Cung Thái ất sở tại mà có gió mây, chim muông từ giữa bay lên thì phải chuẩn bị gấp. Như Thái ất ở cung Tốn là mộc, mà gió mây chim thú từ phương Càn kim bay tới là chế ngự Thái ất; là rất xấu. Gió mây, chim muông từ khu Chủ Đại tướng, Thái ất, Tòng Đức lại thì cần đánh gấp, vì Chủ Đại tướng lợi. Nếu từ cung khách mục, Đại tướng lại thì nên chuẩn bị đối phó với địch. Chọn ngày, chọn giờ nên xem cách tính ngày và giờ. Nếu lợi, sẽ dấy quân. Khắc chế không nên theo. (Phép tính ngày và giờ sẽ nói rõ ở sau) Xét chủ khách là vô thường, tuỳ người mà hoạt biến. Như xem năm Kỷ Tị niên hiệu Chính thống triều Minh, Thái ất vào cục 64. Thái ất đóng cung 2 Ly, trợ khách. Khách 24, hoà. Đại tướng phát, lợi là Khách lợi ở hành động trước. Chủ 38, tuy hoà, tham tướng phát nhưng Đại tướng gặp cách là trên dưới gặp cửa Đỗ. Thuỷ kích cũng bị cách là đổi thay biến dịch. Văn xương bị Bách Khách Tham tướng gặp tù là bức hiếp, trì trệ, giằng co, công kích, không lợi cho chủ; nên cố thủ. Lại Khách mục ở Khảm là thuỷ khắc Thái ất là hoả; rất xấu. Năm ấy Dã Tiên làm giặc, Vương Chấn (bầy tôi đời vua anh Tông triều Minh) không nghe lời bàn của quần thần, ép vua thân chinh, bị thua ở Thổ mộc (một địa danh ở Trung Quốc). Vua đi tuần thú phương Bắc, chỉ lấy tính về chủ, về Khách đều được hoà, cuối cùng quay được về. Đó là sự nghiệm về Trung Quốc là chủ, rợ ngoài là khách; ứng phó là Chủ, hành động trước là Khách. Năm Bính Tuất niên hiệu Vĩnh Lạc nhà Minh, Thái ất vào cục 13 Thái ất ở cung 9, trợ khách Khách là 23, trường hoà. Tham tướng tù Đại tướng phát lợi cho khách, lợi hành động trước. Chủ là 16, hoà Hai tướng phát, cùng lợi cho chủ. Chủ đoản, khách trường. Trường mà nhiều là thắng. Chủ và Khách đều tính được số lành. Lợi cho việc dấy quân; khởi sự trước là thắng, khởi sự sau là bại. Khách mục ở Thân là kim, khắc Thái ất mộc; rất xấu. Văn xương đối xứng với Thái ất là xung tai. Năm ấy, nhà Minh sai tướng Hoàng Trung đem quân đưa Trần Thiện Binh về nước ta. Chúa họ Hồ cự chiến ở Lạng Sơn; trước thua sau thắng. Vua Thành Tổ nhà Minh cả giận, phát đại quân sang đánh. Trương Phụ và Mộc Thanh chỉ huy 2 đạo quân cùng tiến, phá quân Hồ, chiếm đất Giao Châu. Chỉ lấy Chủ tính được hoà, các cửa đủ, tướng phát nên cuối cùng thu phục lại được và lập quốc. Đó là nghiệm về ở đất vua là chủ vào 6 cõi khác là khách; ứng chiến sau là Chủ, khởi động trước là Khách. Năm Canh Dần niên hiệu Vĩnh Lạc, Thái ất vào cục 27, Thái ất đóng cung 1 Càn, trợ thủ. Chủ 30, trường hoà. Đại tướng tù. Thái ất ở kim khắc Thuỷ kích là mộc. Lợi chủ, lợi cho hành động sau. Khách 26, chủ đại. Tiểu tướng hiệp khách đại tướng, bất lợi cho khách. Năm ấy, Bản nhà Thất lý chống lệnh triều đình. Vua Thành Tổ tự đem quân đi đánh phương Bắc. Đánh bại chúng ở sông Cán Nan. Đó là Trung Quốc, rợ ngoài là Khách, khác cõi là Khách. Năm Mậu Tuất niên hiệu Vĩnh Lạc Thái ất đóng cung 4 Chủ 25 Cửu là Đỗ. Đại tướng phát. Lợi cho Khách, lợi cho sự hành động trước. Năm ấy đức Cao Hoàng triều ta khởi binh ở Lam Sơn, lần lần đánh giặc đều thắng. Quan Tam Ty nhà Minh phải giảng hoà kéo quân về Bắc. Nước An Nam mới thu phục lại được, bởi vì bên kia chiếm nước ta, chia ra quận huyện thì họ là chủ, ta chỉ là 1 chốn khởi binh thì ta là khách. Thế là trong nước là Chủ, ngoài nước là Khách, mà có cái nghĩa đất là của vua đã rõ ràng. Năm Đinh Mùi niên hiệu Tuyên Đức, Thái ất vào cục 44. Thái ất đóng cung 8 Số tính là trường. Văn xương bị ngoài Bách. Khách mục khắc chế Khách tham tướng cách Đối bất lợi cho Chủ nhân Khách đoản cũng bất lợi nhưng được Thượng hoà Khách đại tướng và tiểu tướng hiệp chủ tham tướng. Chủ đại tướng hiệp khách tham tướng là 2 bên đối địch nhau, cùng mưu diệt nhau. Tình thế này, khởi động trước là bại, khởi động sau mới thắng. Trong khung cảnh cờ trống cùng trông thấy nhau thì khởi động trước là Khách, khởi động sau là Chủ. Đức Cao Hoàng ta đã vây Đông Đô, các lộ đã hạ được cả. Tháng 2 năm ấy, hai thượng tướng là Lê Triện và Lê Công Thành bị thua, chết hại binh lính hàng vạn người. Tháng 10, đại tướng nhà Minh là Liễu Thăng đem bảy vạn quân đến xâm phạm. Quân ta nhử đánh ở trên ải Chi Lăng, phá tan quân địch, chém chết Liễu Thăng. Đó là biểu tượng của sự hai bên cùng o ép lẫn nhau (hỗ hiệp). Khởi sự trước là bại, chủ khách vô thường là thế. Cho nên, nhất thời, hai bên cùng chiếm 1 cục, đều nên lấy đó mà suy lường mới rõ nghĩa của Chủ Khách; quyết được thời cơ hành động sau hay trước. Khách tính được thượng hoà thì tám phương thanh bình, khang thái, thiên hạ ngừng binh. Từ đó Nam Bắc kết giao hoan hỷ, trong ngoài không còn chuyện gì. 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 29 Tháng 5, 2010 CÁC SỐ PHỐI HỢP NGŨ ÂM Các số phối hợp ngũ âm như sau: -Số 1 là cung -Số 2 là tỷ cung. Có biến động ở vua, số tính mà hoà, không có Tù, Bách thì vua có phúc lành. Bất hoà lại có Tù, Bách là trời biến động, vua có điều lo. Như xem năm Kỷ Mão, niên hiệu Vũ Đức thứ 2 triều Đường, năm này Thái ất vào cục 16, nguyên Giáp Tý. Thái ất ở cung 7 Thiên mục ở Mùi, Thiên đạo. Chủ tính được 1, hoà. -Số 3 là Chuỷ. -Số 4 là Tỷ chuỷ. Có biến ở tôn miếu. Số tính hoà là có tăng bổ, chủ về tôn thần. Bất hoà và bách, kích lập tức bị phế hoại. Như xem năm Đinh Mùi niên hiệu Thái Khang thứ 8 triều Tấn; năm này Thái ất vào cục 44. Thái ất đóng cung 8 Thiên mục đóng cung Sửu, dương đức Chủ tính được 33, Chuỷ. Thiên mục, gián thần gặp Bách Chủ Đại tướng ở ngoài cung Bách Năm ấy nhà Thái miếu gặp tai họa -Số 5 là Vũ. -Số 6 là Tỷ Vũ Có biến ở bậc Hậu phi. Số tính mà hoà, không gặp Tù, Kích, Bách, Hiệp thì lành; trái lại là dữ. Như xem năm Đinh Mão niên hiệu Nguyên Đỉnh thứ 3 triều Hán. Thái ất vào cục thứ tư. Thái ất đóng cung 2 Thiên mục tại Càn, âm đức. Chủ tính được 25 là Vũ Đỗ không thông vô môn. Thuỷ kích ở Sửu, dương đức Khách tính được 7, bất hoà. Năm ấy Thái hậu mất. -Số 7 là Thương. -Số 8 là Tỷ Thương. Có biến ở con cháu. Tính được hoà, không gặp Quan, tù, yểm, bách là chủ về việc Thái tử được lập; trái thế là có sự lo. Như xem năm Giáp Thân niên hiệu Thiên Tích năm đầu triều Nguỵ. Thái ất vào cục 17. Thái ất đóng cung 7 Thiên mục tại Khôn, Đại vũ. Chủ tính được 7 Năm ấy lập Hoàng thái tử. -Số 9 là Giốc -Số 6 là Tỷ Vũ Có biến ở bậc Hậu phi. Số tính mà hoà, không gặp Tù, Kích, Bách, Hiệp thì lành; trái lại là dữ. Như xem năm Đinh Mão niên hiệu Nguyên Đỉnh thứ 3 triều Hán. Thái ất vào cục thứ tư. Thái ất đóng cung 2 Thiên mục tại Càn, âm đức. Chủ tính được 25 là Vũ Đỗ không thông vô môn. Thuỷ kích ở Sửu, dương đức Khách tính được 7, bất hoà. Năm ấy Thái hậu mất. -Số 10 là Tỷ Giốc. Có biến ở dân chúng. Tính được hoà, không gặp Tù, Bách, là dân yên vật thịnh. Trái thế là phát sinh tật dịch, đói rét, sâu bệnh. Như xem năm Bính Tý, niên hiệu Kiến An năm đầu triều Hán. Thái ất đi vào cục 25. Thái ất đóng cung 1 Càn Thiên mục tại Tý, địa chủ. Chủ tính được 39 Năm ấy có bệnh dịch lớn Từ số 1 phối với Cung là suy nghiệm về tai biến phát. Xem năm, tháng, ngày, giờ đều lấy năm Kế thần đóng, thêm vào Hoà Đức. Xét rõ Thái ất đi đến cung thần nào là kỳ hạn tai biến phát sinh. Thái ất ở cung 2 Ly, chủ năm, tháng Ngọ gặp tai hoạ. Thái ất đóng cung 9 Tốn, các năm Thìn Tị gặp tai hoạ (việc Hoàng Hựu nhà Tống). Năm Nhâm Thìn, Thái ất đóng cung 7 Khôn, kế thần ở Tuất. Lấy Tuất đặt là Cấn, Hoà Đức, tính thuận. Càn ở Dần Hợi ở Mão Tý ở Thìn Sửu ở Tốn Cấn ở Tị Dần ở Ngọ Mão ở Mùi Thìn ở Khôn Tốn ở Thân Tị ở Dậu Ngọ ở Tuất Mùi ở Càn Khôn ở Hợi Thái ất lâm Hợi, tháng 10 là thời điểm có tai hoạ Hoặc Thái ất, Thiên mục cùng lâm vào cung 3 tất các năm, tháng Sửu, Dần là thời hạn có tai hoạ. 3 people like this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 30 Tháng 5, 2010 bài quá hay, cám ơn bác Hà Uyên! 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 30 Tháng 5, 2010 THÁI TUẾ Thái tuế là biểu tượng cho người chủ lãnh đạo các thần. Đi tuần thú quốc gia, thăm hỏi các địa phương, đem quân ra trận, kiểm tra nơi cảnh giới, đều không thể không xem cho kỹ. Nếu Tuế quân (Thái tuế) và Thái ất cùng gặp Cách là đại hung. Thái ất đóng cung 3 mà Thái tuế ở Mùi là cách. Có sao chổi xuất hiện ở phương Tây Nam, là các nước phía Đông Bắc bại hoại trước, các nước phía Tây Nam bại hoại sau. Nếu sao chổi xuất hiện ở phương Đông Bắc thì trái lại. Hiện tượng này chủ về sự lưu vong, tật bệnh. Thái ất đóng cung 4, Thái tuế ở cung Dậu cũng là cách. Khi có sao Thái Bạch xuất hiện ở phương Tây là nước phía Đông bại hoại trước, nước phía Tây bại hoại sau. Nếu sao chổi xuất hiện ở phương Đông thì ngược lại. Hiện tượng này chủ về sự binh đao, tật dịch, lưu vong. Thái ất đóng cung 8, Thái tuế ở cung Ngọ cũng là cách. Khi có sao Huỳnh hoặc xuất hiện ở phương Nam, là nước phía Bắc bại hoại trước, nước phía Nam bại hoại sau. u sao đó xuất hiện ở phương Bắc thì ngược lại. Hiện tượng này chủ về sự loạn lạc, tang thương. Thái ất ở cung 9, Thái tuế ở Tuất Hợi cũng là cách. Khi có sao Bột xuất hiện ở phương Tây là nước ở phương Đông bị bại hoại trước; nước ở phương Tây bị bại hoại sau. Nếu sao Bột xuất hiện ở phương Đông thì ngược lại. Hiện tượng này chủ về sự tang thương, tật bệnh. Khi có sao chổi xuất hiện ở phương Tây Bắc, là nước ở phương Đông Nam bại hoại trước; nước ở phương Tây Bắc bại hoại sau. Nếu sao Chổi xuất hiện ở phương Đông Nam thì ngược lại. Hiện tượng này chủ về sự binh đao, tang thương, tật bệnh. Nếu Thái ất ở các cung 3, 8, 4, 9 lại bị cách mà Thái tuế ở các cung Ngọ, Mùi, Thân, Dậu đều có sát khí yêu tinh hiện ở phương đó thì nhà vua nên tu sửa đức độ, làm tốt chính sự để tránh đi. Và nên đổi niên hiệu, xá hình tội thay đổi chính lệnh để ứng phó với sự biến động nên xảy ra. Ngoài những năm nói ở trên là không bị cách, và do nguyên nhân có sinh khí. THÁI ÂM Giả dụ như năm Tý thì Thái tuế đóng cung Tý; cung Hợi là hợp thần. Sau hai cung tức là cung Tuất là cung Thái âm đóng. Các năm khác dựa theo đó mà tính. Thái âm là vị hậu phi của Tuế đức, chủ về dạy dỗ, khuyên bảo, hứa hẹn. Ở sau Thái tuế 2 thần. Như tính về Thái ất mà Thái ất và Thái âm cùng cung là tất có nước láng giềng đem tiến cống con gái đẹp. Văn xương hoặc Thuỷ kích cùng cung với Thái âm là Hậu phi có lòng nghiêng ngả, phụ nữ chủ về mưu mô. Nhà vua gặp năm như thế thì phải thân thiết với các trung thần, xa lánh kẻ dèm nịnh, cẩn mật với tả hữu, dứt việc nữ sắc, để phòng suy vi. 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 30 Tháng 5, 2010 KINH NGHIỆM TÍNH TOÁN THÁI ẤT I.Xem tuế kế 1. Tính từ thượng cổ, năm Giáp Tý đời Thiên Hoàng, đến năm Canh Ngọ, niên hiệu Chính trị thứ 13 triều Lê (Mậu Ngọ 1558 – 1571). Số tích niên là 10.155.487 năm -Thái ất vào nguyên Canh Tý. Cục 31 -Thái ất ở cung 3 Cấn -Chủ đại tướng ở cung 3. Tù (đồng cung với Thái ất) -Thiên mục Văn xương ở cung 9 Tốn -Chủ tham tướng ở cung 9 Tốn (đồng cung với Văn xương) -Thủy kích ở Tuất, chủ về âm -Khách đại tướng ở cung 1. Phát -Kế thần ở cung Thân -Khách tham tướng ở cung 3. Tù -Chủ toán: 3, 10, 3. Trùng dương. Vô địa -Khách toán: 10. Cô dương Cục này, Thái ất thuộc Lý thiên (lẻ 1), chủ về trời hạn Nội giúp chủ (cung 1, 8, 3, 4 là nội trợ). Chủ về phương Nam có binh khởi. Văn xương ở ngoài, có thể đánh vào trong (cung 2, 9, 6, 7 là ngoại) Chủ toán là số lẻ. Chủ về không nên làm việc lớn. Chủ đại tướng Tù. Có việc vỡ đổ, thương vong, bỏ chạy và thất bại. Nếu cứ làm sẽ không lợi. Chủ tham tướng, Quan. Chịu sự khắc chế của Văn xương. Các quan văn, võ nên kiêng kỵ; phải đề phòng, chuẩn bị đối phó việc xấu nảy sinh (gần thì ngay trước mắt đại tướng). Âm mưu phát sinh từ đám quân quan. Nếu cứ làm sẽ bất lợi. Thủy kích ở Tuất là thổ. Các năm Canh được mùa và yên vui, mùa hạ có nước lớn. Đến vùng sao khuê, bầy tôi làm điều phản nghịch. Đến vùng sao lâu, núi rừng có giặc nổi dậy. Đường không thong Về khách toán là âm dương bất hòa. Không nên cất quân Khách đại tướng phát Khách tham tướng Tù Chủ đại tướng Quan Các quan văn, võ phải kiêng kỵ (Năm ấy Thái vương mất, các tướng làm phản) Tuấn Đức hầu lập Thành Tô. Quân Mạc nhân đó cử đại binh vào quấy phá; sau cũng bị đánh lui ............................... 2. Tính từ năm Giáp Tý thời thượng cổ đến năm Nhâm Thìn niên hiệu Quang Hưng thứ 15 triều Lê (Năm Mậu Dần 1587 – 1599), số tích niên là 1.155.509 năm -Thái ất ở nguyên Canh Tý. Cục 53 -Thái ất ở cung 2 Ly -Chủ đại tướng ở cung 8 Khảm -Thiên mục Văn xương ở cung 7 Khôn -Chủ tham tướng ở cung 4 Chấn. Phát -Thủy kích ở Hợi là Đại nghĩa -Khách Đại tướng, khách tham tướng ở trung cung -Kế thần ở Tuất -Chủ toán là 3, 10, 8. Trường hòa -Khách toán là 2, 10, 5. Đỗ .................................... 3. Tính đến năm Kỷ Hợi, niên hiệu Quang Hưng thứ 22 triều Lê, số tích niên là 10.155.516 năm Thái ất đi vào kỷ nguyên năm Canh Tý. Cục 60 Thái ất ở cung 4 Chấn Chủ đại tướng ở cung 2. Phát Thiên mục văn xương ở Hợi. Đại nghĩa. Khách đại tướng ở cung 3. Bách Thủy kích ở Tuất. Chủ âm. Khách tham tướng ở cung 9. Bách Kế thần ở Mão, tù. Chủ tham tướng ở cung 6 Chủ 10, 2. Hạ hòa. Vô địa Khách 10, 2. Tạp trùng dương. Cục này Thái ất giúp cho chủ. Chủ là hòa. Bát môn đủ. Tướng phát. Bát môn khai thong. Cất quân đều thành. Đánh không trận nào không thắng. Thủy kích ở Tuất thổ. Năm Tị cung giữa có lo âu Lâm vào vùng sao Khuê, kẻ bề tôi dưới làm điều ác Đến vùng sao Lâu, giặc núi nổi lên, đường đi không thong Khách đại tướng bên trong bức bách Thái ất Khách tham tướng bên ngoài cũng bức bách Thái ất là cùng nhau mưu nghịch. Đại thần trái lệnh vua. Thái tuế ở sau Thái ất, gặp năm âm, tai họa hiểm sâu. Xét về khách là tạp; trùng dương là xấu Đại tướng, tiểu tướng bách là bất lợi Thái ất tuy gặp hai tướng khách Đề hiệp, nhưng ở cung 4 là nội, còn có thể chống đỡ. Chủ thắng, khách bại Năm ấy thành tổ nhân phong phương vị. Đến mùa thu, thế tổ mất. Bỏ thái tử lập con thứ. Năm sau, đại tướng Nguyên Hoàng đi Nam, Phan Ngạn và Bùi Văn Khê làm phản. Xa giá phải chạy sang phía Tây. Hai giặt trên rồi cũng bị bại vong. .................................. 4. Năm Giáp Thân, niên hiệu Phúc Thái thứ 2 triều Lê (năm Quý Mùi 1643 – 1649). Số tích niên là 10.155.561 năm Thái ất đi vào kỷ nguyên Nhâm Tý. Cục 33 Thái ất ở cung 3 Cấn Chủ đại tướng ở cung 4. Ngoại bách, khách hiệp Thiên mục văn xương ở cung 2 Ly Khách đại tướng ở cung 3. Tù Kế thần ở Ngọ Chủ địa tướng ở cung 2. Phát Thủy kích ở Cấn. Hòa đức. Yểm. Kích Khách tham tướng ở cung 9. Hiệp chủ Chủ: 2, 10, 4. Mưu. Dương. Vô địa Khách: đơn 3. Đơn dương. Vô thiên Cục này tính về khách và Thái ất thấy cùng ở 1 cung là Quan, Tù; có biểu tượng tranh giành, lấn át lẫn nhau Khách đại tướng phạm Thái ất. Dưới phạm trên có họa bôn tẩu, bại vong, thoán đoạt, phản nghịch. Các quan văn, võ đều ko lợi. Thủy kích vào cung Thái ất là yểm. Âm thịnh dương suy, cương kỷ nhà vua mất mối dường. Vua yếu, bầy tôi mạnh. Thân chết, nước mất. Yểm có ý nghĩa tụ tập, cướp giết. Ở cung 3 là chủ thắng khách. Khách đại tướng bị yểm, khách cũng bị bại Thủy kích ở cấn thổ. Năm Giáp, cung trung đông Thái ất bị yểm, bầy tôi ở dưới âm mưu thoán đoạt bề trên. Phương Sửu cấn Dần (Đông Bắc) không bằng phương Nam khách hai tướng hiệp chủ đại tướng. Chủ hai tướng cũng hiệp khách tham tướng Chủ khách đều bất lợi. Hai bên hiệp lẫn nhau là hai bên đối địch, đều mưu chống nhau. Chủ là trường. Khách là đoản; cuối cùng, giặc tự bại. Tính ra thấy: Vô thiên, Quan, Tù, Yểm, Bách; và âm dương bất hòa thì trời có biến đổi lớn Tính ra thấy: Vô địa; đất có thay đổi khách thường nhân dân cấu xé lẫn nhau Thái ất ở cung 3 là giúp chủ, đối phó lại sau là thắng. Năm ấy nước ta đem quân đánh Thuận Hóa, lúc quân về, vua Thần Tôn nhà Lê (làm vua lần hai 1649 – 1652) nhường ngôi. Vua Chân Tôn mới được lập; trong nước vô sự Ngũ phúc từ năm Giáp Tý niên hiệu Thiên Khải năm thứ ba vào cung Cấn, Sửu, Dần đã là 21 năm. Quân cơ kể từ niên hiệu Sùng Trinh năm thứ 14 vào Sửu đã 4 năm. Thần cơ năm ấy vào Tý; đó là cung Tý, Sửu, Dần, địa phận Đông Bắc, có bậc vương giả hưng. Thủy kích vào cấn, là bỏ cũ thay mới. Trực phù vào Thìn Tứ thần vào Tý Thiên ất vào Tị Địa ất vào Thân Loạn lạc, mất mùa, hạn, tai họa rất nhiều. Hạ nguyên, vận giữa tai hại nặng. ................................ 5. Năm Ất Dậu, niên hiệu Phúc Thái thứ ba Triều Lê (năm Quý Mùi 1643 – 1649) thêm 1, tính là cục 34. Thái ất ở cung 4 chấn Chủ đại tướng ở cung 6. Cách Thiên mục Văn xương ở Mùi. Thiên đạo Khách đại tướng ở cung 4. Tù Thủy kích ở Mão. Cao tùng. Yểm. Kích. Chủ tham tướng ở cung 8. Phát Kế thần ở Tị Khách tham tướng ở cung 2. Phát Chủ: 2, 10, 6. Trường hòa Khách: đơn 4. Đơn âm, vô địa Cục này tính về khách cũng thấy cùng ở một cung với Thái ất là Quan, Tù. Có biểu tượng lấn áp, bức bách. Thủy kích cũng yểm, bách Thái ất; nhưng Thái ất ở cung 4 là trợ chủ. Chủ trường hòa, khí thuận là lành. Đại tướng tuy gặp Cách, mà tham tướng Phát, cho nên lợi cho chủ. Chủ cách, khách quan. Chiến đấu thì chủ thắng khách. Đại tù, bất lợi là khách. Thái ất cùng thủy kích, khách đại tướng cùng ở cung 4 là tuyệt khí; hung họa khá nặng, có biểu tượng diệt cũ thay mới. Phía Đông Nam phải kiêng kỵ Thủy kích ở Mão mộc. Năm ất, phía đông binh loạn, được mùa. Năm ấy, Trịnh Tùng mới mở phủ Tiết chế. Phù quận công và Hoa quận công Hoàng Ngũ Phúc mưu làm loạn. Phù tiết chế biết trước, dẹp yên được. Bởi ở thời an cư, cử binh trước là chủ; ở thời nhất thống cũng lấy đất vua làm chủ mà giặc nhỏ là khách. Chủ toán trường, khách toán đoản. Thủy kích yểm, Thái ất tù. Giặc họ Lý, họ Trương lần lượt dẹp yên. .............................. 6. Năm Giáp Tý, niên hiệu chính hòa thứ năm triều Lê (năm Canh Thân 1680 – 1705). Số tích niên là 10.155.601 năm. Thái ất 1 ở càn là Lý thiên. Năm Giáp Tý bắt đầu thượng nguyên, kỷ thứ nhất. Thái ất vào nguyên Giáp Tý, cục 1. Thái ất ở cung 1 càn. Chủ đại tướng ở cung 7 khôn. Khách mục yểm Văn xương ở Thân. Vũ đức, địa mục kích. Khách đại tướng ở cung 3 phát. Thủy kích ở Khôn, Đại vũ, yểm chủ đại tướng. Chủ tham tướng ở cung 1. Tù Kế thần ở Dần Khách tham tướng ở cung 9. Cách Chủ 7. Đơn dương. Vô thiên Khách 13. Trường hòa. Cục này Thái ất trợ khách. Khách trường hòa, cửa đủ, tướng phát. An cư, hành động sau có lợi. 1 là cung hòa thì thiên hạ thanh bình, an thịnh. Chủ đại tướng yểm; chủ tham tướng Tù, bất lợi cho thượng công và thượng tướng. Khách đại tướng phát. Công khách tan, nha môn khởi dụng. (Ngũ phúc từ năm Kỷ Dậu, niên hiệu Cảnh Trị thứ 7 đi vào Tốn, năm Quý Mão 1663 – 1671) Quân cơ năm Tân Hợi, niên hiệu Cảnh Trị năm thứ 9 đi vào Dần. Thần cơ năm ấy đi vào Sửu Dân cơ năm ấy đi vào Thân Là cát tinh lâm chiếu; bốn phương an tĩnh, vô sự ............................ 7. Năm Nhâm Tý, niên hiệu Vĩnh Khánh thứ tư triều Lê (năm Kỷ Dậu 1729 – 1732). Số tích niên là 10.155.649 năm. Thái ất đi vào nguyên Giáp Tý cục 49. Thái ất ở cung 1 càn Chủ đại tướng ở cung 4. Phát Văn xương ở cung 9. Tốn Chủ tham tướng ở cung 2. Phát Thủy kích ở cung Thìn. Thái dương Khách đại tướng, khách tham tướng ở cung giữa Kế thần ở Dần Chủ: 2, 10, 4. Trường hòa. Tạp trùng âm Khách: 2, 10, 5. Môn: Đỗ Cục này Thái ất ở cung âm (2, 7, 6, 1 là âm; 8, 3, 4, 9 là dương) Chủ toán được tạp trùng âm. Tai vạ lạ lùng, chủ về việc trong ngoài có lập mưu. Tính được hòa nhiều là thắng. Thái ất đúng cung 1 là tuyệt dương. Văn xương đúng cung 9 là tuyệt âm. Kẻ bề tôi hung dữ nên bị giết. Văn xương và Thái ất cùng trông nhau là Cách. Trên dưới, đổi đời. 1 – 9 cũng đối nhau là có tai họa Phụ tướng phải đương đầu Quân cơ từ năm Tân Hợi vào cung Thìn vừa được hai năm. Năm ấy, Thủy kích cũng ở đồng cung là biến đổi. Thần cơ vào cung Tị, cùng cung với Văn xương, lại là Thủy kích bức bách công kích. Năm ấy phế Hôn đức công Lê Dung Phương (hiệu Khánh Đức), Thuần Tôn lên ngôi. Các tướng cùng bị tội giết. Cung 1 càn – Hợi là Giao Châu. Cung 9 tốn – Tị, sao Chẩn, dư khí. ...................... 8. Năm Kỷ Mùi, niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 5 triều Lê (năm Ất Mão 1735 – 1740). Số tích niên là 10.155.656 năm. Thái ất đi vào nguyên Giáp Tý. Cục 56 Thái ất ở cung 3 cấn Khách đại tướng ở cung 4. Bách Văn xương ở cung 6 Dậu Chủ đại tướng, chủ tham tướng ở cung giữa Thủy kích ở Thìn, Thái dương Khách tham tướng ở cung 2. Phát Kế thần ở Mùi Chủ: 10, 5. Môn: Đỗ Khách: 3, 10, 4. Hạ hòa Cục này, thủy kích yểm, bách Văn xương tù, hiệp Nhưng chủ là Đỗ tắc thì không cửa nào là không lợi Khách trường hòa, ngoài bức bách Thái ất, bầy tôi có âm mưu; hòa là mưu thành. Thủy kích là thổ, gặp năm Tị, trung cung biến là nước dâng, núi lở động đất. Cũng tương tự, lấy đất của vua, là chủ, giặc giã trộm cướp là khách. Thái ất ở thiên nội là trợ chủ; không nên khởi trước nên ứng phó sau thì tốt. Khách đại tướng bách Khách tham tướng phát, vượng. Tù khí cũng bất lợi. Năm ấy, dân cơ vào cung Mão, Địa cơ vào cung Thìn. Hai khách đại, khách tù cùng cung Mão là dân dưới làm phản, giặc giã nổi lên ở phương Đông Nam. ................................................... 9. Năm Ất Mão, năm Dần niên hiệu Vĩnh Hựu triều Lê (1735 – 1740). Số tích niên là 10.155.652 năm. Thái ất đi vào ky nguyên Giáp Tý. Cục 52 Thái ất ở cung 2 ly Chủ đại tướng ở cung 9. Nội bách Văn xương ở Mùi. Thiên đạo. Bách Khách đại tướng ở cung 1. Phát Thủy kích ở Dậu. Thái thốc. Chủ tham tướng ở cung 7. Hiệp. Ngoại bách Kế thần ở Hợi Khách tham tướng ở cung 3. Phát Chủ: 3, 10, 9. Trùng dương Khách: 3, 10, 1. Tạp trùng dương. Hòa Cục này chủ đại tướng, chủ tiểu tướng bức bách Thái ất. Ngoại bách là đại thần trái lệnh vua. Nội bách là người cùng họ mưu nghịch, nội thần có hai long. Cung bức bách là tai biến đến chậm Văn xương bên ngoài bức bách Thái ất cũng là đại thần nghịch mệnh. Thần bức bách là tai biến đến gấp Tiểu tướng ép buộc Thái ất là bầy tôi ở dưới chuyên quyền. Xem được quẻ thuần dương là có điều hung dữ về vua bạo ngược. Thái ất ở cung thứ 2 là khí dịch bệnh. Xem quẻ lại được trùng dương là thứ hung dữ vừa, chủ về việc trong ngoài có lập mưu, bỏ cũ thay mới. Thủy kích ở kim là phía Tây có dấy binh, nước bên Đông bị bại vong Xem quẻ khách được hòa, cửa đủ, tướng phát Thái ất trợ khách nên an cư, hành động sau là đại lợi (năm ấy vua Thần Tôn mất, Thái tử không được lập, lập em là vua Ý Tôn. Vài năm sau, hoàng thượng lại chính ngôi; đó là sự nghiệm về hành động sau là tốt. Tính về khách thấy hòa, tướng phát, cho nên năm sau Nghị tổ cũng mở Phủ Nhiếp Chính. Hành động sau thuận hòa là như vậy. Bấy giờ, bọn thân tín chuyên quyền Hoàng tông không được an vui. Hoài phản trắc. Vài năm sau có loạn Duy Chúc, Duy Mật) ............................. 10. Năm Canh Thân, năm đầu niên hiệu Cảnh Hưng triều Lê (1740 – 1786), thêm 1 để tính là Thái ất đi vào nguyên Giáp Tý, cục 57 Thái ất ở cung 3 cấn Chủ đại tướng ở cung 1. Phát Văn xương ở Tuất, âm thổ Chủ tham tướng ở cung 3. Tù Thủy kích ở Tị. Đại thần Khách đại tướng, khách tham tướng ở cung giữa Kế thần ở Ngọ Chủ 10. Cô dương. Vô nhân. Hòa Khách 2, 10, 5. Môn Đỗ Cục này, Thái ất là Lý nhân được quẻ Vô nhân. Chủ tham tướng, Tù là người có biến đổi. Khẩu thiệt, yêu ma, giả trá, trộm cướp, giặc giã, binh đao, dịch bệnh, lưu tán, di chuyển, đói rét, mất mùa, tàn hại. Mừng là Thái ất ở cung dương. Tính được 10. Số chẵn, hòa: là tai biến nhẹ bớt Thái ất tính được dư 3, là việc liên quan đến tôn miếu. Hòa là tốt cho tôn thân Chủ 10, là có biến ở lớp người thường. Thái ất trợ chủ. Đại tướng phát. Chủ thắng, hành động sau là lợi. Khách đỗ tắc không cửa nào là không lợi Ở thời yên cư, lấy vua, thiên hạ làm chủ, giặc giã, trộm cướp là khách. Thủy kích ở Hỏa, gặp năm Canh là phía Nam có binh động, trong nước có hòa bại, năm hạn hán Quân cơ từ năm Tân Hợi đã vào cung Thìn, đến năm ấy là 10 năm Dân cơ cũng ở Thìn Thần cơ ở Thân Ngũ phúc tự năm Giáp Thân đời vua Vĩnh Thịnh triều Lê (năm Ất Dậu 1705 – 1719) vào Mùi khôn Thân; đến năm ấy là 27 năm Địa ất cũng ở Thìn Tứ thần cùng ở Thân Phương Tây Nam có dư khí Ngũ phúc tới thì tai ương giảm, phúc lộc lớn; cho nên hai xứ Nghệ An, Thanh Hóa được an ninh. Thần cơ cũng thế, bầy tôi có phúc. Tuy tứ thần chủ về việc binh, lụt, hạn nhưng cũng vì thế được giảm nhẹ. Năm ấy, Vương thượng ngự chính, Hoàng thượng nối ngôi vua. Lòng người mừng lớn. Trộm cướp, giặc giã đều tan. Đó là sự nghiêm về chủ thắng, tướng phát. Tính được vô nhân, cho nên năm sau dịch bệnh lớn, nhân khẩu hao tổn. .................................. 11. Năm Tân Dậu, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 2 (năm Canh Thân 1740 – 1786), thêm 1 để tính Thái ất đi vào cục 58 Thái ất ở cung 4 chấn Chủ đại tướng ở cung 2 phát Văn xương ở cung 1 càn Khách đại tướng ở cung 6. Cách Thủy kích ở Mùi. Thiên đạo Chủ tham tướng ở cung 6. Cách Kế thần ở Tị Khách tham tướng ở cung 8. Phát Chủ 10, 2. Hạ hòa. Vô địa. Khách 2, 10, 6. Trung hòa Cục này Thái ất Lý thiên, tính được vô địa Cung 4 tuyệt khí, chủ về đất có biến đổi khác Thường, sâu bệnh. Nhân dân cấu xé lẫn nhau. Nhưng tính được trung hòa, hạ hòa là thiên hạ ngừng binh, chín cõi yên ổn Khách đại tướng, chủ tham tướng cùng Thái ất trông nhau là Cách, nghĩa là cơ sự đổi thay, xê dịch. Chủ khách đại tướng, tiểu tướng cùng ở một cung là Quan, cùng nhau đề phòng. Thái ất ở cung 4 là Thiên Hội, trợ chủ; chủ nhân thắng Hai phép tính đều có chữ hòa; kẻ địch phải hàng phục Chủ đại tướng chịu khách mục ở Thìn kích, lại nhận Tù khí, nên chưa phải là toàn lợi. Thủy kích ở thổ; năm Tân, Trung Quốc binh dấy. Dân được mùa, thóc đắt, mùa hè nước lớn. Năm ấy trộm cướp dẹp yên, thiên hạ bị dịch lớn, người chết rất nhiều. .................................................. 12. Năm Giáp Tý, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 5 triều Lê, thêm 3 để tính là Thái ất đi vào trung nguyên kỷ thứ hai, nguyên Giáp Tý. Cục 61 Thái ất ở cung 6. Đoài Chủ đại tướng ở cung 3. Phát Văn xương ở cung 8. Khảm Khách đại tướng ở cung 4. Cách Thủy kích ở Hợi. Đại nghĩa Chủ tham tướng ở cung 9. Khách hiệp Kế thần ở Dần. Khách tham tướng ở cung 2 Ly Chủ: 3, 10, 2. Thuần dương. Vô địa Khách: 3, 10, 4. Hạ hòa. Đủ Cục này, chủ là trường hòa. Đại tướng phát. Lợi chủ, lợi ở hành động sau. Chủ tham tướng tuy là khách hiệp, nhưng trái lại, cùng chủ đại tướng hiệp. Khách đại tướng cách, không lợi cho hành động trước Khách tính được nhiều. Thái ất trợ khách. Chủ nhân chưa thể đắt chí. Thủy kích ở thủy, năm Giáp sợ phương Bắc khởi binh, hòa thì lại hòa thân. Năm ấy, Trực phù vào cung Hợi, cùng cung với Thủy kích. Tứ thần vào Tuất, Hợi là gặp gián cung. Giặc giã nổi lên dữ, sai tướng đánh dẹp, mấy lần bị thua. Đó là nghiệm ứng về sự hành động trước. Chủ đại tướng phát. Tính được hòa, nên cuối cùng lại cất quân thì toàn thắng. ................................................................... 13. Năm Canh Ngọ, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 11. Thêm 6 để tính là Thái ất đi vào cục 64 Thái ất ở cung 8. Khảm Chủ đại tướng, chủ tham tướng ở cung giữa Văn xương ở cung 9 Tốn Khách đại tướng ở cung 2 Ly, Cách Thủy kích ở Tuất, âm chủ Khách tham tướng ở cung 6. Phát Kế thần ở Thân Chủ: 2, 10, 5. Môn: Đỗ Khách 2. Đơn âm. Vô địa Cục này, chủ tính ra là Đỗ tắc khởi sự sau là xấu, không thể lấy chuyện an cư mà bàn Thái ất trợ khách. Khách tính được hòa Tham tướng phát. Có thể cất quân chinh phạt, khởi động trước là tốt. Năm ấy dẹp xong, các giặc vùng Đông Bắc, mùa đông, xa giá đi đánh phương Tây. Năm sau lại Bình xong ngụy Canh. Các tướng cũng bắt được Ngụy cầu ở Nghệ An Đó là nghiệm về sự khởi động trước. Khách tính được 2, gọi là lược địa. Khách được thì khách lợi. Có thể là ứng về sự hành động trước. ................................... 14. Năm Tân Mùi, niên hiệu Cảnh Hương thứ 12. Thêm 1 để tính,là Thái ất đi vào cục 68 Thái ất ở cung 8. Khảm Chủ đại tướng ở cung 7 Khôn. Phát Văn xương ở Tị, Đại thần Khách đại tướng ở cung 8 Khảm. Tù. Bị yểm Thủy kích ở Tý. Địa chủ Tham tướng ở cung 1. Bách Kế thần ở Mùi Khách tham tướng ở cung 4 chấn. Phát Chủ 10, 7 trong âm có trung dương. Trường hòa Khách: 8. Đơn dương. Vô thiên Cục này, Thái ất lý thiên. Khách: vô thiên, lại trùng dương là bị hạn hán. Chủ 7 là tam tài đầy đủ. Nước có điều lành, dân yên, mùa được. Thái ất trợ chủ. Chủ trường hòa, đại tướng phát. Lợi chủ, lợi về hành động sau. Khách đoản, Thiên mục yểm, đại tướng Tù. Khách bất lợi. Điềm quân nhà vua toàn thắng, giặc cỏ bị tiêu trừ. Thủy kích yểm Thái ất, điềm âm thịnh dương suy Năm ấy, bình được giặc phía Tây, dẹp được phía Nam. Từ đó, trong nước yên; duy chỉ có liên tiếp bị hạn hán và tai dịch. Âm dương không điều hòa. ............................................. 15. Năm Bính Tý, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 17 triều Lê. Số tích niên là 10.155.673 năm. Thái ất đi vào niên Bính Tý. Cục 1 Thái ất ở cung 1 càn. Tuyệt dương Chủ đại tướng ở cung 7. Khách mục yểm Văn xương ở Thân. Vũ đức Khách đại tướng ở cung 3. Phát Thủy kích ở Khôn. Đại Vũ Chủ tham tướng ở cung 1. Tù Kế thần ở Dần Khách tham tướng ở cung 9. Cách Chủ 7. Đơn dương. Vô thiên. Khách: 10, 3. Trường hòa Cục này, khách trường hòa, cửa đủ, tướng phát, an cư hành động sau là lợi Chủ toán là đơn dương. Vô thiên Thái ất đứng vào cung âm Tính được 2. Có nạn hồng thủy Chủ tham tướng ở cung Tù, Bách Chủ đại tướng bị thủy kích yểm. Bất lợi cho thủ tướng, thượng công khanh Khách đại tướng phát. Công khanh phân tán nha môn khởi dụng Chủ tham tướng ở cung Thái ất, là phương binh đao khởi động. Càn – Hợi là phương Tây Bắc. Giặc cỏ tụ tập, quan quân đi đánh giặc tức thời bị bắt, bị diệt. Hành động sau là lợi. ................................................... 16. Năm Canh Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 21 triều Lê. Thêm 4 để tính. Thái ất đi vào cục 5. Thái ất ở cung 9 Ly Chủ đại tướng, chủ tiểu tướng ở cung giữa. Văn xương ở càn. Âm đức Khách đại tướng ở cung 4. Phát Thủy kích ở Dần. Lã Thân Khách tham tướng ở cung 2. Tù Kế thần ở Tuất Chủ: 2, 10, 5. Đỗ Khách: 10, 4. Hòa. Vô địa Cục này, Thái ất lý thiên, vô địa; là đất có biến động lạ thường. Thái ất ở cung 2 là thiên ở ngoài, trợ khách Khách trường hòa, đại tướng phát; lợi cho việc dấy binh công phạt. Chủ đỗ tắc, khởi sự là xấu Khách đại tướng bị Thìn kích, tham tướng bị Quan, Tù. Tướng tá binh lính bất lợi. Thủy kích ở mộc, năm Canh, phía Tây có động binh. Dân lưu tán. Đến vùng sao cơ là quân sẽ bị lưu vong. Năm ấy, Thái ất đi vào thân. Vùng sao Quý có binh sự khởi động. Quan quân đánh dẹp. Đại tướng thắng địch. Không động binh trước, lấy phép cầm cự lâu dài mà chế ngự. Tuy thắng, song quân lính chết hầu hết. Ngũ phúc từ năm Kỷ Mão đi vào cung giữa. Thần cơ vào Dần Dần cơ vào Tý. Vùng trung ương dương lúc thịnh Quân cơ năm ấy còn ở Thìn. Năm sau mới vào Tị ........................................... 17. Năm Quý Mùi, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 24 triều Lê. Thêm 3 để tính. Thái ất đi vào cục 8 Thái ất ở cung 3 cấn Chủ đại tướng ở cung 1. Phát Văn xương ở Sửu. Âm đức Khách đại tướng ở cung 2. Phát Thủy kích ở Khôn. Đại vũ Chủ tham tướng ở cung 3. Tù Kế thần ở Mùi Khách tham tướng ở cung 6. Phát Chủ: đơn 1. Đơn dương. Vô thiên Khách: 2, 10, 2. Trường hòa Cục này, Thái ất trợ chủ. Nhưng chủ tham tướng gặp Tù. Tính ra đoản là bất lợi. Thủy kích cung Thái ất trông nhau là cách. Trên dưới đổi đời Văn xương ở trong lại bức bách Thái ất, là bức bách cung vua. Ngôi hậu phi gặp tai họa nặng. Năm ấy, tứ thần đi vào Thìn; Thái ất đi vào Dậu Trực phù đi vào Thân, Nghệ An là phương Tây Nam; có binh đao, giặc giã. Thủy kích ở khôn cũng là phương Tây Nam. Đến mùa đông, chính phi của Nghị Tổ mất. .............................................................. 18. Năm Ất Dậu, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 26. Thêm 2 để tính, Thái ất đi vào cục 10 Thái ất ở cung 4 chấn. Tuyệt khí Chủ đại tướng ở cung 1. Yểm thủy kích Văn xương ở Dần. Lã thân. Thần bách Thái ất Khách đại tướng ở cung 2 . Phát Thủy kích ở càn. Âm đức Chủ tham tướng ở cung 3. Tù. Bách Thái ất Kế thần ở Tị Khách tham tướng ở cung 6. Cách Chủ đơn 1. Đơn dương. Vô thiên Khách: 10, 2. Trường hòa. Cục này Thái ất bị Văn xương ở trong bức bách, là bề tôi ở dưới khinh bỉ trên. Khách tham tướng đổi cách. Trên dưới cách tuyệt, bế tắc. Chủ đơn 1; Thái ất lại đứng ở cung dương là bất hòa Chủ đại tướng phạm vào cung Thủy kích, là chủ quan. Khách, tướng cùng tự Quan nhau, kỵ. Lấy khí Vượng Hưu, tính xem nhiều ít mà phân biệt chủ khách được thua Chủ đại tướng là thượng công, thượng tướng, chủng tể, thượng khanh. Chủ tham tướng là á khanh. Khách 2. Tướng và công khanh ở nhàn cung Chủ mục đến Dần. Tuyệt khí. Tính là ít mà Khách mục đến càn. Vượng khí, tính là nhiều, khách ắt thắng. Thủy kích ở Kim. Năm Ất, phía Tây binh khởi. Khách trường hòa. Tướng phát. Hành động trước là lợi. Hợi – Càn là cung Giao Châu ..................................................... 19. Năm Bính Tuất, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 27 triều Lê. Thêm 1 để tính, Thái ất đi vào cục 11. Thái ất ở cung 4 chấn Chủ đại tướng ở cung 4. Tù Văn xương ở Mão. Cao Tùng Khách đại tướng ở cung 4. Tù. Chủ quan Thủy kích ở Sửu. Dương đức Chủ tham tướng ở cung 2. Phát Kế thần ở Thìn Khách tham tướng ở cung 2. Chủ tham tướng, Quan. Chủ 4. Bất hòa. Đơn dương. Vô địa Khách 4. Bất hòa Cục này, Thái ất, Văn xương, chủ đại tướng, khách đại tướng cùng ở trong cung quan lại ở chỗ nặng là Tuyệt khí. Tai ương nặng. Gọi là giam chặt trong 4 bức thành. Tuế kế gặp thì dữ. Chủ tham tướng lại quan Khách tham tướng, hai bên cùng đề phòng, đố kỵ lẫn nhau. Các quan văn võ đều bất lợi. Chủ đại tướng số 4, cùng số với Thái ất, là đại vạ cho phụ tướng. Hai tham tướng cùng 1 cung, cận binh nổi loạn. Ở cửa Đỗ thì không lành. Thái ất, Thiên mục đứng cửa sinh, là trái cửa không đủ. Tính về khách, tính được là 13 Đại tướng ở cung 3. Tham tướng ở cung 9. Hiệp Thái ất, chủ mục, chủ khách hai đại tướng. Hành động sau có lợi. Thái ất lý địa, tính được vô thiên là đất có biến động khác thường Share this post Link to post Share on other sites
Posted 1 Tháng 6, 2010 Bác Hà Uyên kính mến! cháu đang rất mong đợi bài tiếp theo của topic này, mong bác tiếp tục đăng bài tiếp theo :) Share this post Link to post Share on other sites
Posted 1 Tháng 6, 2010 TƯ LIỆU THƯỜNG DÙNG TRONG TÍNH TOÁN THÁI ẤT 1- Các con số: Đơn dương là các số 1, 3, 7, 9 Đơn âm là các số 2, 4, 6, 8 Cô dương là các số 10, 30 Cô âm là các số 20, 40 Trùng dương gồm 2 số đơn dương và cô dương hợp lại Trùng âm gồm 2 số đơn âm và cô âm hợp lại. Chủ về Tướng quân, số tính được 10 Chủ về Lại Sỹ, số tính được 5 Chủ về quân lính, số tính được 1 2- Các con số quan hệ với Thái ất và Thiên mục, Địa mục. Cung dương: Thái ất ở các cung 3, 8, 4, 9 Thiên mục, Địa mục ở các Thần vị: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Cung âm: Thái ất đóng các cung 1, 6, 2, 7 Thiên mục, Địa mục đóng các cung gián thần vị: Dần, Thân, Tị, Hợi, Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Số lẻ: các số 1, 3, 5, 7 Số chẵn: các số 2, 4, 6, 8 Trùng dương: Thái ất ở các cung 3, 8, 4, 9 mà tính được các số 1, 3, 5, 7 là trùng dương. Nguyên tắc tính: Các cặp số quá 60, đều chia cho 60 và tính số dư: 31, -81, -41, -91, -13, -33, -53, -73 33, -83, -43, -93, -18, -38, -58, -78 35, -85, -45, -95, -14, -34, -54, -74 37, -87, -47, -97, -19, -39, -59, -79. Theo nguyên tắc tính nói trên, các cặp số còn lại là 13 31 39 41 53 18 33 35 43 58 14 38 37 45 54 19 34 47 59 Trùng âm: Thái ất ở các cung 1, 6, 2, 7 mà tính được các số 2, 4, 6, 8 là trùng âm. Ta có các cặp số như sau: 12 62 22 72 21 41 61 81 14 64 24 74 26 46 66 86 16 66 26 76 22 42 62 82 18 68 28 78 27 47 67 87 Cũng theo nguyên tắc tính nói trên, các cặp số còn lại là: 2 12 22 31 41 4 14 24 32 42 6 16 26 36 46 7 18 28 37 47 21 27 Thuần dương: nhị mục ở số 3, 9 gặp cung Dần, Thìn Tạp dương: nhị mục ở số 4, 8 gặp cung Sửu, Tị Thuần âm: nhị mục ở số 2, 6 gặp cung Hợi Mùi Tạp âm: nhị mục số 1, 7 gặp cung Thân, Tuất. Trùng dương: Nhị mục các số 33, 39 tính được là trùng dương. Trùng âm: Nhị mục các số 22, 26 tính được là trùng âm Tạp trùng dương: Thái ất, Thiên mục ở cung dương. Số tính được 19, 13, 31, 37. Tạp trùng âm: Thái ất, Thiên mục đóng cung âm. Số tính được 24, 28 là tạp trùng âm. Dương ở trong âm: Thái ất, Thiên mục ở cung âm mà số tính được 11, 17 Hoà: Thái ất, Nhị mục đóng cung dương, tính được số chẵn; đóng ở cung âm, tính được số lẻ. Bất hoà: Thái ất, Nhị mục ở các cung âm mà tính được số chẵn. Thái ất, Nhị mục đóng cung dương mà tính được số lẻ. Thắng: số tính được nhiều và hoà. Bại: số tính được ít và bất hoà. Dịch khí: Cung là Yểm, gặp cung 2, cung 8. Tuyệt khí: Cung là Yểm, gặp cung 4, cung 6. Tuyệt âm: Cung là Yểm, gặp cung 9. Tuyệt dương: Cung là Yểm, gặp cung 1. Thần kích: Kích gặp Thần vị. Cung kích: Kích gặp Gián thần vị Nội: từ Càn đến Thìn (còn 1 nghĩa nữa đứng sau là trong). Ngoại: từ Tốn đến Tuất (còn 1 nghĩa nữa đứng trước là ngoài) Thiên nội: Thái ất đóng các cung 1, 8, 3, 4. Là trợ chủ. Thiên ngoại: Thái ất đóng các cung 2, 9, 6, 7. Là trợ khách Yểm: Thuỷ kích đồng cung với Thái ất. Bách: Nhị mục, Tứ tướng và Kế mục ở bên phải, bên trái cung Thái ất đóng. Nội bách: bên trong, cùng họ, Hậu phi hai lòng, âm mưu phản nghịch. Ngoại bách: bên ngoài âm mưu xâm lấn. Minh bách: ở đằng trước cung Thái ất Ám bách: ở đằng sau cung Thái ất. Tướng phát: Đại tướng, Tiểu tướng không tương quan. Văn xương không bị Tù Bách, Thủy kích không bị Yểm kích. Quan: chủ khách Đại tướng, Tiểu tướng đồng cung. Tù: Văn xương, Thái ất đồng cung. Kích: Thuỷ kích đóng bên phải, bên trái cung Thái ất. Cách: Khách mục, Đại tướng, Tiểu tướng cùng đối xung với Thái ất. Đối: chủ mục đối xung với cung Thái ất. Đề hiệp: Chủ mục, Khách mục cùng 2 tướng hoặc 1 tướng hiệp cùng Thái ất. Chủ mục, khách mục cùng hai Đại tiểu tướng ở cung Chính (Thần vị); ấy là Đề hiệp. Chủ khách hai tướng cùng Thái ất hiệp Nhị mục ở gián thần vị là Hiệp quan. Chấp đề: Thái ất hợp cùng 2 cửa Khai, Sinh. Đề cách: Thái ất xung với 2 cửa Khai, Sinh. Chủ khách Đại tiểu tướng ở cửa Sinh đến xung cách là dữ Tứ quách cố: Văn xương gặp Tù ở cung Thái ất Chủ đại, tiểu tướng lại cùng gặp Quan hoặc có Thuỷ kích. Hoặc khách Đâị tiểu tướng tương quan; hoặc cùng chủ Đại Tiểu Tướng gặp Quan. Tứ quách đỗ: Có khách Tham tướng, Văn xương cùng có mặt. Chủ tham tướng cùng khách đại tướng gặp Quan; có cả Yểm, Bách, Quan, Cách. 3- Bát môn và các số trường hoà, bất trường: Tam cát môn: Ba cửa lành là Khai, Hưu, Sinh. Thái ất, Thiên mục đóng cát môn là tốt. Hai cửa không đủ: Thái ất, Thiên mục đóng ở dưới cửa Khai và Sinh. Ba cửa không đủ: Thái ất, Thiên mục đóng ở dưới cửa Hưu. Trường hoà: Chủ khách toán số 16 trở lên. Bất trường: chủ khách toán dưới số 16. Bất cư: (không đủ). Chủ khách toán từ số 9 trở xuống. Số vô thiên: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9. Số vô địa: 11, 12, 13, 14, 21, 22, 23, 24, 31, 32, 33, 34. Số vô nhân: 10, 20, 30, 40. Số thượng hoà: 14, 18. Số thứ hoà: 23, 29, 32, 36. Số hạ hoà: 12, 16, 21, 27, 34, 38 Số trùng dương trong âm: 11, 17 Số trùng âm trong dương: 24, 28. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 1 Tháng 6, 2010 DƯƠNG ĐỘN 72 CỤC LẬP THÀNH Năm Bính Tý niên hiệu Cảnh Hưng thứ 17. - Cục 1 Thái ất, kế thần ở cung 1, Dần. Thuần dương. Văn xương, thuỷ kích ở cung Khôn, Thân. Địa, Mục, Kích. Chủ 7. Đơn dương. Vô thiên. Khách số 13. Hoà Chủ đại tướng ở cung 7. Khách mục yểm. Khách đại tướng ở cung 3. Phát. Chủ tham tướng ở cung 1. Tù. Khách tham tướng ở cung 9. Cách. - Cục 2 Thái ất ở cung 1. Kế thần ở Sửu. Văn xương ở Dậu, nội cung Bách. Thuỷ kích ở Tuất, Thìn kích. Chủ 6. Bất hoà. Đơn dương. Vô thiên. Khách 1. Đơn dương. Vô thiên. Chủ đại tướng ở cung 6 nội Bách. Khách đại tướng ở cung 1. Tù. Chủ bị hiệp. Chủ tham tướng ở cung 8, ngoại Bách. Khách tham tướng ở cung 3. Phát. -Cục 3 Thái ất ở cung 1 Kế thần ở Tý. Văn xương ở Tuất, ngoại Thìn kích. Thuỷ kích ở Hợi. Chủ 1. Bất hoà. Vô địa. Khách 4, 10. Bất hoà. Chủ đại tướng ở cung 1. Tù. Khách đại tướng ở cung 4. Phát. Chủ tham tướng ở cung 3. Phát. Khách tham tướng ở cung 2. Phát. - Cục 4 Thái ất ở cung 2. Kế thần ở Hợi. Văn xương ở Càn. Thuỷ kích ở Sửu. Chủ 25. Đỗ. Khách 17. Bất hoà. Chủ đại tham tướng ở cung giữa. Đỗ. Khách đại tướng ở cung 7. Ngoại Bách. Khách tham tướng ở cung 1. - Cục 5 Thái ất ở cung 2. Kế thần ở Tuất Văn xương ở Càn. Thuỷ kích ở Dần. Chủ 25. Đỗ. Khách 10, 4. Hoà. Chủ đại tham tướng ở cung giữa. Đỗ. Khách đại tướng ở cung 4. Phát. Khách tham tướng ở cung 2. Tù. - Cục 6 Thái ất ở cung 2. Kế thần ở Dậu. Văn xương ở Hợi. Thuỷ kích ở Thìn. Chủ 25. Đỗ. Khách 10. Cô dương. Vô thiên. Chủ đại tham tướng ở cung giữa. Đỗ. Khách đại tướng ở cung 1. Phát. Khách tham tướng ở cung 3. Phát. - Cục 7 Thái ất ở cung 3. Kế thần ở Thân. Văn xương ở Tý, nội cung Bách. Thuỷ kích ở Tị. Chủ 8, bất hoà. Khách 35. Đỗ. Chủ đại tướng ở cung 8. Khách đại tham tướng ở cung giữa. Đỗ. Chủ tham tướng ở cung 4. Ngoại Bách. - Cục 8 Thái ất ở cung 3. Kế thần ở Mùi. Văn xương ở Mùi bị Thìn Bách. Thuỷ kích ở Khôn. Chủ 1. Đơn dương. Vô địa. Khách 22. Trường hoà. Chủ đại tướng ở cung 1. Khách đại tướng ở cung 2. Chủ tham tướng ở cung 3. Tù. Khách tham tướng ở cung 6. Phát. - Cục 9 Thái ất ở cung 3 Kế thần ở Ngọ. Văn xương ở Cấn. Thuỷ kích ở Dậu. Chủ 3. Bất hoà. Đơn dương. Vô địa. Khách 15. Đỗ. Chủ đại tướng ở cung 3. Tù. Khách đại tham tướng ở cung giữa. Đỗ. Chủ tham tướng ở cung 9. Phát. - Cục 10 Thái ất ở cung 4. Kế thần ở Tị. Văn xương ở Dần, Thìn Bách. Thuỷ kích ở Càn. Chủ 1. Đơn dương. Vô thiên. Khách 12. Hoà. Vô địa. Chủ đại tướng ở cung 2. Yểm thuỷ kích. Khách đại tướng ở cung 2. Phát. Chủ tham tướng ở cung 3. Tù. Bách. Khách tham tướng ở cung 6. Cách. - Cục 11 (Năm Bính Tuất niên hiệu Cảnh Hưng thứ 27) Thái ất ở cung 4 Kế thần ở Thìn. Văn xương ở Mão. Thuỷ kích ở Sửu. Chủ 4. Bất hoà. Đơn âm. Vô địa. Khách 4. Bất hoà. Chủ đại tướng ở cung 4. Tù. Khách đại tướng ở cung 4. Tù gặp Quan. Chủ tham tướng ở cung 2. Phát. Khách tham tướng ở cung 2. Gặp Quan. - Cục 12 Thái ất ở cung 4. Kế thần ở Mão. Văn xương ở Thìn. Ngoại Thìn Bách. Thuỷ kích ở Dần. Chủ 37. Trường hoà. Đủ tập hợp số trùng dương. Khách 1. Đơn dương. Chủ đại tướng ở cung 7. Chủ tham tướng ở cung 1. Quan, Phát. Khách đại tướng ở cung 1. Phát. Khách tham tướng ở cung 3. Nội Bách. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 3 Tháng 6, 2010 Chào bác Hà Uyên, Cháu rất mong bác tiếp tục chủ đề này để hậu học có tài liệu học hỏi. Kính bác. Ps. cháu nghe bác Thiện Nhân nói rằng tác giả VXQ còn viết về độn giáp, mong bác post tài liệu này thì quý hóa quá! Share this post Link to post Share on other sites