Sophia

Chuyện Xưa

27 bài viết trong chủ đề này

Posted (đã chỉnh sửa)

Văn hóa thần truyền: Những quan niệm của một con người chính trực

Bài viết của Trí Chân

[MINH HUỆ 27 – 07 – 2009] Từ thời cổ đại ở Trung Quốc, con người đã rất coi trọng tu dưỡng đạo đức. Nho giáo giữ vai trò chủ chốt trong việc xét xem liệu một người theo những tiêu chuẩn về đạo đức của mình có hành xử giống như là một con người hay không, vì đức là nền tảng tồn tại của một con người. Đó là nguyên tắc đầu tiên trong cuốn Đại học (một trong ba cuốn sách được chọn lọc bởi một học giả đời Tống bao gồm một đoạn văn chính được cho là của Khổng Tử, 551-479 tr.CN, cũng như các chương dẫn giải được cho là của một trong những đệ tử của ông). Ghi chép này nói rằng một người phải tu luyện đức của mình. Ngoài ra, anh ta phải tu luyện đức của bản thân mình trước khi gây ảnh hưởng đến những người khác. Điều này được nói trong cuốn Đại học , “Khi bản thân tu luyện, gia tộc hài hòa. Khi gia tộc hài hòa, đất nước mới được thịnh trị. Khi đất nước được thịnh trị, khắp nơi sẽ thái bình. Từ bậc quân vương cho đến kẻ dân thường trăm họ, tất cả phải coi tu luyện bản thân là điều quan trọng nhất”. Thuyết về quản lý thế giới và làm lợi cho dân của Nho giáo là một phần của văn hóa Trung Hoa truyền thống vốn rất sâu sắc. Nó đã tự thiết lập cho mình những lý tưởng về đạo đức và hệ thống tiêu chuẩn giá trị mà đã đặt định ra nền tảng cho xã hội Trung Quốc. Nó giúp gìn giữ các tiêu chuẩn đạo đức của xã hội ở một mức khá cao.

Một trong những bài hát hội hè chính trong thơ ca cổ như sau,

Thượng thiên sinh dục liễu nhân loại,

Vạn sự vạn vật đô hữu Pháp tắc.

Lão bách tính chưởng ác liễu giá ta Pháp tắc,

Tựu hội sùng tôn mỹ hảo đích phẩm đức.”

Tạm diễn nghĩa:

Thiên thượng tạo hóa ra nhân loại

Vạn sự vạn vật được thêm vào các luật lệ

Con người sẵn có bản tính tự nhiên này

Và họ vì thế mà tôn sùng phẩm đức tốt đẹp.

Khổng Tử đã rất chú trọng điều chỉnh các mối quan hệ giữa thượng thiên và nhân loại, giữa con người với con người, và các mối quan hệ giữa đủ loại tư tưởng (ý niệm), nhằm thiết lập một trật tự xã hội tổng thể, vững chắc, và hài hòa. Khổng Tử cũng nói: “Một người tự tu bản thân mình để giữ thái độ tôn trọng, một người tu chính mình hơn nữa để mang lại cho mọi chúng sinh trên mặt đất an ninh và hòa bình”. Để cai trị bằng đức hạnh và một chính sách nhân ái thì phải lấy tu luyện bản thân là một điều kiện tiên quyết. Lập đức và tu thân phải đặt trên mọi thứ khác. Lập đức là mục tiêu, trong khi tu thân là phương thức. Lập đức và tu thân là con đường trọng yếu tiến đến thực hành tu dưỡng đạo đức và hoàn thiện nhân phẩm và hành vi.

Mạnh Tử (372 – 289 tr.CN), nói rằng đức của một người là quà tặng của thiên thượng. Nó là bản tính tiên thiên của một con người và nó được liên thông với thiên thượng. Mọi người đều có bản chất tốt và đạo đức, và nếu một người thủ đức và lỗ lực tu thân, anh ta có thể trở thành người giống như các vị vua Nghiêu và vua Thuấn trong truyện ngụ ngôn. Mạnh Tử chỉ ra rằng để trở thành một con người có lý niệm, người đó cần phải giữ được 4 tiêu chuẩn, “lòng trắc ẩn, thuộc về lòng nhân từ; sự hổ thẹn, thuộc về nghĩa khí; tâm khiêm nhường, thuộc về lễ nghi; tâm thị phi, thuộc về trí tuệ” (trích từ “Cuốn đầu tay của Công Tôn Sửu” trong ‘các tác phẩm của Mạnh Tử’). Bốn đặc tính của con người này cùng các hành vi tương ứng của họ trở thành nền tảng tạo thành bốn đức tính của lòng nhân từ, nghĩa khí, lễ nghi, và trí tuệ. Nó là thứ để phân biệt giữa con người và động vật. Nó gắn với lịch sử lâu dài của nhân loại, bên trong nó là tiêu chuẩn cơ bản của nhân loại. Tu luyện bản thân của một người có lý niệm là con đường duy nhất sẽ cho phép người đó chứng ngộ được các luật của thiên thượng, tôn trọng thiên ý, và đạt đến một tầng thứ cao hơn với tâm thiện và từ bi. Mạnh Tử coi trọng tu nội hơn thay vì hướng ngoại, và tuân theo lương tâm của mình, bản chất chân thật, đối nhân và giải quyết các vấn đề theo các nguyên lý, và duy trì sự công bằng. Trong khi làm như vậy, một người có thể trở nên “sung mãn” và hữu “quang huy”, mà sẽ lần lượt thúc đẩy những người khác thực hiện nhiều việc tốt, đạt đến cảnh giới rất cao của tâm thiện.

Trong một xã hội mà những lợi ích vật chất được đặt trên tất cả, có một số người đã bị lạc đường và đã quên mất bản chất của chính mình. Một người có lý niệm cần suy ngẫm về ngôn từ và hành vi hằng ngày của mình, và xét các ý nghĩ của mình theo những nguyên lý cao hơn. Nếu không tu luyện bản thân, người đó sẽ dễ dàng bị kiểm soát bởi tính tham lam và có xu hướng tụt xuống vì đã mất đi bản chất riêng của họ. Vì vậy các bậc thánh nhân xưa qua việc liên tục học tập đã rất coi trọng việc tìm lại bản chất tiên thiên mà họ đã đánh mất. Mỗi người đều có cả hai nhân tố thiện và ác. Để kiềm chế phần ác cùng lúc đó phát triển phần thiện, người đó phải tự mình nghiêm khắc với bản thân mình, và không phải đơn giản là trôi theo dòng nước. Qua giáo dục, một người có thể gìn giữ bản chất của mình. Cuối cùng, trách nhiệm của một người chính trực nằm trong việc giúp những người khác tìm lại lòng tốt và lương tâm của họ, chúng là phần của bản tính uyên nguyên, và giúp họ trở lại con đường chân chính. Lập đức và tu thân đòi hỏi phải chân thật, giữ vững lập trường, duy trì chính niệm, và hành xử một cách khiêm tốn và lịch sự. Vì vậy chúng ta nên tán thành việc đọc những cuốn sách được các thánh nhân để lại và loại bỏ những động cơ ích kỷ và các nhân tố bất chính của chúng ta. Các giá trị cao hơn thể hiện trong việc tuân thủ các quy tắc của Nho giáo để tu thân dưỡng tính phục vụ mục tiêu rộng lượng giúp đỡ tất cả mọi người bằng cách chia sẻ những gì mà bạn có cũng như việc cai trị thích hợp với mục tiêu làm lợi cho tất cả mọi người.

Trong suốt lịch sử, các bậc thánh nhân và những người có đức lớn đều là những ví dụ tuyệt vời trong việc tu thân. Cùng lúc đó, việc tu luyện của họ đã hoàn thiện mục tiêu cao cả nhằm, “hào phóng cống hiến cho nhân dân và làm lợi cho cộng đồng”. Khi nhân tâm hướng thiện, họ giúp thiết lập những truyền thống trung thực đã được ấp ủ và để lại một di sản để tự nguyện thực hiện những việc tốt.

Khổng Tử và những học trò của ông đã rất coi trọng đến việc phản tỉnh tự thân. Khổng Tử nói, “Ở tuổi15 tâm trí ta đã giành hết cho việc học hành. Khi 30 tuổi ta đã lập được vị trí của mình. Đến 40 tuổi ta không còn có rắc rối nữa. Lúc 50 tuổi ta hiểu được thiên ý. 60 tuổi tai của ta hòa hợp. Lúc 70 tuổi ta có thể thuận theo tâm ham muốn của mình mà không vượt khỏi pham vi của các nguyên tắc đạo đức”. Khổng Tử đã tu suốt cuộc đời của mình. Cuối cùng, theo cách nói của mình, ông có thể “thuận theo tâm ham muốn của mình mà không vượt khỏi phạm vi của các nguyên tắc đạo đức”. Ông khuyên chúng ta không chỉ học hỏi từ những người có tiêu chuẩn đạo đức cao mà cũng nên đối chiếu với chính bản thân mình khi thấy những người khác làm sai một số điều gì đó. Ông đồng ý “sửa sai ngay lập tức mà không hề sợ hãi hay miễn cưỡng”, và “noi gương những người làm những việc tốt và thăng tiến bản thân chúng ta ngay cả khi chúng ta nhìn thấy thiếu sót của những người khác”. Ông hoan nghênh mọi người chỉ ra những hạn chế của bản thân ông. Ông coi đó như một đặc ân mà những khuyết điểm của ông được nhiều người quan sát, để họ có thể chỉ chúng ra cho ông để sửa chữa ngay. Ông chú ý và đánh giá cao đệ tử của mình, Nhan Hồi, vì “không được nổi cáu với người khác khi họ chỉ ra lỗi lầm của con, và không được mắc lỗi đó hai lần”. Một nền tảng vững chắc được đặt định bởi tu luyện là nguyên nhân then chốt vì sao Khổng Tử và các đệ tử của ông có thể kiên định tu luyện và thăng hoa tư tưởng của họ bất chấp những biến đổi bất lợi trong môi trường sống.

Edited by Sophia

Share this post


Link to post
Share on other sites

Posted (đã chỉnh sửa)

Văn hóa Thần truyền: Tích đức tạo phúc, hành ác tạo nghiệp

Bài viết của Thanh Ngôn

[MINH HUỆ 02-04-2007] Vào triều Minh, ở vùng Sở Trung có một thư sinh. Anh tâm địa chính trực, lại bẩm sinh có năng lực siêu nhiên là đi về qua lại giữa dương gian và địa phủ. Anh phát hiện rằng người trên thế gian nói: “Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo” quả nhiên là hết sức đúng đắn. Một lần xuống địa phủ, anh thấy một quyển Ký lục ghi chép toàn bộ những việc thiện ác mà mỗi người trên thế gian đã làm, và phát hiện người trên nhân thế căn cứ theo nghiệp tích ít hay nhiều, thì hoặc là được phúc báo, hoặc là chịu trừng phạt. Anh ta cảm thấy thương xót cho những kẻ đang phải chịu hình phạt leo lên ngọn núi bằng đao kiếm, muốn cứu họ, nhưng họ đều không chịu để anh giúp, mà còn cố leo nhanh hơn. Hoàn toàn chẳng có cách nào cứu được họ.

“Tạo nghiệp” mà những cụ già Trung Quốc thường nói đến đối ứng với “tích đức”, cho biết một sự thật là làm việc tốt thì tích đức và sẽ được phúc báo, còn làm việc xấu thì tạo nghiệp và sẽ phải chịu trừng phạt. “Đức” cùng với “nghiệp” đều là vật chất tồn tại thật sự, những ai có công năng hoặc người trong giới tu luyện xưa nay đều có thể chứng thực được điều này.

Một ngày nọ, người thư sinh phát hiện trong quyển Ký lục ấy ghi lại việc thê tử của anh đã phạm tội trộm một con gà của hàng xóm, con gà ấy tính cả lông thì cân nặng 1 cân 12 lượng, anh ta bèn gấp trang sách đó lại để đánh dấu.

Khi trở lại dương gian, người thư sinh trách hỏi vợ, nhưng người vợ nhất nhất phủ định chuyện này. Người thư sinh vì vậy bèn kể lại hết thảy sự việc tại địa phủ mà anh đã thấy, lúc đó người vợ mới chịu nói thật. Nguyên là con gà hàng xóm đã chạy sang ăn lúa mà cô đang phơi nắng, trong lúc cô đuổi con gà lỡ tay đánh chết nó. Vì sợ hàng xóm sẽ trách mắng, cô bèn đem con gà giấu đi, không kể với ai.

Hai vợ chồng đồng thời giật mình kinh ngạc vì quyển sách địa phủ lại có ghi về cả việc ấy. Họ vội vàng tìm con gà đem cân, quả nhiên chính xác 1 cân 12 lượng, không sai chút nào. Hai vợ chồng nhanh chóng bồi thường và xin lỗi hàng xóm.

Vài ngày sau, người thư sinh lại đến địa phủ kiểm tra lại quyển sổ ấy. Anh thấy trang sách mà mình đã gấp đánh dấu vẫn còn, chỉ có đoạn ghi chép tội trạng là đã biến mất không còn dấu vết.

Thế mới thấy, đích thực là “Thần mục như điện, báo ứng bất sảng” (“Mắt thần như điện, báo ứng chẳng sai”)! Cho nên làm người thì cần tránh làm việc xấu ác tạo nghiệp, nếu không thì nhân quả báo ứng nghĩa là đã làm hại chính bản thân mình. Câu chuyện đó cũng cho thấy một đạo lý, nếu quả thật chúng ta đã phạm điều sai, chỉ cần sửa chữa những lỗi lầm của mình chúng ta sẽ có cơ hội tránh khỏi quả báo. Điều đó hoàn toàn tùy thuộc vào lựa chọn của chúng ta.

Edited by Sophia

Share this post


Link to post
Share on other sites

Văn hóa Thần truyền: Cao Đào “Cửu Đức”

[MINHHUỆ 31-5-2009] Khổng Tử nói: “Thuấn hữu thiên hạ, tuyển vu chúng, cử Cao Đào, bất nhân giả viễn hĩ” (Luận ngữ – Đằng Văn Công thượng, phần I).

Tạm dịch nghĩa: “Vua Thuấn có được thiên hạ, liền tuyển chọn hiền tài, chọn được Cao Đào, và những kẻ xấu đều lánh xa”. Theo sử sách, Cao Đào là quan trông coi hệ thống Tư pháp thời vua Thuấn, chấp pháp nghiêm cẩn mà công chính, thiên hạ không có ai bị xử oan. Ông chú trọng giáo hóa, chế tác lễ nhạc.

Cao Đào là người thành Cao Thành (nay là thành phố Lục An, tỉnh An Huy). Ông quản lý tư pháp, cùng với các vị vua Nghiêu, Thuấn, Vũ được xưng tụng là “Thượng cổ tứ Thánh” (“Bốn vị Thánh thời thượng cổ của Trung Quốc”). Cao Đào cho rằng Thiên Thượng tạo ra vạn vật vốn dĩ có chứa đựng đặc tính mỹ hảo kỳ diệu, vì vậy tuân theo thiên ý, bảo trì đức tính mỹ hảo ấy chính là trách nhiệm thần thánh của con người. Ông còn đề xuất “Thiên mệnh hữu đức”, “Thiên thảo hữu tội”, chuẩn mực “Thánh nhân cửu đức” ( nghĩa là “Trời trao sứ mạng cho người có đức”, “Trời diệt kẻ có tội”, chuẩn mực “9 Đức tính của Thánh nhân”).

Cao Đào đề xuất “Cửu Đức” như thế này: “Khoan nhi lật (khoan dung đại lượng nhưng cũng nghiêm túc cung kính), nhu nhi lập (tính tình ôn hòa nhưng lại có chủ kiến), nguyện nhi cung (cẩn thận tỉ mỉ nhưng cũng trang trọng nghiêm túc), loạn nhi kính (có tài trị quốc nhưng cũng thận trọng), nhiễu nhi nghị (giỏi lắng nghe ý kiến của người khác nhưng cũng cương nghị quyết đoán), trực nhi ôn (hành vi chính trực nhưng thái độ ôn hòa), giản nhi liêm (khoáng đạt giản dị nhưng cũng chú trọng cả những việc nhỏ), cương nhi tắc (cương trực nhưng cũng vẹn toàn), cường nhi nghĩa (kiên cường dũng cảm nhưng cũng phù hợp đạo nghĩa)”.

Cao Đào cũng đề xuất “Thận thân”, “Tri nhân”, “An dân” làm phương sách để trị quốc. “Thận thân” nghĩa là phải tự nghiêm khắc yêu cầu chính mình, lấy bản thân làm gương, khiến dân chúng kính phục noi theo. Bề trên lệnh cho kẻ dưới, mà bề trên bản thân lại bất chính, thì dân chúng không trọng Đạo lý, có Luật nhưng không phục tùng. “Tri nhân” nghĩa là chọn lấy người có đức có tài, biết mưu cầu lợi ích cho dân. “An dân” ý là: chỉ khi người dân có cuộc sống yên ổn mới thể hiện được Uy đức của bậc Đế vương.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Văn hoá Thần truyền: “tướng do tâm sinh”

Bài của Nhược Thuỷ

[MINH HUỆ 26-11-2009] Thành ngữ “tướng do tâm sinh” là có nội hàm của văn hoá Thần truyền, xuất hiện cả trong Phật gia và Đạo gia. Thông thường chữ tướng ở đây là để chỉ hình thức biểu hiện của sự vật, tức là cái hình tượng xuất hiện bề mặt của các sự vật mà người ta nhìn thấy trong cuộc sống thường ngày; mà biểu tượng ấy biến hoá đa đoan, thảy đều do nhân tâm khác nhau mà thành ra các trạng thái biểu hiện khác nhau.

Phật gia giảng “tướng do tâm sinh”, chủ yếu là để chúng sinh hiểu rằng “khả kiến chi vật, thực vi phi vật” (vật có thể thấy kia, thực ra là ‘phi vật’), “vật sự giai không, thực vi tâm chướng, tục nhân chi tâm, xứ xứ giai ngục” (vạn sự vạn vật thảy là không, thấy là thực là vì cái chướng ngại trong tâm; cái tâm phàm tục ấy, đâu đâu cũng là giam ngục). Chữ tướng này là giả tướng, hư tướng, huyễn tướng, chứ không phải chân tướng; thế nên mới bảo người ta đừng chấp trước vào cái tướng này, kẻo bị vạn vật thế gian làm phiền luỵ; nếu từ đó mà siêu thoát ra được, thì ấy là đến bờ hạnh phúc bên kia rồi.

Chữ tướng đang nói đến ở đây, thông thường là nói về diện tướng, cũng là nói về tướng mạo của toàn thể cá nhân ấy. “Tướng do tâm sinh” do vậy mà được hiểu là: người ta có tâm cảnh thế nào thì cái tướng mạo là thế ấy, người ta có tâm tư truy cầu gì thì có thể thông qua nét mặt tư thái mà nhận ra được. Trong «Tứ Khổ Toàn Thư» luận thuật rằng: “vị tướng nhân chi tướng, tiên thính nhân chi thanh, vị thính nhân chi thanh, tiên sát nhân chi hành, vị sát nhân chi hành, tiên khán nhân chi tâm” (đừng nhìn tướng mạo người, trước tiên hãy nghe thanh âm của người ta; đừng nghe thanh âm người, trước tiên hãy quan sát hành vi của người ta; đừng quan sát hành vi người, mà trước tiên hãy xét cái tâm của người ta). Âu cũng là nhấn mạnh rằng cái “tâm” quyết định cái “tướng” của con người; rằng biến hoá của diện tướng cũng là biến hoá của tâm biểu hiện ra bên ngoài.

Cố sự Bùi Độ, Bùi Chương là một ví dụ rất tốt để minh hoạ.

Bấy giờ là thời triều đại nhà Đường, Bùi Độ thuở nhỏ sống cảnh nghèo khổ cơ cực. Một hôm, trên đường gặp một vị Thiền Sư Nhất Hạnh. Đại Sư nhìn tướng mạo Bùi Độ, thấy ánh mắt láo liên, đường gân chạy vào chỗ miệng; ấy là tướng ăn xin đầu phố, đói khổ mà chết; vì vậy bèn khuyên Bùi Độ nên nỗ lực tu khổ hạnh. Mấy ngày sau, Bùi Độ nhặt được trên núi Hương Sơn một chiếc đai ngọc của nữ nhân và tìm trả cho người ta, nhờ thế mà cứu được tính mệnh cha mẹ cô gái ấy. Hôm sau lại gặp Thiền Sư Nhất Hạnh. Đại Sư coi mặt Bùi Độ mục quang trong sáng, thần thái đã khác hẳn. Ngạc nhiên quá, Đại Sư bèn hỏi chuyện, và sau khi nghe kể, ông cười lớn và nói: “tấm thân bẩy thước chẳng bằng khuôn mặt bẩy tấc; khuôn mặt bẩy tấc chẳng bằng cái mũi ba tấc; cái mũi ba tấc chẳng bằng một khối tâm”. Thiền Sư bèn khuyến khích Bùi Độ hành Thiện. Quả nhiên Bùi Độ sau làm trọng thần của bốn đời vua Đường Hiến Tông, Đường Mục Tông, Đường Kính Tông, và Đường Văn Tông, là “danh tướng toàn tài”, đương thời đã thành danh “huân cao trung nguyên, vang danh biên ngoại”. Trong sử sách nhìn nhận ông là “đức độ thuỷ chung suốt bốn đời vua”, “uy danh đức độ của ông sánh với Quách Phần Dương”. Bùi Độ có năm người con, đều có danh tiếng rạng rỡ, bản lãnh hơn người.

Bùi Chương là người Giang Đông tỉnh Sơn Tây. Cha mẹ của Bùi Chương có quan hệ rất thân với thần tăng Đàm Chiếu Pháp Sư. Pháp Sư giỏi về thuật tướng số, ông coi tướng Bùi Chương, thấy thiên đình bạo mãn, địa các phương viên (đỉnh trán và cằm đầy đặn phúc hậu), là tướng tương lai làm nên sự nghiệp danh giá, nhất định thành tựu. Khi hai mươi tuổi, Bùi Chương cưới Lý Thị làm vợ. Một năm sau đó anh đến Thái Nguyên làm quan, vợ con phải để lại ở nhà. Mấy năm sau Bùi Chương trở về gặp Đàm Chiếu Pháp Sư, thì Pháp Sư rất ngạc nhiên thấy tướng mạo của anh đổi khác hẳn: thiên đình lép kẹp, cằm nhọn, lòng bàn tay có hắc khí xoay chuyển. Pháp Sư bèn bảo rằng anh ta e rằng sẽ gặp hoạ, phải cẩn thận; rồi gạn hỏi xem anh có làm gì thất đức không. Bùi Chương suy xét rồi kể rằng mấy năm ở Thái Nguyên chỉ phạm mỗi việc thông dâm với dân nữ là trái với luân lý mà thôi, chứ không làm gì bất lương cả. Đàm Chiếu Pháp Sư thở dài thườn thượt nói: “Vốn dĩ cậu có tương lai tốt đẹp, sao chẳng biết trân quý? Tư thông với vợ người ta, cậu đã huỷ hết phúc đức của mình rồi. Thật quá là đáng tiếc!” Dần dần về sau Bùi Chương thật sự gặp đại hoạ. Một lần, khi đang tắm thì bị hành thích, một đao trúng bụng, gan ruột phòi ra bỏ mạng.

Thời cổ có câu: “hữu tâm vô tướng, tướng do tâm sinh; hữu tướng vô tâm, tướng tuỳ tâm diệt” (có tâm thì dẫu vô tướng, tướng cũng sẽ do tâm mà sinh; có tướng mà tâm vô, thì tướng ấy cũng tuỳ tâm mà tiêu mất); ấy là ý bảo rằng: hình tướng một cá nhân là tuỳ theo tâm niệm thiện-ác của cá nhân ấy mà biến hoá theo.

Kỳ thực, từ Trung Y cổ đại cũng như sinh lý học và tâm lý học hiện đại là có thể thấy rằng đạo lý “tướng do tâm sinh” cũng giản đơn thôi. Cái tướng mạo của người ta là do ‘hình’ và ‘thần’ hợp lại mà thành. Hình tướng thuần thục sinh lý thuận chính; thần thái cũng là bao quát nhân tố sinh lý; cũng phụ thuộc vào sự tu chỉnh của hậu thiên nữa. Nhất cử nhất động từng ý từng niệm trong sinh hoạt, qua thời gian thì dần dần cũng củng cố ra trên khuôn mặt, nghĩa là “hữu chư nội tất hình chư ngoại” (có gì bên trong ắt xuất hình bên ngoài). Tâm niệm nảy sinh, cũng sẽ tác dụng lên thân thể; nếu như tâm niệm an hoà tĩnh tại, thần thanh khí sảng, cái nhìn rộng mở, lỗi lạc quang minh, thì sẽ khiến khí huyết hài hoà, ngũ tạng an định, công năng chính thường, thân thể khoẻ mạnh, ắt sẽ thể hiện ra mặt mũi sáng sủa, thần thái bay bổng; ai gặp mặt cũng cảm thấy thoải mái, cảm thấy thân thiện an hoà một cách tự nhiên.

Có thể nhìn nhận quan hệ giữa tướngtâm như thế này: “tướng” là bề mặt, là biểu hiện bên ngoài; “tâm” là bên trong, là hoạt động bên trong; “tướng” là hư cấu bất thực, ở trạng thái bị động, là phản ánh ra ngoài của “tâm”; “tâm” thế nào thì “tướng” thế nấy; “tướng” là tuỳ theo “tâm” biến hoá mà biến hoá theo, cũng gọi là “cảnh tuỳ tâm chuyển”, “tướng tuỳ tâm thiên” (cảnh thay đổi theo tâm, tướng thiên di theo tâm). Cũng có thể coi “tâm” là nhân của “tướng”, “tướng” là quả của “tâm” (theo quan hệ nhân-quả).

Nếu bản thân một cá nhân không làm chủ tể nổi tâm của chính mình, thì bị sẽ bị động theo ảnh hưởng và lôi kéo của hoàn cảnh bên ngoài, chính đã là “tâm tuỳ cảnh thiên” (tâm chạy theo cảnh) rồi. Nếu có thể làm được bất động tâm, thế thì, chính là đã chế ước được ngoại cảnh không cho phát sinh biến hoá; cho nên, Phật Thích Ca Mâu Ni từng giảng: “Thế gian vạn vật giai thị hoá tướng, tâm bất động, vạn vật giai bất động, tâm bất động, vạn vật giai bất biến” (Vạn vật thế gian đều cái tướng được biến hoá ra, tâm bất động, vạn vật sẽ đều bất đông, tâm bất động, vạn vật sẽ đều bất biến).

Vì vậy mới có thể nói, dẫu hoàn cảnh có hiển tướng thế nào đi nữa, thì đều là “tâm” mình quyết định; “tướng” là bóng ảnh bên này của “tâm”. Làm người thì nên có tâm cảnh thế nào? Tuân Tử viết: “tướng hình bất như tướng tâm, luận tâm bất như luận đức”. Cuốn «Thái Thanh Thần Giám» —cuốn sách có ảnh hưởng lớn nhất trong thuật xem tướng thời xưa— có luận về đức thế này: “vi đức chi tiên, vi hành chi biểu” (lấy đức làm đầu, lấy hành vi làm biểu đạt), “đức tại hình tiên, hình cư đức hậu” (đức có trước hình, hình ở sau đức), “khứ nghiệp tùng Thiện, tiêu tai tỵ hung” (trừ nghiệp hành thiện, tiêu tai giải nạn).

Nếu trong tâm luôn giữ Chân-Thiện-Nhẫn, thật sự án chiếu theo Chân-Thiện-Nhẫn mọi lúc khi làm bất kể việc gì, thì sẽ mang theo quanh mình ảnh hưởng của “Phật quang phổ chiếu, lễ nghĩa viên minh”. Thưa các bạn, các bạn đã đặt công phu vào việc chăm chút từng tâm niệm của mình chưa?

Share this post


Link to post
Share on other sites

Văn hóa Thần truyền: Trực ngôn can gián – thản nhiên vô tư

Bài viết của Trí Chân

[MINH HUỆ 8-5-2007] Vào thời Xuân Thu, Yến Anh làm quan nước Tề. Vào năm thứ 3 đời vua Tề Trang Công, quan đại phu nước Tấn là Loan Doanh chạy trốn đến nước Tề. Tề Trang Công thịnh tình khoản đãi ông ta, nói với quần thần: “Loan Doanh rất có tài, ta thiện đãi ông ấy, muốn ông ấy giúp ta thành tựu đại nghiệp”.

Yến Anh và Loan Doanh trước đó đã gặp mặt nói chuyện với nhau, lúc này Yến Anh mới nói với Trang Công: “Loan Doanh là người xảo quyệt bất lương, hắn và thần từng nói chuyện với nhau nên thần hiểu rõ điều này. Thần thấy hắn đối với Chúa công thì dùng lời lẽ cực kỳ nịnh bợ, không câu nào là chân tình cả. Hắn cố ý làm như thế là bởi có dụng ý bất thiện, Chúa công cần phải đề phòng”.

Trang Công không chịu nghe, đối với Loan Doanh vẫn tin yêu như trước. Loan Doanh tại nước Tề kết giao với các quan đại thần, tặng quà hối lộ khắp nơi, cực lực kết bè với nước Ba, nhiều người đều bị hắn lung lạc lôi kéo và nói tốt cho hắn. Yến Anh hết sức can gián Trang Công, thỉnh cầu vua hãy đề phòng Loan Doanh, cuối cùng Tề vương kiềm chế không được, mở miệng mắng to: “Ngươi chẳng biết tốt xấu, chẳng lẽ Loan Doanh với ngươi có thù oán hay sao, ngươi mỗi ngày đeo bám theo ta nói bậy về ông ấy, ta xem ra kẻ gian ác chính là người như ngươi đó!”.

Yến Anh không kiêng sợ, nói: “Chúa công yêu thích lời ngon tiếng ngọt, Loan Doanh liền lợi dụng điều này. Nếu nói người như vậy là trung, thế thì ai là kẻ bất trung? Thần không thẹn với lương tâm, vì có lòng liêm sỉ nên không nịnh hót bợ đỡ, chỉ có kẻ gian ác mới không xem trọng liêm sỉ mà thôi”.

Qua một năm, Loan Doanh làm nội gián cho nước Tấn chân tướng đã bại lộ, Trang Công không tự phản tỉnh, mà lại chỉ trích Yến Anh nói chuyện vô lý, phạm thượng.

Năm Tề Trang Công thứ 6, Trang Công bị quyền thần là Thôi Trữ giết chết, không ai dám đi phúng điếu. Yến Anh bất kể an nguy, ôm thi thể Trang Công khóc lớn. Thôi Trữ nói với Yến Anh: “Chúa công đối với ngươi cũng không trọng dụng, ngươi vì sao mà khóc hắn?”.

Yến Anh nghiêm mặt nói: “Trung thì không siểm nịnh, gian thì không nói Chân. Ta thân là bề tôi, đương nhiên tận trung, sao có thể chỉ biết trách người đã chết, không có đại nghĩa như thế được?”.

Tả hữu hai bên Thôi Trữ muốn giết Yến Anh, Thôi Trữ đối với Yến Anh từ lâu cũng đã căm hận thấu xương rồi, nhưng lại nghĩ khác, quay ra nói với thủ hạ: “Hắn không sợ chết, giết hắn ích gì? Hắn được trăm họ ngưỡng vọng, thả hắn ra lại có thể thu phục được nhân tâm”.

Thôi Trữ vì để củng cố quyền thế, thiết lập uy tín, bèn đưa toàn bộ văn võ bá quan trong triều đến trước miếu Thái Tông, phái hơn 1.000 binh mã trong ngoài vây chặt, bức bách bọn họ phải tuyên thệ phục tùng ông ta. Ai không phục tức thì bị xử tử. Đã giết chết 7 người, không khí mười phần khủng bố.

Đến phiên Yến Anh. Mọi người nín thở, chỉ thấy Yến Anh ung dung giơ cao chén rượu, ngửa mặt lên trời bi phẫn mà than rằng: “Đáng hận thay! Thôi Trữ vô đạo giết quân vương. Phàm kẻ nào làm điều ác, trợ Trụ hành ác sẽ không được chết tử tế!”. Nói xong cạn chén. Thôi Trữ thẹn quá nổi khùng, hung hăng dùng kiếm chĩa thẳng vào ngực Yến Anh, muốn ông sợ mà phục tùng tuyên thệ. Yến Anh tuyệt không kiêng sợ, lớn tiếng trả lời: “Yến Anh ta quyết không khuất phục ngươi đâu!”. Thôi Trữ định xuống tay. Lúc đó, một thuộc hạ tâm phúc của ông ta mới can rằng: “Ngàn vạn lần không được! Ngài giết Trang Công là bởi vì hắn vô đạo, người dân trong nước không phản ứng gì nhiều, nhưng nếu Ngài giết Yến Anh, thì rất có thể sẽ phiền toái đó”. Thôi Trữ chẳng thể làm gì, tức giận đuổi Yến Anh đi.

Tề Cảnh Công kế vị, Yến Anh thấy vua tin yêu Lương Khâu Cư, hoàn toàn tiếp nhận những lời siểm nịnh, bất giác trong lòng buồn phiền. Một ngày, Lương Khâu Cư lại mở miệng nịnh nọt Cảnh Công, Cảnh Công nói với chúng thần rằng Lương Khâu Cư và vua hết sức hòa hợp. Yến Anh bước ra nói: “Thần thấy chẳng hòa hợp. Lương Khâu Cư rõ ràng tự dưng tâng bốc Chúa công, toàn là vô căn vô cứ, đó chính là những lời siểm nịnh mà thôi. Ông ta có thể là “tương đồng” với Chúa công, nhưng không phải là “hòa hợp”, bệ hạ nghĩ kỹ xem có phải là như thế không?”.

Cảnh Công bối rối, nói: “Điều này có gì phân biệt chứ?”.

Yến Anh nói thẳng: “Đương nhiên không giống nhau. “Hòa hợp” thì giống như là nấu canh vậy. Dùng nước, lửa, giấm, tương, muối, mơ cùng các chủng loại khác lường tính gia giảm cho điều hòa, trộn đều, trước tiên dùng lửa mà nấu, loãng thì thêm cái, cạn thì thêm nước, như thế món ăn sẽ được thơm ngon đúng vị. Đạo quân thần cũng giống như thế, Chúa quân mà đúng, chúng thần cần phải cật lực ủng hộ. Chúa quân không đúng, chúng thần cần phải chỉ ra mà sửa. Như vậy, quốc gia mới có thể yên ổn, chính sự mới không bị tổn thất”.

Cảnh Công nghe cảm thấy mù mịt, Yến Anh lập tức nói tiếp: “Lương Khâu Cư vì để mua vui cho Chúa công, bất kể đúng sai, thuận theo Chúa công hành sự xuất ngôn, trước sau hòng bảo trì sự nhất trí với Chúa công, đó là cố sức “tương đồng” hay là thực sự “hòa hợp” đây? Như thế đối với Chúa công đối với quốc gia có ích lợi gì đây? Vô cớ tâng bốc làm tăng thêm tâm kiêu ngạo của Chúa công. Nghe theo lời hắn như vậy, giống như canh đã loãng lại thêm nước vào, sẽ nhạt không ra vị gì nữa. Nếu cây đàn chỉ có mỗi một thanh âm, thì chẳng ai muốn nghe nó hát”.

Cảnh Công nghe xong thì hiểu ra, không nhịn được buột miệng khen hay. Cảnh Công nói với chúng thần: “Lâu nay nghe nói Yến Anh dũng khí hơn người, một lòng trung nghĩa, hôm nay ta rốt cuộc đã được nhìn thấy. Ông ấy không sợ chọc ta nổi giận, dám nói điều mà người khác không dám nói, đó mới đích thực là trung thần chân chính”.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Mấy bài này post vào mục Mạn đàm thì có lý hơn!

Share this post


Link to post
Share on other sites

Mấy bài này post vào mục Mạn đàm thì có lý hơn!

Cám ơn Thiên Luân đã có lời đề nghị! nhờ Quản Trị di chuyển hộ bài viết này.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Không thể đùa bỡn với Thần

[MINHHUỆ 01-04-2007] Vương Thiên Khanh là người thành Kiến Xương (nay là Nam Thành, tỉnh Giang Tây), có đạo thuật huyền ảo phi thường. Ông có đồ đệ là Trịnh Mỗ, người ta thường gọi là Trịnh Đạo sỹ, theo Vương Thiên Khanh nhiều năm, học hỏi được “Ngũ lôi pháp”, có thể thỉnh mời Lôi Thần, gọi mưa hoặc trừ yêu. Mỗi lần đều là hễ cầu là được.

Vào những năm đầu thời Thiệu Hưng dưới triều Tống Cao Tông, Trịnh Đạo sỹ đến huyện Lâm Xuyên. Có mấy vị khách tới thăm Trịnh Đạo sỹ. Bọn họ muốn được gặp Lôi Thần. Trịnh Đạo sỹ ban đầu cự tuyệt, nhưng họ nhất mực thỉnh cầu mãi, cuối cùng Trịnh Đạo sỹ từ chối không được, miễn cưỡng bằng lòng đáp ứng.

Trịnh Đạo sỹ lần nào làm phép cũng thường giống nhau: niệm chú vẽ bùa, tay cầm bảo kiếm, lớn tiếng tuyên hô. Sau một hồi, thấy gió lạnh gào thét, sương mù che phủ, mưa giăng đầy trời, một vị Thần đầu đội mũ cao, tay cầm búa thần, tới trước mặt Trịnh Đạo sỹ, nói rằng: “Đệ tử là Lôi Thần, nghe lời Trịnh Pháp sư triệu gọi, đến đây nghe lệnh. Xin mời sai bảo!”

Trịnh Đạo sỹ nói: “Bởi có mấy vị bằng hữu của ta muốn được gặp ông cho nên mới triệu ông tới, chứ không có chuyện gì cả”. Lôi Thần nghe Trịnh Đạo sỹ nói thế, rất là phẫn nộ, bảo ông ta: “Đệ tử mỗi lần được triệu gọi, đầu tiên phải bẩm báo Thiên Đế, được phê chuẩn rồi mới tới đây. Sau khi xong việc, trở lại Thiên Đình, lại phải hồi báo Thiên Đế. Hôm nay ngài triệu tôi tới chỉ để mua vui, ngài làm như thế, tôi biết bẩm báo với Thiên Đế thế nào đây? Tôi cầm búa sét trong tay, không thể đi mà không làm gì. Trịnh Pháp sư, ngài phải chịu nhận nhát búa này”. Lôi Thần lúc này giơ búa thần lên, nhắm đầu Trịnh Pháp sư bổ xuống. Mấy vị khách ở đó đều sợ hãi rụng rời, ngã xuống đất bất tỉnh. Một lát sau mọi người tỉnh lại, thì thấy Trịnh Đạo sỹ đã chết rồi. ( Chuyện này nằm trong sách “Di kiên bính chí”, quyển số 14).

Khi viết ra câu chuyện này, tôi nhớ lại một cuộc nói chuyện với những người bạn của tôi, một người là lão Trần rất tin Thần, và người kia là lão Lưu không tin Thần. Họ là bạn tốt nhưng lại thích tranh cãi với nhau. Một lần lão Lưu nói: “Ông bảo là có Thần, thế ông gọi Thần đến đây cho tôi xem xem!”. Lão Trần trả lời: “Tôi mời Thần không đến, tôi mời ông tỉnh trưởng đến đây còn chẳng được nữa là. Nhưng mà quả thật là có ông tỉnh trưởng. Ông không nhìn thấy tỉnh trưởng, Chủ tịch nước, Tổng thống Mỹ; chung lại không thể nói rằng không có tỉnh trưởng, không có Chủ tịch nước, không có Tổng thống Mỹ đúng không? Ông không có gặp mấy vị đó, không có nghĩa là họ không tồn tại. Lại nói, Thần so với tỉnh trưởng, Chủ tịch nước, Tổng thống Mỹ, so với hết thảy thường nhân, đều cao hơn vô số lần. Chúng ta là thường nhân, lẽ nào có thể tùy tiện mời Thần xuống đây được sao?”.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Văn hóa truyền thống: Kẻ trộm cũng có Đạo

Bài của Từ Hoa

[MINH HUỆ 24-5-2007] Những năm Càn Long triều đại nhà Thanh, huyện Sùng Đức (xưa gọi là huyện Thạch Môn), tỉnh Chiết Giang, có một viên tri huyện là Chương Thanh, xuất thân là người đọc sách, học vấn uyên thâm, làm quan thanh liêm, thanh danh cực tốt trong dân chúng. Chương Thanh đến huyện Sùng Đức đảm nhiệm chỉ có mấy năm, huyện đã trở nên an bình trật tự, dân chúng an cư lạc nghiệp, đêm không cần khóa cửa.

Lúc này, khắp huyện kế bên trộm án xảy ra liên tục, nhân tâm nhốn nháo. Bên trên có văn thư xuống, điều Chương Thanh sang huyện lân cận làm tri huyện, chỉnh đốn tình hình ở đó. Chương Thanh một mình đến huyện ấy nhậm chức, lập tức sử dụng các biện pháp nghiêm khắc kịp thời. Kể cũng lạ, từ khi Chương Thanh đến nhậm chức, đạo tặc liền im hơi lặng tiếng, không còn xảy ra vụ trộm nào nữa. Chương Thanh rất nhanh chóng chỉnh đốn cả huyện trở nên an bình hòa hợp.

Mấy tháng sau, Chương Thanh đưa người nhà đến ở cùng. Ba năm nhậm chức đã qua, Chương Thanh cùng gia quyến lên thuyền trở về quê. Dân chúng tự nguyện tụ tập tại bến để tiễn Chương Thanh. Chương Thanh từ biệt mọi người, đột nhiên trước mắt chợt lóe lên một bóng người, đôi kính cận đang mang đã không cánh mà bay. Chương Thanh chấn động, suýt nữa ngã xuống sông, may mà phu thuyền nhanh tay giữ chặt. Kính mắt không cánh mà bay, khiến Chương Thanh nghĩ mãi không lý giải được, nói rằng bị trộm mất, thì đôi kính ấy không đáng tiền, trộm nó làm gì? Nói là đánh mất, sao lại không có chút cảm giác nào cả, ông không khỏi cứ mãi lắc đầu, cảm thấy hết sức kỳ quái. Cũng may trong hành lý vẫn còn cặp kính khác, chưa đến nỗi không còn nhìn được nữa. Vì vậy, ông phất tay, bảo phu thuyền bắt đầu đi.

Buổi tối hôm đó, thuyền tạm dừng đỗ qua đêm tại một trấn nhỏ ở ranh giới của 2 huyện. Sáng sớm ngày hôm sau, Chương Thanh đột nhiên phát hiện 10 cái rương gỗ lớn đặt ở trong thuyền tất cả đều đã biến mất không còn dấu vết. Đó chính là toàn bộ gia sản, Chương Thanh không khỏi kinh hãi há miệng trợn mắt, “Bọn đạo tặc to gan lớn mật, ta chưa rời khỏi huyện, chúng đã liền nổi dậy hoành hành, còn trộm cắp ngay trên đầu ta, thật sự là ghê tởm! Như thế xem ra cặp kính bị mất hôm qua dám chắc cũng chính là bọn trộm này lấy mất”.

Làm sao bây giờ? Chương Thanh suy nghĩ: “Đám đạo tặc này trộm được rồi, chắc hẳn đã xa chạy cao bay, biết bọn chúng ở đâu mà tìm, hỡi ôi, tự dằn lòng mà quên đi vậy“. Nghĩ thế, Chương Thanh thở dài, bảo nhà thuyền rời bến.

Thuyền đi 3 ngày, rốt cục đã về đến quê hương của Chương Thanh một cách bình an. Chương Thanh nhìn phía xa xa, chỉ thấy trên bến chỉnh tề xếp đủ 10 cái rương lớn, nhìn qua thật là quen thuộc, trông giống như mấy cái rương mà mình đã bị đánh cắp. Chương Thanh cảm thấy mười phần kỳ quái, vội vàng cập bến, nhanh chân nhảy lên bờ chạy tới mà xem. Trời hỡi, quả nhiên là mấy cái rương của mình, thật là may mắn! Trên cái rương còn có một phong thư, chặn lên trên là cặp kính vốn đã không cánh mà bay lúc trước.

Chương Thanh vừa mừng vừa sợ, lúc này mở phong thư ra, chỉ thấy trong thư nói rằng:

Gửi Chương đại nhân:

Bọn tôi là một nhóm đạo tặc, vào thời ông nhậm chức, chúng tôi ái mộ thanh danh liêm khiết chính trực của ông, chưa bao giờ trộm cắp tại huyện mà ông cai quản. Nhưng là, lúc ông rời khỏi huyện có mang theo 10 chiếc rương gỗ rất lớn, không khỏi khiến chúng tôi hoài nghi không rõ ông có phải là vị thanh quan như thế hay không. Cho nên, bọn tôi đầu tiên lấy trộm đôi kính sau lại lấy trộm mấy cái rương gỗ, cũng là để cảnh báo cho ông thấy. Mở xem tất cả mấy cái rương gỗ, thấy tài sản của ông ngoài sách với sách ra, tất cả có chưa đến 32 ngân lượng. Mọi người thường nói: “Nhất Nhâm Thanh Tri Phủ, Thập Vạn Tuyết Hoa Ngân” (một viên tri phủ thanh liêm nhậm chức, cũng có được 10 vạn ngân lượng). Ông làm huyện lệnh nhiều năm, nhưng vẫn nghèo như không. Thấy rõ ông đích thực là một vị quan thanh liêm, bách tính đã không nhìn lầm ông. Bọn tôi lúc trước đã mạo phạm nhiều, thật sự xin lỗi, đặc biệt xin trả lại những vật đã lấy trộm trước kia, mong được Đại nhân bao dung tha thứ“.

Nguyên lai là như thế! Chương Thanh trong lòng cảm thán, không khỏi lẩm bẩm: “Thật là! Thực sự là đạo tặc cũng có đạo!”

Người thời cổ có tiêu chuẩn đạo đức rất cao, tin Trời tin Thần, tiêu chuẩn thiện ác phổ quát là từ nội tâm của con người. Người xấu làm việc xấu vẫn có một thước đo chuẩn mực cho riêng mình. Những việc có liên quan đến vấn đề lương tâm, hoặc đối với người Đại thiện cùng với thanh quan, những đạo tặc có lương tri đều không dám xâm phạm.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Văn hóa Thần truyền: Thấy lợi trọng nghĩa không nhặt của rơi

Bài của Thanh Ngôn

[MINH HUỆ 25-5-2007] Vào triều Minh có một tú tài tên là Hà Nhạc, thường gọi là Úy Trai. Có một ngày, Hà Nhạc ban đêm đi đường nhặt được 200 lạng bạc, trở về không dám nói với người nhà chuyện này, vì sợ người nhà khuyên giữ lại số bạc đó.

Sáng sớm hôm sau, Hà Nhạc mang bạc tới chỗ đã nhặt được, trông thấy một người đang tìm kiếm, liền hỏi người ấy số lượng và dấu hiệu của số bạc đó. Kết quả đều phù hợp, Hà Nhạc liền lấy bạc trả lại cho người ấy. Người ấy muốn lấy một ít bạc tặng Hà Nhạc để tạ ơn, Hà Nhạc nói: “Tôi nhặt được bạc không ai biết, nếu muốn nói thì đều là của tôi. Những thứ ấy tôi đều không cần, làm sao tham tiền này được?“. Người mất của bái tạ rời đi.

Hà Nhạc từng làm giáo thư trong một nhà hoạn quan. Một ngày, hoạn quan có chuyện phải vào kinh thành, gửi một cái rương tại chỗ Hà Nhạc, trong rương có mấy trăm lạng vàng, hoạn quan nói với Hà Nhạc: “Đợi đến ngày khác tôi lại đến lấy“.

Bẵng đi mấy năm, vị hoạn quan vẫn bặt vô âm tín. Hà Nhạc sau khi nghe nói có một người cháu của vị hoạn quan kia đang đến, cũng không phải tới lấy cái rương, nhưng Hà Nhạc trọng nghĩa khinh lợi chủ động lấy cái rương đưa cho người cháu của vị hoạn quan, để cho người ấy mang trả lại cho hoạn quan.

Thấy lợi trọng nghĩa là đạo lý và bổn phận làm người, trong giới tu luyện còn coi trọng việc đó hơn nữa. Đức và Nghiệp là hai loại vật chất tồn tại xung quanh thân thể con người, nếu một thứ gì đó không phải là của bản thân, nhưng lại dùng thủ đoạn bất chính hòng “có được” nó, ấy chính là dùng Đức quý giá của bản thân mà hoán đổi, lại còn có thể tạo ra nhiều Nghiệp lực. Cho nên thấy lợi vong nghĩa chính là những việc làm tổn

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vị thầy tu ham ngủ

[MINH HUỆ 15-11-2009] Phật Thích Ca Mâu Ni thường dạy các đệ tử của Ngài phải chăm chú toàn tâm học kinh Phật, và dạy họ không được buông lơi hay lười nhác. Hầu hết các đệ tử của Ngài đều làm theo lời dạy của Ngài và tu luyện tinh tấn, do vậy họ đã đắc Đạo và đạt Quả Vị khi loại bỏ nhiều lo lắng và đau khổ.

Nhưng có một vị thầy tu không tinh tấn. Khi những người khác luyện công thì anh ta đi ngủ. Các đệ tử đồng môn đã cố góp ý với anh ta, nhưng anh ta vẫn không thay đổi.

Điểm yếu nhất của vị thầy tu này là ngủ quá nhiều. Hàng ngày, anh ta đi ngủ sau bữa ăn. Khi ngủ anh ta đóng chặt cửa và ngủ một mình trong phòng. Không ai có thể đánh thức anh ta dậy, bất kể họ cố gắng đến đâu.

Một hôm vào buổi trưa, sau khi đi xin ăn trên phố, vị thầy tu đã trở về với cái bụng no nê. Anh ta đi thẳng về phòng và lên giường ngủ. Có thể nghe thấy tiếng ngáy từ phòng anh ta đến tận sáng hôm sau.

Sáng hôm sau, đến lúc Phật Thích Ca Mâu Ni giảng Phật Pháp cho mọi người, tất cả đệ tử đều có mặt, ngoại trừ vị thầy tu ham ngủ. Phật Thích Ca Mâu Ni hỏi: “Tại sao người đệ tử ham ngủ kia không đến?”

Một đệ tử nhanh chóng đứng lên trả lời: “Thưa Đức Phật, cậu ấy vẫn ngủ từ trưa hôm qua tới giờ. Chúng con không thể đánh thức cậu ấy bất kể chúng con cố gắng thế nào.”

Phật Thích Ca Mâu Ni nhớ rằng vị thầy tu chỉ còn bảy ngày để sống. Nếu anh ta chết trong khi ngủ suốt thời gian, thì cái chết của anh ta sẽ mang tới bất hạnh cho anh ta. Phật Thích Ca Mâu Ni rất thương xót cho vị thầy tu. Ngài đã hướng dẫn đệ tử của Ngài tụng kinh và đi cùng A-nan tới thăm vị thầy tu trong phòng.

Họ có thể nghe thấy tiếng ngáy như sấm trước khi đi tới phòng của vị thầy tu. Khi mở cửa phòng, họ chỉ nghe thấy tiếng ngáy to hơn. Vị thầy tu vẫn nằm ngủ say trên giường.

A-nan đã gọi tên vị thầy tu trong vài phút, nhưng anh ta không trả lời và vẫn ngủ. Sau đó Phật Thích Ca Mâu Ni đã đi tới giường của vị thầy tu và nhẹ nhàng lay anh ta. Vị thầy tu lập tức tỉnh dậy.

Nhìn thấy Phật Thích Ca Mâu Ni đứng trước và đang từ bi nhìn vào mình, vị thầy tu lập tức đứng dậy cúi lạy Phật Thích Ca Mâu Ni và nói: “Đức Phật tôn kính, xin tha thứ cho con vì thất lễ.”

Phật Thích Ca Mâu Ni nói với anh ta: “Con chỉ còn bảy ngày để sống. Ta không thể chịu được khi thấy con chết trong khi ngủ quá nhiều và không đạt được Chính Quả. Ta tới đây để đánh thức con.”

Vị thầy tu đã bị sốc. Anh ta chưa bao giờ biết rằng anh ta có thể chỉ còn sống được bảy ngày nữa. Anh ta sợ hãi và không biết phải làm gì.

Phật Thích Ca Mâu Ni an ủi anh ta và nói: “Đó là duyên phận của con. Vài đời trước, khi con là một thầy tu, con đã đắm mình trong ăn ngủ và không bao giờ suy nghĩ về ý nghĩa của Pháp. Con đã không tuân thủ giới luật của Phật Pháp. Con đã không tích được chút phúc lành hay đức nào, bởi vậy con đã chuyển sinh thành một con mọt gạo trong 50.000 năm. Sau đó con đã chuyển sinh thành một con ốc sên, một con trai, và một con nhậy trong 50.000 năm cho mỗi loại.”

“Trong những kiếp trước, con thích sống trong những nơi tối tăm không có ánh sáng, và con rất trân quý cơ thể và cuộc sống của con. Điều khác thường hơn là tất cả bốn sinh mệnh khác nhau của con đều thích ngủ và có thể ngủ trên 100 năm khi chúng ngủ. Con đã không cố gắng tinh tấn một tí nào. Sau 200.000 năm, cuối cùng con đã trả nợ được tội lỗi mà con đã phạm. Sau đó con đã chuyển sinh thành người và trở thành một thầy tu.”

“Bây giờ con đã trở thành một thầy tu, con nên học và tu luyện tinh tấn để bù đắp lại thứ mà con đã mất trước kia. Ta không mong rằng con vẫn còn quá chấp trước vào ăn và ngủ giống như con trong 200.000 năm trước. Tại sao con luôn cảm thấy như là con ngủ không đủ? Đừng quên hậu quả mà con đã chịu đựng 200.000 năm trước đây.”

Phật Thích Ca Mâu Ni ngừng nói. Vị thầy tu đỏ mặt vì hổ thẹn. Anh ta nhanh chóng hối lỗi với Phật Thích Ca Mâu Ni. Khi anh ta tự phê bình bản thân và hối hận sâu sắc, tất cả những ý niệm tư tưởng nhiễu loạn của anh ta đã biến mất. Lúc cuối đời, anh ta đã đắc được quả vị La Hán.

Một ngày chỉ có 24 giờ. Mọi người thường nói rằng thời gian trôi qua trong nháy mắt. Người trung bình ngủ tám tiếng một ngày. Những người ngủ nhiều có thể dành phần lớn thời gian của họ để ngủ và mơ và do vậy làm được rất ít việc trong một đời. Vài chục năm trôi qua rất nhanh trong thế giới con người. Bạn sẽ thực sự hối tiếc nếu bạn không kiên định nắm chặt thời cơ. Đôi khi bạn cảm thấy như cuộc sống quá dài, nhưng bạn không biết khi nào cái chết sẽ mang bạn đi. Lúc đó, bạn sẽ không làm được một việc tốt nào, không thực hiện được những nhiệm vụ mà bạn cần phải làm và sứ mệnh mà bạn cần phải hoàn thành. Tệ hại hơn, có thể bạn đã hoàn toàn không cố gắng để làm các việc. Không gì có thể giúp đỡ bạn được nữa, bất kể bạn cả thấy hối tiếc thế nào. Bạn có thực sự muốn trở thành một con sâu ngủ trong đời sau của bạn không?

Vị thầy tu ngủ nhiều cuối cùng đã nhận ra rằng anh ta cần phải tận dụng thời gian còn lại và không được uể oải hay buồn ngủ. Người tu luyện nhấn mạnh vào dũng mãnh tinh tấn trong tu luyện Phật Pháp. Làm sao một người uể oải và buồn ngủ có thể tinh tấn như một mãnh sư? Người tu nên tận dụng từng phút, ngủ ít, và tu luyện nhiều hơn để thành công trong tu luyện.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Posted (đã chỉnh sửa)

Người cổ đại nghĩ gì về những tư tưởng tục tĩu

[MINH HUỆ 26-06-2008] Có một câu châm ngôn cổ: “Tất cả ma quỷ đều phát sinh từ ham muốn.” Tôi tin rằng chắc chắn có một vài chân lý nào đó liên quan đến nó.

Vì vi phạm những tiêu chuẩn đạo đức về tình dục, con người đã tạo ra số lượng nghiệp lực rất to lớn. Trước khi có sự bại hoại về tiêu chuẩn đạo đức, người ta không tán thành những người có ham muốn tình dục.

Ở Trung Quốc trong Triều Đại Thanh (1644-1911 A.D), Ji Xiaolan là một quan chức nổi tiếng và là chủ biên của Si Ku Quan Shu (Ghi chú: tuyển tập những quyển sách được biên soạn trong suốt triều đại Thanh). Ông đã viết một cuốn sách gọi là Yue Wei Cao Tang Biji ( tham khảo dịch sang tiếng Anh: The Thatched Study of Close Scrutiny) trong đó ông ghi lại nhiều câu chuyện lạ thường mà ông đã nghe được hay bản thân trải qua. Một trong những câu chuyện diễn ra như sau:

Hoàng đế đã phái một viên quan tới vùng mà ngày nay được biết là Đài Loan về việc thông thương chính thức. Trên đường đến Đài Loan, ông đã ở lại một khách sạn. Vào một buổi tối ở đó, ông đã nhìn thấy một cô gái xinh đẹp lộng lẫy đang lén nhìn trộm qua tường vào trong sân nơi mà ông đang ở. Ông đã lớn tiếng và giận giữ quát mắng cô và ra lệnh cho đầy tớ tìm kiếm cô, nhưng họ đã không tìm thấy cô.

Buổi tối khi đang ngủ, Ji Xiaolan đã bị đánh thức bởi một âm thanh và một mảnh ngói bay vào gối ngủ của ông. Ông đã la lên một cách tức giận: “ Là một con yêu quái, Sao ngươi dám xúc phạm đến sứ giả của triều đình?

Giọng của một cô gái từ bên ngoài cửa sổ: “ Ngài là một quan chức triều đình. Suốt ngày tôi đã cố để tránh ngài, nhưng ngài đã nhìn thấy tôi, la mắng tôi và tìm kiếm tôi. Tôi không muốn Chư Thần biết điều này và không muốn bị khiển trách. Do vậy, tôi đã thực sự lo lắng.”

“Tuy nhiên, khi ngài đi ngủ, ngài lại nghĩ rằng có thể tôi là con gái của chủ khách sạn này. Ngài đang suy tính trong đầu một kế hoạch để lấy tôi làm vợ hai của ngài. Tất nhiên ngài không biết rằng bất kể tư tưởng nào mà ngài có, Chư Thần đều biết. Khi một người hình thành trong đầu họ một tư tưởng xấu, nó sẽ thu hút sự quấy rối của một linh hồn ma quỷ. Dưới hoàn cảnh này, Chư Thần sẽ không thể khiển trách ma quỷ được. Vì vậy, khi tôi ném một mảnh ngói vào ngài, ngài thực sự không có quyền để nóng giận.”

Khi nghe cô giải thích, ông ta cảm thấy thất vọng và xấu hổ. Trước khi trời sáng, ông đã ra lệnh cho đầy tớ thu dọn hành lý và rời đi.

Từ câu chuyện trên chúng ta có thể thấy những châm ngôn như vậy của người cổ đại như là “Chư Thần luôn theo dõi bạn” và “Bạn nghĩ gì, Chư Thần đều biết” đến từ đâu. Ngay khi một người hình thành trong đầu một tư tưởng tục tĩu dâm dục, Thần đã có thể biết và xem thường khinh miệt người này. Một linh hồn ma quỷ có thể đựơc đến quấy nhiễu người này. Do vậy, một người không được nói hoặc hành động một cách tục tĩu, và thậm trí phải tránh nuôi dưỡng những tư tưởng ý niệm tục tĩu dâm ô đó.

Ngày 25 tháng 6, 2008

Edited by Sophia

Share this post


Link to post
Share on other sites

Một Đạo sỹ nói về số mệnh

Tác giả: Lục Văn

[MINH HUỆ 28-7-2007] Vào triều Thanh, hiền giả Kỳ Hiểu Lam viết cuốn “Duyệt vi thảo đường bút ký”, trong đó ông miêu tả về một vị Đạo sỹ tài ba đàm luận về số mệnh. Nội dung rất sâu sắc và thiết thực cho đến tận ngày nay. Dưới đây là nội dung chủ yếu của câu chuyện:

Minh Thịnh là huyện lệnh của huyện Hiền. Ngày nọ ông tiếp nhận một vụ án oan, muốn vì dân thường mà xử lại, nhưng lại sợ thượng cấp không vừa ý, vì thế mà rất lưỡng lự. Trong số thuộc hạ có người tên là Môn Đấu, người này có một người bạn có công năng đặc dị, vì vậy Minh Thịnh bèn phái Môn Đấu đi thỉnh mời vị kia để đoán trước sự tình và chỉ cho cách làm thế nào mới tốt.

Môn Đấu tuân lệnh đến thỉnh mời. Vị kia nghe xong trang trọng trả lời, “Minh Thịnh huyện lệnh thân như cha mẹ của chúng dân trong huyện, thì nên xem xét dân chúng có bị oan hay không, hơn là dò xét thượng cấp có vừa ý hay không. Chẳng lẽ ông ấy đã quên câu chuyện của Lý Vệ tiên sinh năm xưa?”

Môn Đấu trở về, bẩm báo lại đầu đuôi mọi sự. Minh Thịnh vừa nghe thì giật mình cả sợ, nhớ lại xưa kia Lý Vệ tiên sinh đã từng kể cho ông ta một câu chuyện. Nhưng người này là người như thế nào mà lại biết được chuyện ấy? Thật là thần kỳ. Nhưng dù sao đi nữa, Minh Thịnh giờ đã biết cần xử lý vụ việc ra sao.

Trước khi trở thành quan Tri phủ, một lần Lý Vệ lên thuyền vượt sông, thì gặp một vị Đạo nhân. Để tiết kiệm chút tiền mọn, một hành khách đã tranh cãi với chủ thuyền. Đạo sỹ thở dài, “Đối với một kẻ sắp bị chết đuối, ông ta vẫn còn tranh cãi chỉ vì một chuyện tầm thường, thật là không đáng!”.

Lý Vệ nghe xong, lúc đó không hiểu Đạo sỹ nói lời ấy là có ý gì. Một lát sau, đột nhiên một cơn gió mạnh bắt đầu thổi trên sông. Vị hành khách kia không giữ được thăng bằng, bị ngã xuống nước và chết đuối. Lý Vệ giờ mới biết vị Đạo sỹ có năng lực siêu phàm. Lúc đó, gió càng ngày càng mạnh, con thuyền chòng chành muốn lật. Đạo sỹ bước chân theo trận đồ, không ngừng niệm thần chú. Cơn cuồng phong rất nhanh chóng dừng lại, mọi người đều được cứu sống. Lý Vệ hướng về Đạo sỹ bái ba bái tạ ơn cứu mạng. Đạo sỹ bèn nói, “Vừa rồi người kia chết đuối, là vì mệnh của ông ta đến đó đã tận, ta không thể cứu được. Ông là quý nhân, hôm nay gặp họa nhưng được giải cứu, cũng là trong mệnh đã định như vậy, ta không thể không cứu. Cho nên ông không cần cám ơn ta”.

Lý Vệ nghe xong, thụ giáo được rất nhiều, lại bái tạ và nói: “Nghe ngài dạy bảo, từ đầu tới cuối tôi đều được lợi ích. Từ nay về sau cả đời tôi sẽ an phận mà thủ mệnh”.

Đạo sỹ nói, “Ông nói lời này không hoàn toàn là đúng. Một cá nhân đối với vinh nhục, thăng trầm, phú bần, đều không truy cầu thì người đó là đang an phận, tức là an mệnh, chính là thuận theo tự nhiên. Không an mệnh, tức là lừa đảo lẫn nhau, đấu đá với nhau, chuyện xấu gì cũng làm. Những việc như vậy thảy đều tạo nghiệp. Ví như Lý Lâm Phủ, Tần Cối, bọn họ nếu có thể thủ mệnh, thuận theo tự nhiên, thì sau đều được làm Tể Tướng, bởi số mệnh đã định như thế. Nhưng bọn họ năm đó chỉ vì tranh giành địa vị Tể Tướng, mà bài trừ những người trái ý, dùng hết tâm kế mà hãm hại trung lương, đâu biết rằng dù có cố hay không thì sau này đều được làm Tể Tướng, vì thế chỉ là tự mình gia tăng ác nghiệp mà thôi. Về phần quốc kế dân sinh lợi hay hại thế nào không thể nói mệnh; đối diện với trăm họ đang trong cảnh khốn cùng, oan ức, thì không thể để mặc như thế, nhưng cần tùy kỳ tự nhiên. Hết thảy những người phụ trách thì đều phải chịu trách nhiệm. Gia Cát Khổng Minh từng nói: “Thần cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi, còn về việc thành hay bại, lợi hay không, thì thần không rõ, nhưng cũng có khả năng lường trước được!”. Chính là đạo lý ấy. Trời Đất dưỡng dục nên nhân tài, quốc gia thiết đặt vị trí cho các cấp quan lại, mục đích là để ích nước lợi dân. Thân là quan lại, nắm giữ quyền hành, mà bó tay ủy thác hết cho số mệnh, thì Trời Đất cần gì phải sinh ra những người tài như thế, quốc gia cần gì phải thiết lập quan lại như thế? Cao nhân thánh hiền cần phải hiểu được Mệnh, đó chính là đạo lý chân thực, hy vọng ông có thể lĩnh hội được toàn diện”.

Đạo sỹ nói xong xuống thuyền, nhanh chóng biến mất.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Văn hóa Thần truyền: Muốn biết kiếp sau thế nào, hãy xem kiếp này đã làm những việc gì

[MINH HUỆ 8-6-2007] Thành Hàng Châu có một cửa hiệu tơ tằm nọ, mở cửa đã hơn mười năm. Chủ nhân của trang trại tuổi đã hơn 50 nhưng tâm địa vẫn bất lương.

Một năm, khu vực đó phát sinh hỏa hoạn, lửa cháy lan đến cửa hiệu tơ tằm ấy. Phía sau cửa hiệu là nhà của một gia đình nghèo, cả nhà có 3 người, sinh sống bằng nghề giặt là quần áo, khi ra vào nhà thì nhất định phải đi qua cửa hông của hiệu tơ tằm bên cạnh.

Lúc lửa đang cháy dữ dội, gia đình nghèo ấy cả 3 người không ngừng kêu thất thanh “Mở cửa ra!” hy vọng có thể thoát qua cửa hông mà bảo toàn mạng sống.

Ngờ đâu người chủ cửa hiệu vì để thuận tiện vận chuyển hàng hóa, dùng sức khóa chặt cửa hông, không cho mở. Đến lúc chuyển đồ đạc xong, lửa cũng đã dập tắt đi rồi, thì cả nhà nghèo kia đều đã bị chết cháy.

Một năm sau, chủ cửa hiệu tơ tằm đột ngột qua đời. Một đêm nọ, ông ta báo mộng cho con trai nói rằng: “Ta hại chết cả nhà người ta, Âm Tào không cho chuyển sinh làm người nữa, mà phải nhập thai heo. Hiện giờ ở tại một nhà nông nọ có một heo mẹ sinh được 4 heo con, con heo mà trên thân có cái bớt màu đỏ chính là ta đó. Con hãy hỏi vị nông dân kia, xin mua rồi đưa ta về nhà nuôi, để tránh bị người ta xâu xé”. Nói xong khóc lớn.

Con trai ông ta sau khi tỉnh dậy, cảm thấy cảnh mộng sao mà giống y như thật, bèn dựa theo những lời cha chỉ dẫn trong mộng mà tìm đến nơi ấy. Quả nhiên là có một con heo mới sinh trên người có cái bớt màu đỏ thật.

Con heo nhỏ nhìn thấy con trai tới thì kêu gào thảm thiết đứng lên, điệu bộ giống như đang lạy lục van xin. Con trai ông ta liền dùng tiền mua nó về nhà, còn chuẩn bị một gian phòng cho nó ở, hơn nữa còn thuê người hầu hạ nó. Mỗi ngày tắm gội sạch sẽ cho heo, cho nó ăn toàn những thức ăn hạng nhất, đối đãi với nó giống như đối với cha mình khi còn sống.

Được mấy ngày, người con trai lại nằm mộng thấy cha nói rằng: “Ta khi còn sống tội ác tày trời, sau khi chết nếu đã tái sinh thành súc vật mà ăn uống sinh hoạt vẫn như người lúc còn sống, thế thì chỉ có tăng thêm tội nghiệp. Sau này, con không cần cho ta ăn thức ăn hạng nhất, lại càng không tắm gội cho ta nữa, chỉ có thể chăn nuôi ta. Nếu không, ta sẽ khó trả ác nghiệp quá nặng của mình. Sau khi chết điều gì ta cũng đều hiểu rõ, nhưng cũng chỉ biết hối hận mà thôi. Con nhất định cần phải biết yêu quý thân người và làm việc thiện đó!”.

Người xưa có câu: “Muốn biết kiếp trước đã làm những gì, hãy xem kiếp này được thụ hưởng thế nào; muốn biết kiếp sau sẽ ra sao, hãy xem kiếp này đã làm những việc gì”, làm cho người ta tin tưởng ở Luật Trời có thiện ác báo ứng. Kỳ thực, hiện nay bất kể mọi người trong quá khứ từng làm sai điều gì, bây giờ không còn quan trọng nữa, bởi vì Phật Pháp từ bi, vẫn cấp cho con người một cơ hội tốt. Cần nhất chính là hôm nay, là thời khắc mấu chốt để lựa chọn tương lai cho bản thân mình, không nên lại lạc đường lần nữa, không nên tạo ra nỗi hối hận mà vĩnh viễn sẽ không cách nào quên được. Bảo trì thiện niệm, yêu quý sinh mệnh, thuận theo đặc tính “Chân, Thiện, Nhẫn” của vũ trụ mà hành động, đó mới là lựa chọn sáng suốt của những sinh mệnh chân chính.

Tích đức phúc báo

[MINH HUỆ 13-8-2006] Lý Giác (Li Jue), người hạt Giang Dương, Quảng Lăng, triều đại nhà Đường (618–907) là người tính tình hiền lành và cẩn thận, sinh trưởng trong một gia đình nhiều đời bán lương thực. Năm 15 tuổi, Lý Giác tiếp quản việc mua bán của gia đình.

Khi khách đến, ông đưa cân cho khách hàng tự cân, hơn nữa ông cũng không lấy tiền theo giá thị trường mà chỉ lấy giá đủ để trang trải cuộc sống và phụng dưỡng cha mẹ.

Nhà họ Lý mua bán lương thực, lạ thay, ngày càng được nhiều người biết đến. Lấy làm lạ, cha ông bèn hỏi cách ông bán hàng. Biết chuyện, cha ông cảm động lắm, nói: “Hồi cha bán hàng, cha biết có nhiều người bán hàng dùng mánh khoé các loại để thu lời kể cả bằng cách dùng cân các cỡ. Cân to để mua vào, cân nhỏ để bán ra. Dẫu viên chức nhà nước có đến thanh tra định kỳ vào mùa xuân, thì thủ đoạn đó vẫn tiếp tục. Còn cha lúc nào cũng dùng một chiếc cân, và tự nghĩ rằng mình là người công bình lắm rồi. Nay thấy con bán hàng như vậy, mới biết như cha vẫn là chưa đủ. Ấy vậy, con bán hàng vừa chạy vừa đảm bảo thu nhập cho gia đình. Đúng là ông Trời phù trợ cho con.”

Đến năm 80 tuổi, ông Lý Giác vẫn bán lương thực ở chợ. Bấy giờ có một người cũng tên là Lý Giác được bổ nhiệm là tiết độ sứ Hoài Giang. Ông Lý Giác bán hàng, vì nể trọng, nên đã đổi tên mình thành Lý Khoan (Li Kuan).

Tiết độ sứ Lý Giác từ ngày nhậm chức đã làm rất nhiều việc thiện cho dân: mở mang đường sá, trợ giúp người nghèo… Một hôm nằm mộng thấy đến một hang động hùng vĩ, và choáng ngợp trước phong cảnh đẹp đẽ với dòng suối đầy hoa thơm cỏ lạ, chim ca bướm lượn mây lành vờn quanh. Đi một chập, ông gặp bức tường đá khắc chữ vàng “Lý Giác”. Ông vui mừng quá đỗi và tự nhủ: Đời này mình làm nhiều việc thiện nên sau được lên cõi tiên. Chợt có hai tiên nữ bay qua, ông bèn hỏi, và được biết rằng đây là động trời Hoa Dương Động, và tên người khắc trên vách đá không phải là ông Lý Giác tiết độ sứ, mà là ông Lý Giác tại Dương Giang.

Tỉnh mộng, ông quyết định đi tìm xem ông Lý Giác tại Dương Giang là ai. Sau nhiều nỗ lực, ông được biết rằng nay ông Lý Giác kia đã đổi tên thành Lý Khoan, và ông ta đã trở thành người tu Đạo từ năm ông 60 tuổi. Ông bèn thân chinh đến thăm ông Lý Khoan tại nhà, mong cầu học hỏi thuật tu Đạo. Gặp mặt, ông Lý Khoan không nói về thuật tu Đạo, mà chỉ kể về cuộc đời bán hàng của mình. Câu chuyện làm ông Lý Giác hiểu ra, và tán thán: “Đời này ông đã làm điều mà người thường rất khó làm nổi. Với những gì tôi đã làm, cũng không thể sánh với đức mà ông đã tích được trong đời này”. Ông Lý Giác ngẫm nghĩ một lúc rồi nói tiếp: “Giờ tôi đã hiểu. Luật nhân quả là đúng. Một người dẫu nghèo nhưng biết tích đức, thì Trời cũng phù hộ độ trì, thậm chí đưa tên vào danh sách tiên. Cũng là một bài học giáo huấn cho con người thế gian”. Vì ông Lý Giác nhắc lại yêu cầu, nên ông Lý Khoan cũng truyền lại thuật tu Đạo và căn bản tu tâm dưỡng tính cho ông.

Ông Lý Khoan vẫn mạnh khoẻ dù đã ngoài 100 tuổi. Một hôm ông bảo con cháu rằng: “Ta ở đây đã lây rồi, và cũng không còn việc gì ở thêm nữa, dẫu rằng ngày nào ta cũng tu luyện”. Chẳng bao lâu sau ông qua đời vào nửa đêm. Ba ngày sau, người nhà nghe thấy tiếng rắc rắc trong quan tài. Họ mở ra và chỉ thấy quần áo ở lại, nhưng thân thể ông đã biến mất.

Đó là câu chuyện ông Lý Khoan tích đức cõi người, tu luyện thành Tiên và đã rời khỏi trần thế như thế nào. Có thể ông đã đến động trời Hoa Dương Động như ông Lý Giác đã từng nằm mộng thấy.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chuyện cậu bé mù xây cầu

[MINH HUỆ 6-3-2006] Ông Bao Chủng (999-1062) thời Nam Tống, còn gọi là ông Bao Thanh Thiên hay Bao Công, nổi danh là một vị quan thanh liêm mẫu mực và có tài xử án. Đưới đây là một trong rất nhiều câu chuyện được lưu truyền trong dân gian về ông.

Posted Image

Bao Công thiết diện vô tư, một vai quen thuộc trong tuồng dân gian

Thủa ấy ở một làng nọ có một cậu bé tàn tật chừng mươi tuổi, gẫy chân, sống một cuộc sống ăn xin nghèo khổ. Trước làng là một con suối lớn. Vì không có cầu, nên dân làng muốn qua suối là phải lội, rất bất tiện, nhất là đối với những người già vào mùa nước lũ. Nhiều năm đã qua đi như vậy, cho đến một hôm người ta thấy cậu bé ăn xin què quặt gom những tảng đá lớn về bên suối. “Cháu muốn xây cầu để mọi người đi lại thuận tiện”, cậu giải thích. Người làng cho đó là chuyện khôi hài của một cậu bé khùng nên không để ý đến.

Nhưng đống đá dần dần lớn lên qua tháng năm trở thành một cái gò, và dân làng bắt đầu hiểu ra. Nhiều người cũng góp thêm sức vào, chẳng mấy chốc đã đủ đá xây cầu. Rồi người ta thuê thợ xây dựng đến làm. Trong quá trình cùng làm, cậu bé bị mảnh đá bắn vào mắt và mù cả hai mắt. Người dân lấy làm thương cảm lắm. Nhưng cậu bé, mặc dù dã què lại thêm mù, vẫn không một lời ca thán và cố gắng trong khả năng của mình cùng góp sức xây cầu với dân làng.

Cuối cùng, sau những tháng ngày nhọc nhằn vất vả, cây cầu đã được xây xong. Dẫu không nhìn thấy gì, nhưng trên khuôn mặt của cậu hiện một nụ cười rạng rỡ.

Đột nhiên một tiếng sấm nổ vang dù trời quang mây tạnh. Và người ta thấy rằng cậu bé ăn mày đáng thương đã bị sét đánh chết ngay trên chiếc cầu mới xây.

Bấy giờ nhằm lúc Bao Công đi thị sát qua làng. Dân làng kéo gia kêu oan với Bao Công, rằng tại sao trời xanh lại hại người tốt. Trước câu chuyện quá thương tâm, và cảm thấy quá bất công, Bao Thanh Thiên chẳng cầm nổi lòng mình, bèn viết “宁行恶勿行善” (ninh hành ác vật hành thiện: thà làm điều ác còn hơn làm điều thiện).

Trở về kinh đô sau chuyến công du, Bao Công cảm thấy rất vướng mắc về việc này, nhất là về những gì ông đã viết trong lúc không dằn được lòng mình. Trong bản tấu trình, ông đã không báo cáo lên nhà Vua về sự kiện hy hữu đó.

Nhà Vua hôm ấy mời Bao Công đến chơi và dẫn Bao Công đến gặp hoàng tử mới ra đời trong lúc Bao Công đi thị sát ngoại tỉnh. Hoàng tử trông khôi ngô nhưng mắc tật khóc suốt ngày. Nhà Vua cũng muốn hỏi Bao Công xem có cách nào cho hoàng tử hết khóc. Bao Công thấy hoàng tử da dẻ trắng trẻo mịn màng, và trong lòng bàn tay dường như có một hàng chữ. Ghé mắt vào nhìn kỹ thì chính là “宁行恶勿行善”! Quá bất ngờ và xấu hổ, Bao Công lấy tay để xoá, và kỳ lạ thay, ông vừa vuốt qua thì dòng chữ biến mất. Hoàng tử nín khóc tức thì.

Nhà Vua rất đỗi ngạc nhiên, hỏi tại sao lại như thế. Bao Công sợ hãi quỳ xuống kể lại hết đầu đuôi câu chuyện, và xin Vua xá tội vì đã không báo cáo về chuyện này trong bản tâu trình. Vua bèn ra lệnh Bao Công phải điều tra cho rõ vụ việc.

Đêm ấy Bao Công ngả đầu lên chiếc gối “âm dương địa phủ” và lập tức trong mộng đi đến cõi âm gian. Diêm Vương kể cho ông rằng hoàng tử đó vào mấy đời trước từng làm việc đại gian ác, nên Thần đã an bài phải trả nghiệp ác ấy trong ba đời: đời thứ nhất què cụt, đời thứ hai mù loà, và đời thứ ba bị sét đánh chết. Nhưng khi què quặt xin ăn, cậu bé đã luôn vì người làm việt tốt, nên Thần đã rút lại thời gian trả nghiệp và khiến cậu bé ăn xin bị mù. Sau khi mù, cậu bé đã không những không oán thán ai hết mà vẫn luôn vì người làm điều thiện. Vì lý do ấy mà Thần đã an bài lại một lần nữa để cậu bé trả hết nghiệp trong một đời. Diêm Vương nói với Bao Công: “Một đời trả hết nghiệp thay cho ba đời, lại còn có phúc phận chuyển sinh làm hoàng tử.”

Share this post


Link to post
Share on other sites

Văn hóa Thần truyền: Tuyển dịch trong bộ sách “Viên thị thế phạm” (phần 1)

[MINH HUỆ 23-6-2007] Viên Thải, tự là Quân Tái, là người Tín An dưới triều đại nhà Tống (nay là Thường Sơn, Chiết Giang). Vào năm Long Hưng Nguyên niên đỗ tiến sỹ xếp thứ 3, làm quan đến chức Giám đăng văn kiểm viện. Từng nhậm chức huyện lệnh huyện Thanh Huyền, được nhiều người khen ngợi vì đức tính liêm minh và cương trực. Vào năm thứ 5 đời vua Tống Hiếu Tông (Kiền Đạo năm thứ 3) để giáo hóa dân chúng địa phương, chỉnh đốn lại phong tục thuần chính, dạy cho dân luân thường đạo lý, ông đã viết sách “Tục huấn” giảng dạy về đạo lý đối nhân xử thế. Sau này quyển sách được đổi tên thành “Thế phạm”, cũng gọi là “Viên thị thế phạm”, được lưu truyền rất rộng rãi, ảnh hưởng sâu rộng, trở thành sách giáo khoa vỡ lòng cho các trường học tư thục, được phần lớn các quan đại phu hết sức coi trọng. “Tứ khố toàn thư” cũng thu nạp sách này, xếp ngang hàng với bộ “Nhan thị gia huấn”. Giờ đây tuyển dịch trong đó một số bài, để chúng ta cùng lĩnh hội được Thần Vận – văn hóa Thần truyền trong việc kính Trời hiểu Mệnh, trọng lễ trọng Đức, hiểu rõ được đạo lý đối nhân xử thế của người xưa (ghi chú: tiêu đề là dịch giả thêm vào).

*Phú quý bần tiện đều cần được đối xử như nhau

Trên đời có một số kẻ không có kiến thức, không thể đối xử bình đẳng với bà con cô bác như nhau, lại căn cứ vào việc người ta phú quý bần tiện mà phân chia cấp bậc cao thấp. Nhìn thấy người có tiền có quan chức thì lễ phép cung kính. Tiền tài càng nhiều, quan chức càng to thì lại càng cung kính. Còn nhìn thấy người bần cùng hay là địa vị thấp hèn thì có thái độ ngạo mạn, coi thường, không thèm quan tâm giúp đỡ. Những kẻ này hoàn toàn chẳng biết rằng, người khác phú quý cũng không phải là quang vinh của chính mình, người khác bần tiện cũng không phải là nỗi sỉ nhục của bản thân, cần gì phải căn cứ xem người ta phú quý hay bần tiện mà thái độ đối đãi khác nhau! Những người có Đức hạnh, có kiến thức quyết không bao giờ làm như vậy.

*Phú quý hay bần tiện đều là do Mệnh Trời

Phẩm hạnh tốt xấu và quan chức cao thấp là hai việc hoàn toàn khác nhau. Không thể nói người có phẩm hạnh đoan chính thì nên được hưởng thụ phú quý vinh hoa, người phẩm hạnh không tốt, thì nhất định phải bị vận rủi. Nếu như vậy cả, thì Khổng Tử, Nhan Hồi đều nên được lên làm Tể tướng. Mà từ xưa đến nay Tể tướng và các quan lại thành đạt cũng không thiếu những kẻ tiểu nhân. Bồi dưỡng Đức hạnh của chính mình là việc mà chúng ta tự nhiên phải làm, không thể làm việc đó với mục đích mưu lợi nào cả, nếu không, một khi không đạt được mục đích, thì sẽ buông lỏng tu dưỡng Đức hạnh, khiến cho niềm tin ban đầu bị lung lay, từ đó trở thành hạng người tiểu nhân.

Hôm nay, thế gian có rất nhiều kẻ ngu xuẩn đang hưởng thụ phú quý, còn người có trí tuệ lại rất bần hàn. Đó đều là Thượng Thiên đã an bài như vậy, không cần phải truy tìm tận gốc nguyên do. Nếu hiểu được đạo lý này, giữ tâm thái bình thản, chẳng phải là loại bỏ được rất nhiều điều phiền não sao!

Văn hóa Thần truyền: Tuyển dịch trong bộ sách “Viên thị thế phạm” (phần 2)

[MINH HUỆ 25-6-2007]

*Thế sự vô thường chính là Ý Trời

Mọi chuyện trên đời biến hóa đa đoan, đó chính là Thiên ý. Thế nhân hiện nay thường thường thấy trước mắt có chút hưng vượng, thì tưởng rằng cuộc sống cả đời sẽ không cần phải lo buồn nữa. Không biết rằng những chuyện cửa nát nhà tan chỉ trong nháy mắt thật sự nhiều lắm. Nhìn chung Thiên Can 10 năm là 1 Giáp, mọi chuyện trên đời theo đó mà biến đổi. Bây giờ không cần nói chuyện quá khứ xa xôi, chỉ nói tình hình 10 năm trước so với bây giờ, sẽ phát hiện thấy thành, bại, thịnh, suy hoàn toàn không có một công thức nào cả. Người ta trên đời không biết nhìn xa, chỉ cần nhìn thấy người khác hưng vượng phát đạt hoặc là được một vài chuyện thuận tâm toại ý thì trong lòng sinh tâm ganh ghét, còn nhìn thấy người khác gia nghiệp suy bại hoặc có chút không thuận lợi thì chế nhạo họ. Những người cùng gia tộc hoặc đồng hương, rất dễ dàng bị tiêm nhiễm loại tâm bệnh này. Nếu biết được đạo lý rằng bất cứ việc gì cũng không cố định mà luôn đổi thay, như thế, lo lắng cho tương lai của chính mình còn không kịp, làm sao có thời giờ để mà ghen ghét người khác, cười nhạo người khác đây?

*Sống, chết, giàu, nghèo trong mệnh đã định sẵn

Người ta giàu sang là có định số. Chúa sáng thế đều đã định cho mỗi cá nhân một vận mệnh, nhưng cũng tạo cho con người những biến hóa khó lường thêm. Như vậy thúc đẩy con người vì quyền thế, tiền tài bận rộn ngược xuôi, mà con người đến chết thậm chí cũng không tỉnh ngộ. Nói rõ thêm ra, nếu không phải vì lợi ích mà bận rộn, như thế người trong thiên hạ đều không có chuyện gì đáng làm cả, mà Chúa sáng thế cũng không có biện pháp thúc đẩy mọi người chú tâm làm một việc gì. Thế nhưng, dù mọi người bận rộn ngược xuôi, nhưng chân chính đạt được vinh hoa phú quý chỉ có rất ít người. Những người bôn tẩu bận rộn suốt đời nhưng điều gì cũng không toại nguyện thì có đến hàng ngàn vạn.

Song, người ở trên đời có rất ít kẻ tranh giành được phú quý, còn những người khác thường phải bị lao tâm uổng sức. Có rất nhiều người tận đến lúc chết cũng không thành tựu được gì. Hoàn toàn chẳng biết rằng sự thành công của người ta cũng là trong Mệnh sớm đã định rồi. Nếu trong Mệnh đã định cho bạn được phú quý, cho dù không vất vả ngược xuôi mà bình thản chờ đợi, cuối cùng cũng sẽ được giàu sang. Cho nên ở trên đời những người có kiến thức cao, có thể khám phá hiểu thấu cõi Hồng trần, đều là tùy kỳ tự nhiên, trong lòng vô cùng bình tĩnh. Không có điều gì khiến họ ưu sầu hoặc là cao hứng, cũng không có điều gì đáng để cho họ phải oán giận. Vì ích lợi mà vất vả ngược xuôi hoặc cùng với người ta tranh đấu lẫn nhau, những thứ ý niệm đó không bao giờ nảy sinh trong tâm của họ. Như vậy có thể nảy sinh tranh chấp với người khác không? Các vị tiền bối nói: “Sinh tử phú quý của con người đều là trong mệnh đã định sẵn”. Đã định bạn là quý tộc thì chắc chắn bạn có thể trở thành quý tộc; trong mệnh đã định bạn là dân thường, bạn kiểu gì cũng vẫn là một thường dân. Câu nói này vô cùng chính xác mà lại đánh trúng chỗ yếu, chỉ là người thường đều không biết mà thôi.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Văn hóa Thần truyền: Tuyển dịch trong bộ sách “Viên thị thế phạm” (phần 3)

[MINH HUỆ 28-6-2007]

*Ngôn trung tín hành đốc kính

Lời nói cần phải trung tín, hành động tuân theo “Đốc”, “Kính”, đây là Thánh nhân dạy người ta phương pháp làm thế nào để có được sự kính trọng của mọi người.

Đại khái ở phương diện tiền tài vật chất, thì không làm những việc lợi mình hại người; trong tình cảnh nguy nan khốn khổ thì không làm những việc thuận lợi cho mình nhưng lại gây chướng ngại cho người khác. Đây chính là “Trung” mà mọi người thường nói đến. Một khi hứa hẹn với người ta, thì dẫu chỉ là việc nhỏ, cũng nhất định phải có kết quả; một khi ước định kỳ hạn, thì một khắc cũng không chậm trễ, đây chính là “Tín” mà người ta hằng nói đến.

Đối nhân xử thế nhiệt tình phúc hậu, nội tâm thành thật đôn hậu, đây chính là điều mọi người vẫn gọi là “Đốc” (chú thích: “Đốc” ý nghĩa là thành thật, phúc hậu, thuần chính). Lễ phép khiêm nhường cung kính, ngôn từ khiêm cung, người ta gọi ấy là “Kính”.

Nếu có thể làm được những đức tính này, không chỉ có thể được bà con kính trọng, mà làm việc gì cũng đều thuận lợi. Cung kính đối đãi người ta, bởi bản thân không tổn thất gì, người đời hoàn toàn có thể làm được. Thế nhưng bề ngoài đối xử người ta tốt lắm, nhưng trong lòng lại coi thường khinh miệt, đây là “Kính” nhưng không “Đốc”. Người quân tử xem những kẻ như thế ngang hàng với bọn tiểu nhân nịnh nọt ton hót, bà con lâu ngày cũng sẽ không còn kính trọng kẻ ấy nữa.

*Nghiêm khắc kiểm điểm bản thân, rộng lượng với người khác

Trung thành, giữ chữ Tín, phúc hậu, cung kính, những đức hạnh này đầu tiên bản thân phải có đủ, sau đó mới có thể hy vọng người khác cũng được như thế. Nếu chính mình chưa hoàn toàn đạt được những yêu cầu ấy, lại khắt khe yêu cầu người khác, người ta cũng sẽ từ đó trách cứ mình.

Hiện nay người có thể tự kiểm điểm bản thân xem có trung thành, giữ chữ tín, phúc hậu, cung kính hay không thực sự rất hiếm, mà yêu cầu khắt khe người khác thì lại rất nhiều. Kỳ thực, cho dù bản thân có được những đức hạnh ấy rồi, cũng không cần yêu cầu người khác phải làm được.

Bây giờ người có thể có được những đức hạnh này thì quả thật là tốt. Thế nhưng người ấy muốn kẻ khác cũng giống mình, nhất thời gặp chuyện không vừa lòng liền hung hăng quở trách người khác. Người như thế chắc chắn không có đức bao dung, rất dễ kết oán với người khác.

Người dịch chú thích:

Trong “Luận Ngữ” có ghi lại một câu chuyện cổ cũng trình bày về đạo lý này. Tử Hạ là học trò của Tử Trương xin thỉnh giáo làm thế nào để kết giao với người khác. Tử Trương giảng: “Quân tử tôn trọng người tài, cũng dung nạp người bình thường; khen thưởng người tốt, cũng thông cảm với những người có năng lực khác nhau. Nếu bản thân mình thực sự rất tốt, người nào lại không thể dung nạp ta? Nếu bản thân ta không tốt, người khác sẽ từ chối kết giao với ta, nói gì đến việc cự tuyệt người khác đây?”.

================================================================================

Văn hóa Thần truyền: Tuyển dịch trong bộ sách “Viên thị thế phạm” (phần 4)

[MINH HUỆ 29-6-2007]

*Thích ứng với mọi hoàn cảnh, thuận theo tự nhiên

Con người sống ở thế gian, từ lúc có tri giác, có kiến thức, thì đã gặp những chuyện không vừa ý và phiền muộn. Đứa trẻ nhỏ gào khóc, đều là bởi có những việc không vừa lòng nó. Từ khi còn nhỏ đến lúc thiếu niên, thanh niên rồi già cả, những việc thuận tâm như ý thì ít, còn những chuyện không như ý thường là rất nhiều. Cho dù những người giàu sang đến mấy, được người trong thiên hạ tất cả đều ngưỡng mộ, cho rằng người ấy có cuộc sống chẳng khác Thần tiên, nhưng từng người trong số họ cũng đều có những chuyện không vừa ý, chẳng khác gì quảng đại quần chúng. Có khác chăng, thì chỉ là những chuyện mà người ấy lo lắng không giống với người bình thường khác mà thôi. Cho nên thế giới này được người ta gọi là “Thế giới thiếu sót”. Con người sống trên đời không ai có thể ở đâu cũng được như ý, chuyện gì cũng được mỹ mãn. Có thể khắc sâu hiểu rõ đạo lý này, trong những lúc gặp phải những chuyện không hay có thể bình thản xử lý, thì trong lòng sẽ thấy nhẹ nhàng thông suốt.

*Biết chỗ chưa tốt của mình mà tu chỉnh

Đức hạnh con người, tính cách từ lúc sinh ra thì có nhiều thiếu sót. Người có học vấn và tu dưỡng biết những chỗ chưa tốt của bản thân, cho nên học tập và bù đắp, thế là dần trở thành một người có đức hạnh hoàn mỹ. Người bình thường không biết những chỗ dở của mình, lại bị những chỗ không tốt ấy chi phối trong hành động, tùy ý làm việc, cho nên tạo thành rất nhiều lỗi lầm.

Trong sách “Thượng thư” nói đến 9 loại đức tính là “Khoan, nhu, nguyện, loạn, nhiễu, trực, giản, cương, cường”. Những đức tính này là của Trời cho; còn “Lật, lập, cung, kính, nghị, ôn, liêm, tắc, nghĩa”, những đức tính ấy là thông qua học tập mà dưỡng thành. Đây chính là những Đức hạnh của Thánh hiền. Đời sau có một số người nóng nảy thì mang thắt lưng để tự nhắc nhở mình cần phải điềm tĩnh, cũng có một số người tính tình chậm chạp thì đeo dây cung để tự nhắc mình cần phải kiên quyết, cũng là xuất phát từ nguyên nhân ấy. Dù là như vậy, những người bình thường bản thân không cách nào biết được những chỗ dở của bản thân mình, cần phải thỉnh giáo người khác thì mới có thể biết được.

Share this post


Link to post
Share on other sites

<H1 class=myarticletext>Văn hóa Thần truyền: Tuyển dịch trong bộ sách “Viên thị thế phạm” (phần 5)</H1>

[MINH HUỆ 30-6-2007]

*Quên chỗ dở, nhớ chỗ hay của người ta

Trong tính cách phẩm hạnh của người ta, mặc dù có nhược điểm, cũng nhất định có ưu điểm. Kết giao với người khác, nếu thường chú trọng nhược điểm mà không nhìn thấy ưu điểm của họ, như thế khó có thể sống cùng họ dù chỉ một khắc. Ngược lại, nếu thường nghĩ đến điểm tốt của người ta, không so đo nhược điểm của họ, thì cả đời có thể hòa thuận với tất cả mọi người.

*Khinh mạn ghen ghét tự chuốc lấy nhục

Lúc đối nhân xử thế, nếu luôn mang tâm ngạo mạn, dối trá, tật đố, hoài nghi, như thế là tự mình làm cho người ta khinh miệt và sỉ nhục. Người quân tử Đức hạnh cao thượng sẽ không làm như thế.

Người có tâm ngạo mạn, thấy bản thân mình rõ ràng không như người ta, lại thích cợt nhả họ. Nhìn thấy người địa vị thấp hơn mình, cùng với những người cần mình, thì không chỉ trước mặt không tôn trọng, mà sau lưng còn thầm cười nhạo người ta. Người như thế nếu có thể tự kiểm điểm bản thân một lần, thì có thể xấu hổ đến mức toát mồ hôi đầm đìa.

Người mang tâm dối trá, ngôn từ mười phần uyển chuyển dễ nghe, bề ngoài đối với người khác rất phúc hậu, nhưng có thể trong lòng lại trái ngược hoàn toàn. Người như thế trong một thời gian ngắn ban đầu có thể được người ta tin tưởng ngưỡng mộ, nhưng cùng kẻ ấy giao tế qua lại đôi lần, bộ mặt thật của kẻ ấy sẽ lộ rõ hoàn toàn. Cuối cùng bị người ta khinh bỉ.

Người có tâm tật đố thường nghĩ rằng mình có địa vị cao hơn người khác, cho nên nghe thấy người khác được khen ngợi, thì tức giận bất bình, cho rằng lời khen ấy là sai lầm. Nghe người khác có chỗ nào không bằng người ta, thì cảm thấy vui mừng bật cười. Kỳ thực loại hành vi này chẳng có tác dụng gì đối với người khác, chỉ làm họ thêm oán giận mà thôi.

Người có tâm nghi ngờ, nghe người ta nói điều gì đó, có thể chỉ là thuận miệng nói một chút thôi, kẻ ấy lại cứ mãi nghĩ rằng: “Người này rốt cục cười nhạo ta chuyện gì? Kẻ nọ lại chế giễu ta việc gì đây?”. Người như thế thường là từ đó bắt đầu kết oán với người ta. Người có tài đức và kiến thức nghe người khác giễu cợt mình thì thường hoàn toàn chẳng để tâm, như thế không phải là giảm bớt rất nhiều điều phiền não sao!

================================================================================

==

<H1 class=myarticletext>Văn hóa Thần truyền: Tuyển dịch trong bộ sách “Viên thị thế phạm” (phần 6) </H1>

[MINH HUỆ 2-7-2007]

Không gì có thể thoát khỏi mắt Thần

Bây giờ có người làm chuyện xấu, may mắn không ai phát hiện ra, liền dương dương tự đắc, yên tâm thoải mái, chẳng kiêng dè gì. Hoàn toàn chẳng biết tai mắt của người khác có thể ẩn giấu, càng khó thoát khỏi tai mắt Thần linh. Hễ chúng ta làm việc trong lòng cho là tốt là hay, trong lòng cho rằng chính xác, người khác mặc dù không biết, Thần linh đều đã biết rồi. Chúng ta làm việc, trong lòng cho rằng không được, trong lòng cho rằng không đúng, người khác mặc dù không biết, Thần linh cũng đã biết rồi.

Làm ác trời phạt

Một người nếu làm chuyện xấu mà không thành công, thực ra không nên oán trời trách người, đây là Thượng Thiên yêu quý người ấy, Thượng Thiên khiến anh ta cuối cùng không gây họa. Nếu thấy người khác làm chuyện xấu thường vừa lòng như ý, cũng không nên sinh tâm thèm muốn. Đó chính là bởi Trời Cao đã vứt bỏ hắn rồi. Đến khi kẻ ấy tích lũy việc xấu đến mức thâm sâu thì cũng là lúc Thượng Thiên ra tay tiêu diệt. Không biểu hiện trên thân của kẻ ấy, cũng sẽ hoãn lại cho con cháu đời sau của kẻ ấy phải gánh chịu báo ứng. Tạm thời chờ đợi một thời gian, tự nhiên sẽ nhận thấy điều này.

Thiện ác chắc chắn có báo ứng

Có người làm việc xấu, bản thân rơi vào tội chết, nhưng con cháu người ấy lại cực kỳ thịnh vượng phát đạt, khiến mọi người thường cảm thấy kỳ quái, tưởng rằng luật Trời có sơ suất. Hoàn toàn chẳng biết trong gia đình những người như thế, tổ tiên đã tích lũy được nhiều phúc đức, ít tạo nghiệp, đã làm nhiều việc thiện việc tốt hơn việc xấu việc ác, cho nên trong nhà ấy kẻ làm ác bản thân chịu báo ứng là đủ rồi, không ảnh hưởng đến phúc phận của con cháu đời sau. Nếu một kẻ đã làm rất nhiều việc xấu ác mà sau đó vẫn hưởng thụ cuộc sống giàu sang an lạc, thì nhất định phúc đức mà tổ tiên truyền lại ấy sẽ sớm ngày khô kiệt, Trời Cao cũng không còn trân trọng thương tiếc và dung dưỡng kẻ ấy nữa, mà để cho việc ác của hắn tích lại càng ngày càng nhiều, đến mức thâm sâu, cuối cùng khiến kẻ đó bị tiêu hủy hoàn toàn.

Share this post


Link to post
Share on other sites

gl

Văn hóa Thần truyền: Tuyển dịch trong bộ sách “Viên thị thế phạm” (phần 7)

[MINH HUỆ 3-7-2007]

Ai cũng từng phạm sai lầm, có lỗi lầm thì cần phải sửa

Thánh hiền còn không thể không mắc lỗi lầm, huống chi người bình thường không phải là thánh hiền, làm sao có thể mỗi việc đều làm được toàn thiện toàn mỹ đây? Một người phạm sai lầm, không phải cha mẹ anh chị người ấy, thì ai chịu dạy bảo quở trách người ấy chứ? Không phải là bạn thân, thì ai chịu khuyên can chỉ bảo cho người ấy đây? Những người có quan hệ bình thường chỉ đàm tiếu chế nhạo sau lưng người ấy mà thôi.

Người quân tử đức hạnh cao thượng chỉ sợ bản thân có lỗi lầm, âm thầm quan sát những điều người khác nói về mình, nghe được những lời bàn luận ấy sẽ cảm tạ người ta, hơn nữa suy nghĩ để sửa chữa lỗi lầm. Kẻ tiểu nhân kém đức nghe người khác bàn luận về mình, liền muốn cưỡng ép người khác phải giải thích rõ, thậm chí cắt đứt quan hệ bạn bè, còn có người vì thế mà kiện tụng tới công đường.

Dịch giả chú dẫn: Trong sách “Luận Ngữ” có một thí dụ, so sánh lỗi lầm của con người với nhật thực và nguyệt thực. Nhật thực và nguyệt thực chỉ tạm thời, nhưng mọi người đều có thể thấy được. Đợi đến lúc nhật nguyệt chiếu sáng trở lại, mọi người vẫn có thể ngước mắt lên chiêm ngưỡng chúng giống như trước kia. Từ đó ví von với người trót phạm lỗi lầm khó tránh, nếu có thể kịp thời sửa chữa, như thế mọi người còn có thể tôn kính người ấy giống như trước đây. Khổng Tử giảng: “Làm sai mà không sửa, thì gọi là sai lầm vậy”. Người ta nếu có sai phạm mà không chịu sửa chữa, thì đó là lỗi lầm thực sự. Từ cổ chí kim, ta thấy những người có thành tựu lớn đều có thể “Nghe người khác kể ra lỗi lầm của mình thì vui sướng”, biết sai thì sửa. Còn những kẻ lấp liếm lỗi lầm, không biết hối cải phần lớn cuối cùng đều thất bại.

------------------------------------------------------------------------------------------------------

Văn hóa Thần truyền: Tuyển dịch trong bộ sách “Viên thị thế phạm” (phần 8)

[MINH HUỆ 8-7-2007]

Kiên trì chính kiến không sợ dư luận

Có người nói chuyện cực kỳ lương thiện và xác đáng, vẫn có kẻ khiển trách người ấy. Có người làm việc cực kỳ thỏa đáng, vẫn có người khiển trách anh ta. Đó chính là tâm tư mọi người khó có thể nhất trí, sự thảo luận của mọi người khó có thể đưa đến kết quả hoàn toàn thống nhất.

Người quân tử tu dưỡng đức hạnh nói chuyện làm việc nếu có thể căn cứ theo lương tâm của chính mình, tham khảo những lời di huấn của các bậc thánh hiền thời cổ đại, thỉnh giáo các vị nhân sỹ tài đức sáng suốt, như vậy làm việc không có thiếu sót về đạo lý, đối với những lời đàm luận nhốn nháo của người khác đều có thể không cần lo lắng suy nghĩ, cũng không cần tranh cãi với những người ấy.

Thánh hiền từ xưa tới nay, Tể Tướng đương thời, trước kia từng làm quan Thái thú hay Huyện lệnh, đều không thể tránh khỏi đàm tiếu của người khác, huống chi người bình thường giống như bình dân trăm họ, thì càng cần phải không sợ những lời đàm luận của người khác đối với mình.

Thông thường, nếu một người cứ mãi nói chuyện tốt xấu của người khác, thì nhất định là đố kỵ với người ta, hoặc là bình thường có hiềm khích với người ta, những người này nói chuyện làm sao có thể tin được đây? Đối với lời lẽ của những người này, cần phải không suy nghĩ không giải thích gì thêm thì mới đúng.

Những lời nịnh nọt đều là gian trá

Có một số người ở trước mặt xưng tụng chỗ tốt của ta, khiến cho ta thích nghe những lời đó mà không phát hiện ra rằng kẻ ấy đang a dua nịnh nọt mình. Đây là loại tiểu nhân trong loại người gian trá giảo hoạt bậc nhất. Kẻ đó trước mặt nịnh bợ làm ta vui vẻ, đến khi trở về đàm luận với người khác, chưa chắc sẽ không âm thầm cười nhạo ta đã bị kẻ đó lường gạt.

Có một số người giỏi phỏng đoán tâm ý người khác là gì, tìm ra đề tài đàm luận như thế, dẫn dắt người khác, đồng thời đón ý nói hùa theo tâm ý của người ta, khiến người ta vui vẻ nghĩ rằng lời nói của kẻ ấy thật phù hợp với mình. Đây cũng là hạng tiểu nhân trong loại người gian tà bậc nhất. Kẻ ấy nghiền ngẫm tâm ý của ta, làm ra vẻ tâm ý rất hợp nhau, đến lúc trở về nói chuyện với người khác, chưa chắc không thầm chế nhạo rằng tâm ý của ta đã bị kẻ ấy đoán trúng.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Văn hóa Thần truyền: Tuyển dịch trong bộ sách “Viên thị thế phạm” (phần 9)

[MINH HUỆ 10-7-2007]

Thường tự xét lại mình

Con người trong thế gian, có thể luôn luôn hối hận về những việc làm sai trái xưa kia của mình, hối hận về những câu nói sai trái của mình ngày trước, đối với những điều ngu muội của mình trong quá khứ cảm thấy xấu hổ mãi, như thế người ấy về phương diện đức hạnh và tài năng sẽ càng ngày càng tiến bộ. Người ta thường thường tự mình không nhận thức được điều này. Người xưa từng nói: tuổi đến 60, thì cần phải biết rõ những điều sai trái của bản thân trong 59 năm qua, chẳng lẽ chúng ta không thể lấy đó làm gương hay sao?

Nhẫn nại

Người ta nếu giỏi nhẫn nại, hơn nữa dần dần tạo thành thói quen, thì cho dù người khác làm điều vô lễ xúc phạm đến mức không thể chịu nổi đối với người ấy, người ấy vẫn có thể xử lý một cách bình thản như thường.

Người ta nếu không nhẫn nại được, cũng dần hình thành thói quen, cho dù người khác đối với kẻ ấy chỉ hơi quá đáng, căn bản chẳng có gì đáng tranh cãi, thì cũng luôn luôn dốc hết sức mà đi kiện tụng, chưa thắng kiện thì quyết không chịu bỏ qua. Nhưng người ấy không biết chính mình đã đánh mất đi rất nhiều so với những gì mà người ấy nhận được.

------------------------------------------------------------------------------------------------------

Văn hóa Thần truyền: Tuyển dịch trong bộ sách “Viên thị thế phạm” (phần 10)

[MINH HUỆ 12-7-2007]

Tuân theo Lễ, kiềm chế dục vọng

Ăn uống là một thứ ham muốn của con người, là không thể thiếu được, nếu truy cầu nó quá đáng thì chính là tham ăn. Việc nam nữ là một thứ dục vọng của con người, là không thể thiếu, nếu chọn dùng thủ đoạn không hợp lý để thỏa mãn, thì chính là gian dâm. Tiền của, ai cũng muốn có, là không thể thiếu, nhưng dùng thủ đoạn phi pháp để có được, vậy thì cũng thành ra đạo tặc.

Con người nếu chỉ phóng túng cho dục vọng của mình, sẽ gây nên tranh chấp, đồng thời không tránh khỏi kiện tụng. Những vị Thánh vương thời cổ đại đã từng suy nghĩ đến những vấn đề ấy, cho nên chế định thành lễ nghi, để tiết chế ham muốn ăn uống và quan hệ nam nữ; chế định ra đạo nghĩa, để hạn chế sự ham thích của con người đối với tiền của.

Người quân tử đối với 3 thứ: ẩm thực, nam nữ, tiền của ấy, mặc dù biết đó là những điều thiết yếu phải có, nhưng không dám biểu hiện ra ngoài, huống chi là để nảy sinh vọng tưởng đây! Kẻ tiểu nhân so với người quân tử thì trái ngược hoàn toàn.

Nhìn mà không thấy, không nghĩ đến và dứt bỏ ham muốn

Thánh nhân nói: “Không nhìn những thứ có thể khơi gợi dục vọng, trong lòng sẽ không cảm thấy mê loạn“. Đây là bí quyết để loại bỏ bớt rất nhiều phiền não. Thông thường, người ta thấy thức ăn ngon sẽ chảy nước miếng, thấy sắc đẹp sẽ ngắm nhìn say sưa, thấy tiền tài sẽ nổi lòng tham, nếu không phải là người có định lực thì đều khó tránh khỏi. Chỉ có hoàn toàn đoạn tuyệt những căn nguyên của tham dục, đối với chúng thì nhìn mà không thấy, sẽ không sinh ra vọng tưởng nữa, không có vọng tưởng sẽ không phạm sai lầm trong chuyện này.

Dịch giả chú dẫn: Cuộc đời người ta vì dục vọng vô cùng mà phẫn nộ, tranh đấu, thậm chí đến mức mất mạng, không hề biết rằng thân mình đang chìm trong bể khổ mênh mông. Ở đây xin giới thiệu bài thơ “Đạo trung” của Tiên sinh Lý Hồng Chí – người sáng lập Pháp Luân Đại Pháp, để cho chúng ta hiểu được tâm cảnh của những người tu luyện: thân thể ở tại thế gian, nhưng tâm hồn siêu xuất ngoài thế gian, ung dung tự tại và cao thượng tinh khiết.

Đạo trung

Tâm bất tại yên

Dữ thế vô tranh

Thị nhi bất kiến

Bất mê bất hoặc

Thính nhi bất văn

Nan loạn kỳ tâm

Thực nhi bất vị

Khẩu đoạn chấp trứ

Tố nhi bất cầu

Thường cư đạo trung

Tĩnh nhi bất tư

Huyền diệu khả kiến

Tạm dịch

Ở trong Đạo

Tâm không ở đây

Không tranh với đời

Nhìn mà không thấy

Sáng suốt không mê hoặc

Nghe mà không nghe thấy

Tâm khó rối loạn

Ăn không theo vị

Miệng hết chấp trước

Làm mà không cầu

Thường ở trong Đạo

Tĩnh không suy tư

Có thể thấy được điều huyền diệu.

(Hồng Ngâm I)

Share this post


Link to post
Share on other sites

<H1 class=myarticletext>Văn hóa Thần truyền: Tuyển dịch trong bộ sách “Viên thị thế phạm” (phần 11) </H1>

[MINH HUỆ 16-7-2007]

Cảm ơn báo đáp

Người bây giờ tiếp nhận ân huệ của người khác phần lớn không ghi nhớ trong lòng, nhưng nếu có ơn với người khác dù chỉ việc nhỏ không đáng kể, cũng muốn ghi tạc trong lòng. Người xưa nói: “Không nên nhớ kỹ ân huệ của mình đối với người khác, không nên quên mất ân huệ của người khác đối với mình“. Có thể làm được điều đó quả thật rất khó.

Không xem nhẹ ơn của người khác

Ở nhờ nhà bà con, hoặc ở nhờ bên ngoài, không thể dễ dàng tiếp nhận ân huệ của người ta. Trong khi ta không hiển đạt, được ân huệ của người ta, thường thường ghi tạc trong lòng, mỗi lần nhìn thấy người ban ơn cho ta, trong lòng đều rất kính nể. Mà người ấy cũng biết có ơn với mình, cho nên thường biểu hiện trên nét mặt. Đến lúc ta vinh diệu hiển đạt sau này, nếu muốn báo đáp tất cả những người có ơn với mình, sợ rằng cũng rất khó làm nổi, không báo đáp lại cảm giác không tròn đạo lý.

Bởi vậy, dù là một bữa cơm, một mảnh lụa, cũng không thể dễ dàng tiếp nhận. Tiền bối thấy có người làm quan thì tìm kiếm bạn tri âm, bèn bảo họ rằng: “Nhận nhiều ân huệ của người khác, thì rất khó đứng vững giữa triều đình“. Cần phải lĩnh hội cho tốt những lời này.

===============================================================================

<H1 class=myarticletext>Văn hóa Thần truyền: Tuyển dịch trong bộ sách “Viên thị thế phạm” (phần 12) </H1>[MINH HUỆ 24-7-2007]

Ăn nói chớ làm tổn thương người khác

Đối với người thân và bạn bè, bởi vì nói chuyện không thỏa đáng mà giao tình bị tan vỡ, chưa chắc đều là do xúc phạm người ta. Rất nhiều trường hợp là bởi vì thái độ, ngôn từ, giọng nói quá thô bạo, làm người khác nổi giận. Ví như khuyên can nhược điểm của người khác, mà lời nói ân cần ngay thẳng, lại vui vẻ hòa nhã, cho dù không được người ta lắng nghe thì cũng không đến mức làm người ta giận. Bình thường nói chuyện vốn không xúc phạm người khác, nhưng ngôn từ và giọng nói đều rất nghiêm khắc, cho dù không bị người ta giận dữ thì cũng sẽ khiến họ hoài nghi.

Cổ nhân nói: “Sau khi nổi giận ở trong nhà, khó tránh khỏi việc phải đem bộ mặt giận dữ ra ngoài”, chính là vì trong lúc người ấy tức giận thì chắc chắn không thể tỏ ra khiêm tốn trong khi nói chuyện với người ta. Người khác không biết là nguyên nhân gì, làm sao không thấy kỳ quái cho được! Bởi vậy cần phải cẩn thận khi nói chuyện với người khác trong khi đang giận dữ, đừng làm tổn thương người khác. Tiền bối từng nói: “Sau khi uống rượu thì hạn chế nói chuyện, lúc ăn cơm thì kỵ nóng giận, gắng nhẫn chịu những chuyện khó nhẫn nhịn, không tranh luận với những kẻ tự cho mình là đúng”. Thường xuyên kiên trì làm như thế sẽ có lợi cho bản thân.

Tài Đức có thể làm người khác tâm phục

Người có phẩm hạnh cao thượng tự nhiên sẽ được người khác kính trọng, không phụ thuộc vào việc người ấy dung mạo đẹp đẽ bao nhiêu, vóc người cao lớn bao nhiêu. Những người có tài năng cao siêu sẽ được người khác kính phục, không phụ thuộc vào việc những lời bàn luận của người ấy cao minh ra sao.

(Hết)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Những câu chuyện chưa kể trong lịch sử:Lão Tử, Khổng Tử và Thích Ca Mâu Ni

Bài của Bất Danh

[CHÁNH KIẾN 7-5-2006] Sau khi thời Xuân Thu đã đi qua được 2500 năm, ngoại trừ Phật gia không có học phái nào có thể ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa Trung Hoa bằng Nho gia và Đạo gia. Bởi vậy, ông tổ của 3 gia phái này là Thích Ca Mâu Ni, Khổng Tử và Lão Tử được người đời sau ngưỡng mộ và sùng bái.

Thật trùng hợp ở chỗ, ngày tháng 3 vị ấy ra đời chênh nhau không quá 20 năm. Theo góc nhìn lịch sử, thì 3 vị ấy là người của cùng một thời đại. Năm 571 Trước công nguyên, ngày 15 tháng 2 Lão Tử giáng sinh tại nước Sở, huyện Khổ (nay là huyện Lộc Ấp, Hà Nam). 5 năm sau, ngày 8 tháng 4 năm 566 Trước công nguyên Thích Ca Mâu Ni giáng sinh ở Kim Ni Bạc Nhĩ. 15 năm sau, vào ngày 27 tháng 8 năm 551 Trước công nguyên, Khổng Tử ra đời tại Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông.

3 vị Thánh giả giáng sinh vào cùng một thời đại, ấy là sự trùng hợp của lịch sử hay là Ý Trời đã an bài như vậy?

Lão Tử

“Lão Tử” tên thật là Lý Nhĩ, tên tự là Bá Dương. “Lão” là ý gọi người tuổi cao Đức lớn. “Tử” là cách gọi bày tỏ lòng tôn kính đối với người khác. Tương truyền Lão Tử bẩm sinh có khí chất phi phàm, am hiểu chuyện xưa, giỏi việc lễ chế, từng đảm nhiệm chức quan “Thủ tàng thất sử” (tương đương với giám đốc thư viện quốc gia hoặc là giám đốc viện bảo tàng quốc gia) và chức Trụ hạ sử (tương đương với chức quan Ngự sử thời Tần, Hán). Lão Tử ở lại Lạc Dương nước Chu thật lâu, thấy rõ sự suy sụp của nhà Chu. Năm 500 trước công nguyên, trong hoàng tộc nhà Chu phát sinh cuộc nội chiến tranh giành ngôi vị, Lão Tử bị liên lụy và bị bãi quan. Lão Tử cảm thấy nhân thế hiểm ác, bèn rời đi. Ông lưu lạc khắp 4 phương trời nhưng không để ai biết danh tính của mình.

Ngày 1 tháng 9 năm 478 trước công nguyên, Lão Tử 93 tuổi đi về nước Tần. Lúc đi qua cửa Hàm Cốc, quan Lệnh tên là Doãn Hỷ ở đó xem bói đã biết trước là sẽ có một Thần nhân đi qua đây, bèn sai người quét dọn sạch sẽ 40 dặm đường để nghênh đón. Quả nhiên Lão Tử tới. Doãn Hỷ nói: “Tiên sinh Ngài muốn ẩn cư, sau này không còn được nghe Ngài dạy bảo nữa, kính xin tiên sinh viết sách để truyền lại cho hậu thế!”. Lão Tử tại Trung Nguyên chưa từng truyền thụ lại điều gì. Ông biết Doãn Hỷ trong mệnh đã định là sẽ đắc Đạo, bèn tạm dừng lại nơi này một thời gian ngắn, viết lại cuốn sách nổi tiếng ngàn đời: “Đạo Đức kinh”. Sau đó, Lão Tử ra khỏi cửa Hàm Cốc đi về phía Tây, vượt qua vùng Lưu Sa… Lưu Sa là chỉ vùng sa mạc lớn ở Tân Cương. Không ai biết cuối cùng ông đã đi về nơi đâu.

Khổng Tử từng đến kinh đô nước Chu, thỉnh giáo Lão Tử về Lễ chế. Một ngày, Khổng Tử cưỡi một chiếc xe cũ do trâu kéo, lắc la lắc lư tiến vào thành Lạc Dương – kinh đô của nước Chu. Ông đi lần này mục đích là để tham quan “Các nguyên tắc trị nước mà các vị Tiên vương đã dùng”, khảo sát “Nguồn gốc của Lễ Nhạc”, học tập “Các quy phạm đạo đức”, bởi vậy việc ông tới viếng thăm Lão Tử, vị quan tinh thông chế độ Lễ nghi và quản lý thư viện hoàng gia, ấy là an bài tối quan trọng [của Thiên thượng]. Khổng Tử sau khi hoàn thành việc khảo sát lần đó, đã nói một câu lưu truyền đời sau rằng: “Trong số rất nhiều học thuyết trên đời, ta chọn theo [học thuyết của] nhà Chu”. Chế độ Lễ nghi thời đại nhà Chu là phỏng theo Lễ chế thời đại nhà Hạ và nhà Thương làm cơ sở mà đặt định ra, và Khổng Tử chủ trương sử dụng Lễ chế của thời đại nhà Chu. Có thể thấy chuyến đi lần ấy của ông thu được ích lợi không hề nhỏ.

Khổng Tử bái kiến Lão Tử. Lão Tử hỏi Khổng Tử đọc sách gì, ông trả lời là đọc “Chu Dịch”, và Thánh nhân đều đọc sách này. Lão tử nói: “Thánh nhân đọc sách này thì được, còn ông vì sao cần phải đọc nó? Tinh hoa của quyển sách này là gì?”.

Khổng Tử trả lời: “Tinh hoa của nó là tuyên dương Nhân Nghĩa“.

Lão Tử nói: “Cái gọi là nhân nghĩa, đó là một thứ mê hoặc lòng người, giống như như muỗi rận ban đêm cắn người, chỉ có thể làm người ta thêm hỗn loạn và phiền não mà thôi. Ông xem, con chim Thiên nga kia không cần tắm rửa mà lông vũ tự nhiên vẫn trắng như tuyết, Quạ đen hàng ngày không nhuộm lông mà tự nhiên vẫn đen. Trời vốn là cao, đất vốn là dày, mặt trời mặt trăng từ trước tới nay đã phát ra ánh sáng rực rỡ, tinh thần từ trước tới nay chính là đã được an bài có trật tự, cây cỏ từ lúc sinh ra thì đã khác nhau. Nếu như ông tu Đạo, vậy cũng thuận theo quy luật tồn tại của tự nhiên, tự nhiên là có thể đắc Đạo. Tuyên dương những thứ nhân nghĩa để làm gì đây? Chẳng phải điều đó cũng đáng tức cười như việc vừa đánh trống vừa đi tìm một con dê thất lạc hay sao?”

Lão Tử lại hỏi Khổng Tử: “Ông cho rằng tự mình đắc Đạo rồi chưa?”.

Khổng Tử nói: “Tôi đã tìm cầu 27 năm rồi, vẫn chưa đắc được”.

Lão Tử nói: “Nếu như Đạo là một thứ hữu hình có thể tìm kiếm và dâng hiến cho con người, thì người ta sẽ tranh giành nó đem dâng tặng cho quân vương. Nếu như Đạo có thể đem tặng cho người khác, thì người ta sẽ đem tặng nó cho người thân. Nếu như Đạo có thể giảng rõ ra được, người ta sẽ đem nó giảng giải cho anh em của mình. Nếu như Đạo có thể truyền thụ cho người khác, thì người ta đều sẽ tranh nhau truyền nó cho con cái mình. Song những chuyện như thế là không thể được. Nguyên nhất rất đơn giản, Đạo ấy chính là thứ mà một người bình thường không thể nhận thức một cách chính xác được, Đạo tuyệt đối sẽ không thể nhập vào tâm của người thường được”.

Khổng Tử nói: “Tôi nghiên cứu ‘Thi Kinh’, ‘Thượng Thư’, ‘Lễ’, ‘Nhạc’, ‘Dịch’, ‘Xuân Thu’, giảng nói đạo lý trị quốc của các vị tiên vương, hiểu rõ con đường thành công của Chu Công, Triệu Công. Tôi đã lấy đó để bái kiến 70 quân vương, nhưng họ đều không chọn dùng chủ trương của tôi. Xem ra người ta thật là khó thuyết phục được!”.

Lão Tử nói: “Ông nói ‘Lục Nghệ’ ấy tất cả đều là những thứ xưa cũ của thời đại các tiên vương, ông nói những thứ đó để làm gì đây? Thành tựu tu học mà ông đạt được hôm nay cũng đều là những thứ xưa cũ rồi”.

Khổng Tử thỉnh giáo xong Lễ chế nhà Chu, liền quyết tâm trở về nước Lỗ khôi phục lại nguyên xi Lễ nghi của nhà Chu. Lão Tử đối với việc này vẫn bảo lưu ý kiến. Bởi vì Lễ tuy là cần phải có, nhưng muốn khôi phục toàn diện Lễ nghi nhà Chu, e rằng không thể làm được. Thời thế thay đổi, chút Lễ nghi nhà Chu ấy cũng không thích hợp với tình huống đương thời nữa. Vì vậy Lão Tử nói với Khổng Tử: “Ông theo lời những người đó, xương cốt của họ đều đã mục nát cả rồi, chỉ là những lời bàn luận của họ là còn tồn tại mà thôi. Hơn nữa quân tử gặp được thời cơ chính trị 1 thì liền theo chính, thời cơ không thích hợp thì cũng như cây cỏ bồng kia gặp sao yên vậy. Tôi nghe nói: Người giỏi kinh doanh đem cất giấu của cải hàng hóa, không cho người thác trông thấy, mặc dù giàu có nhưng dường như cái gì cũng không có. Người quân tử Đức cao thường bề ngoài cũng giống như người ngu độn, không để lộ chân tướng ra ngoài. Ông cần phải vứt bỏ tâm kiêu ngạo và dục vọng, vứt bỏ tâm thái và thần sắc mà ông đang có kia đi, vứt bỏ chí hướng quá truy cầu kia đi, bởi vì những thứ này đối với ông chẳng có chỗ nào tốt cả. Đó chính là những gì mà tôi muốn cho ông biết”.

Khổng Tử không biết nên trả lời ra sao, nhưng vẫn không buông bỏ chí hướng của mình: Đại trượng phu “biết rõ những việc không thể làm mà vẫn làm”. Tham quan xong các địa phương khác, Khổng Tử cáo từ Lão Tử, mang theo trong lòng những nỗi niềm phấn khởi xen lẫn với thất vọng mà rời kinh đô Lạc Dương của nhà Chu. Phấn khởi là vì học hỏi lễ giáo đã thành công, thất vọng là vì những lời khuyến cáo của Lão Tử. Phía sau lưng ông, một bia đá được dựng lên ghi lại mấy chữ: “Khổng Tử đến đất Chu học hỏi lễ nghi”.

Khổng Tử trở về, 3 ngày không nói chuyện. Tử Cống thấy kỳ lạ, bèn hỏi thầy chuyện là thế nào. Khổng Tử nói: “Chim, ta biết nó có thể bay; cá, ta biết nó có thể bơi; thú, ta biết nó có thể chạy. Có thể chạy thì ta có thể dùng lưới giăng bắt nó, có thể bơi thì ta có thể dùng dây tơ mà câu, có thể bay thì ta có thể dùng cung tên bắn được nó. Còn như con rồng, ta không biết nó làm sao có thể lợi dụng sức gió mà bay tới tận trời cao. Ta hôm nay gặp mặt Lão Tử, ông ấy cũng như con rồng kia thâm sâu không thể đo lường nổi!”.

Đó chính là sự khác nhau cơ bản giữa một Giác Giả độ nhân và một nhà tư tưởng của nhân gian. Cái gọi là “Đạo bất đồng bất tương vi mưu” (Tạm dịch: không cùng một trình độ tu Đạo thì tâm cảnh cũng khác nhau xa), chính là tình huống như thế này. Đạo lý của Lão Tử vi diệu khó có thể hiểu nổi, bởi vì ấy là lời giáo huấn của Thần. Lời của Khổng Tử chẳng qua chỉ là học vấn của con người, là quy phạm đạo đức và hành vi của loài người mà thôi.

Khổng Tử

Khổng Tử tên thật là Khổng Khâu, tên tự là Trọng Ni, sinh vào nước Lỗ năm 551 trước công nguyên.

Khi lớn lên, Khổng Tử từng làm một chức quan nhỏ chuyên quản lý kho tàng, xuất nạp tiền lương công bằng chuẩn xác. Ông cũng từng đảm nhiệm chức quan nhỏ chuyên quản lý nông trường chăn nuôi, súc vật sinh trưởng rất tốt. Nhờ vậy ông được thăng chức lên làm quan Tư không, chuyên quản lý việc xây dựng công trình. Khổng Tử thân cao 9 xích 6 tấc (xích là đơn vị đo lường cổ Trung Hoa = 1/3 mét), mọi người đều gọi ông là “Người cao lớn”, cho rằng ông là người phi thường.

Sau khi Khổng Tử tới đất Chu học hỏi Lễ nghi trở về lại nước Lỗ, các học trò theo ông học tập dần dần đông lên. Có thể nói Khổng Tử là người thầy tư nhân chuyên thu nhận học trò đầu tiên trong lịch sử giáo dục Trung Quốc. Trước thời ông, trường học hoàn toàn là của nhà nước. Khổng Tử sáng lập ra trường học tư, thu nhận nhiều đồ đệ, đưa giáo dục mở rộng cho bình dân, đem tri thức văn hóa truyền bá cho dân gian, có cống hiến thật to lớn đối với giáo dục thời cổ đại.

Lúc Khổng Tử 35 tuổi tới nước Tề. Tề Cảnh Công thỉnh giáo Khổng Tử về đạo trị nước. Khổng Tử nói: “Quân vương cần phải có phong thái của quân vương, bề tôi cần phải có phong thái của bề tôi, cha cần có phong thái của người cha, con cần có phong thái của con”. Cảnh Công nghe xong nói: “Cực kỳ đúng! Nếu quân vương không ra quân vương, bề tôi không ra bề tôi, cha không ra cha, con không ra con, thì cho dù có rất nhiều lương thực, ta làm sao có thể ăn được đây!”. Ngày khác Cảnh Công lại thỉnh giáo Khổng Tử về Đạo lý trị quốc, Khổng Tử nói: “Quản lý quốc gia cần nhất là tiết kiệm chi tiêu, ngăn chặn lãng phí từ gốc rễ”. Cảnh Công nghe xong rất phấn khởi, định đem đất Ni Khê phong thưởng cho Khổng Tử.

Yến Anh khuyên can nói: “Loại nhà Nho này, có thể nói đạo lý, không thể dùng pháp luật mà ràng buộc được họ. Họ cao ngạo tùy hứng, tự cho mình là đúng. Họ coi trọng tang lễ, dốc hết tình cảm bi thương, an táng trọng thể mà không ngại bị khuynh gia bại sản. Họ đi khắp nơi du thuyết, cầu xin quan lộc. Bởi vậy không thể dùng họ để quản lý quốc gia được. Hiện nay Khổng Tử nói về dung mạo phục sức, đặt định lễ tiết thượng triều hạ triều rườm rà, chính là mấy đời người cũng học tập không xong được, cả đời cũng làm không được thông. Nếu Ngài muốn đem bộ những thứ này để thay đổi phong tục của nước Tề, e rằng không phải là biện pháp tốt để dẫn dắt trăm họ”.

Yến Anh khuyên can có hiệu quả. Sau đó Tề Cảnh Công tiếp đãi Khổng Tử rất có lễ độ, nhưng không còn hỏi về những vấn đề có liên quan đến Lễ nữa. Trong số các quan đại phu nước Tề có người muốn mưu hại Khổng Tử. Cảnh Công nói với Khổng Tử: “Ta đã già rồi, không thể bổ nhiệm quan tước cho ông được nữa”. Thế là Khổng Tử rời Tề trở về Lỗ.

Tại nước Lỗ, Khổng Tử tuy về mặt chính trị có rất nhiều thành tích, cũng từng làm một vài chuyện lớn, nhưng con đường làm quan không hề trôi chảy. Có lần nhà Vua chủ trì một đại lễ tế Trời, quan đại phu Tam Hoàn cố tình không chia cho ông một khối thịt tế nào. Đó là loại hình phạt nghiêm khắc nhất trong Chế độ Lễ nghi của nhà Chu. Khổng Tử biết con đường làm quan của mình không có hy vọng gì, bèn rời quê nhà đi dạy học bốn phương trời, tuyên truyền những chủ trương chính trị của mình.

Lúc đó Khổng Tử khoảng chừng 50 tuổi. Ông không nề hà khổ nhọc, dùng 13 năm để dẫn dắt học trò chu du các nước, đi du thuyết khắp nơi. Nhưng các nước đều không chấp thuận chủ trương của ông. Năm 63 tuổi, Khổng Tử trở lại nước Lỗ. Cuối cùng nước Lỗ cũng không trọng dụng Khổng Tử, mà Khổng Tử cũng không muốn ra làm quan nữa.

Tuy là một người tuổi đã gần đất xa trời, nhưng ngọn lửa tư tưởng trong 9 năm cuối đời đã phát huy được thành tựu rực rỡ. Khổng Tử dốc lòng thu nhận học trò, biên soạn điển tịch, tạo thành một hệ thống tư tưởng Nho học trong 9 năm cuối đời mình.

Thời đại Khổng Tử, nhà Chu đã suy, Lễ nhạc đã phôi pha, ‘Thi’, ‘Thư’ cũng không còn toàn vẹn nữa. Khổng Tử tìm tòi nghiên cứu chế độ lễ nghi của 3 thời đại Hạ, Thương, Tây Chu, biên định “Thượng thư”, “Lễ ký”. Khổng Tử sau khi từ nước Vệ trở về nước Lỗ, thì bắt đầu đính chính lại Thi Nhạc, khiến cho “Nhã”, “Tụng” đều khôi phục lại được nhạc điệu ban đầu. “Kinh Thi” vốn có 3000 bài được truyền lại từ thời cổ đại. Đến thời Khổng Tử, ông cắt bỏ những chỗ trùng lặp, lựa chọn trong đó những bài phù hợp cho việc dạy bảo Lễ Nghĩa.

Lúc về già Khổng Tử thích nghiên cứu “Chu Dịch”. Ông giải thích về “Thoán từ”, “Hào từ”, “Quái”, “Văn ngôn”. Khổng Tử đọc Chu Dịch rất siêng năng, đến nỗi sợi dây da trâu buộc sách đã nhiều lần bị mòn đứt. Ông nói: “Để ta sống lâu thêm vài năm nữa, ta có thể nắm vững và giải thích rõ ràng nội dung và đạo lý trong từng câu văn của “Chu Dịch”".

Khổng Tử nói: “Quân tử lo lắng nhất chính là sau khi chết không lưu lại được tiếng thơm. Chủ trương của ta không thể thực thi, ta lấy gì để cống hiến cho xã hội và lưu danh hậu thế đây?”. Bèn căn cứ vào các sách lịch sử của nước Lỗ biên soạn ra bộ “Xuân Thu”, trên từ năm Lỗ Ân Công đầu tiên (722 TCN) xuống tới năm Lỗ Ai Công thứ 14 (481 TCN), tổng cộng 12 đời vua nước Lỗ. Lấy nước Lỗ làm trung tâm để biên soạn, tôn thờ Hoàng tộc nhà Chu làm chính thống, lấy sự tích Ân Thương làm tham khảo, mở rộng và phát triển truyền thống các thời đại từ đời Hạ, Thương, Chu, lời văn súc tích uyên thâm.

Cuối cùng Khổng Tử biên soạn xong “Lục Nghệ” là Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân thu. Khổng Tử dùng Thi, Thư, Lễ, Nhạc làm tài liệu giảng dạy học trò, đến học có ước chừng tới 3000 đệ tử, trong đó hiền nhân quân tử có 72 người. Chưa kể nhiều học trò chưa chính thức nhập tịch ở khắp nơi nữa.

Lúc Khổng Tử lâm bệnh, Tử Cống đến thăm viếng thầy. Khổng Tử thở dài, nói ngay: “Thái Sơn sắp đổ rồi, rường cột sắp gãy rồi, người trí tuệ sắp chết rồi!”. Nước mắt chảy dài, nói với Tử Cống: “Thiên hạ từ lâu đã mất đi đạo lý thông thường, không có ai tiếp nhận chủ trương của ta cả …”. 7 ngày sau Khổng Tử qua đời, hưởng thọ 73 tuổi, nhằm vào ngày Kỷ Sửu, tháng 4 năm 479 trước công nguyên.

Sách “Luận Ngữ” chính là do đệ tử của Khổng Tử căn cứ theo lời nói và việc làm của ông mà biên soạn thành. Đó là tư liệu trực tiếp nhất để cho chúng ta hôm nay hiểu biết về Khổng Tử. Khổng Tử cho người ta biết thế nào là “Trung dung”, vì đời sau mà đặt định ra quy phạm làm người theo “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín”. Ảnh hưởng của ông đối với văn hóa Trung Quốc và cả vùng Đông Nam Á là rất to lớn.

Tư Mã Thiên nói: “Trong kinh “Thi” có câu nói như thế này: “Cái giống như núi cao khiến người ta chiêm ngưỡng, cái giống như đại Đạo khiến người ta tuân theo”. Từ xưa tới nay trong thiên hạ, Quân Vương và người tài đức thì có cũng nhiều. Họ khi đang còn sống đều vinh hoa quý hiển, nhưng chết đi rồi thì chẳng còn lại chút gì. Khổng Tử là một người bình dân, nhưng những người đọc sách đều tôn ông làm thầy. Từ Thiên tử, Vương Hầu đến nhân dân cả nước, những ai nói về “Lục Nghệ” thì đều xem học thuyết ấy của Khổng Tử là chuẩn tắc cao nhất. Có thể nói Khổng Tử là một Thánh nhân chí cao vô thượng”.

Tư Mã Thiên đã đánh giá rất đúng.

Thích Ca Mâu Ni

Trong lúc Đại Đạo Trung Quốc đang được lưu truyền tại mảnh đất Thần Châu, thì đồng thời tại Ấn Độ – cũng là quốc gia có nền văn minh lâu đời tại phương Đông – Phật Pháp mà Thích Ca Mâu Ni đã được truyền rộng.

Thích Ca Mâu Ni giáng sinh tại Kapilavastu (Ca tỳ La vệ), một đất nước tại vùng đất Ấn Độ xưa kia. Mẹ của ông là Hoàng hậu Mayadevi (hoàng hậu Ma Da) sinh hạ ông tại Lumbini (nằm ở Nam Nepal ngày nay) trên đường trở về nhà mẹ đẻ của bà. Người ta đồn rằng khi Thích Ca Mâu Ni giáng sinh, liền bước đi 7 bước, mỗi bước đi sinh ra một đóa hoa sen. Một tay chỉ lên trời, một tay trỏ xuống đất ông nói “Phía dưới Thiên Đàng và bên trên mặt đất, chỉ có ta là nhất”. Đây thực ra là chuyện đơm đặt của hậu thế. Trong vũ trụ này, có vô số Thần Phật của vô số Thiên Đàng, có ai dám kiêu căng khoác lác như thế không? Thích Ca Mâu Ni không bao giờ làm như vậy. Câu chuyện này thực sự chỉ là kết quả của những tình cảm tôn giáo cuồng tín của người đời sau mà thôi. Một vị Phật chỉ muốn người đời tu luyện theo lời dạy bảo của họ, chứ không muốn người ta dựng chuyện lên để mà tâng bốc.

Thích Ca Mâu Ni từ thuở nhỏ đã có tấm lòng từ bi thương xót chúng sinh và luôn đi tìm ý nghĩa chân chính của đời người. Năm ông 19 tuổi, Thích Ca Mâu Ni rời bỏ ngai vàng, rời khỏi hoàng cung đi tu luyện. Ấn Độ thời bấy giờ có đủ loại tông phái và đường lối tu luyện khác nhau. Đầu tiên Thích Ca Mâu Ni tu theo pháp “vô tưởng định” (Samadi) 3 năm và cuối cùng đã đạt tới cảnh giới này. Nhưng ông cho rằng đó không phải là Đạo, không phải là chân lý tột cùng, cho nên ông từ bỏ nó. Sau đó ông lại tu theo “Phi tưởng – phi phi tưởng định” 3 năm, thành công rồi nhưng ông thấy rằng đó cũng không phải là Đạo, nên cũng từ bỏ. 2 lần, Thích Ca Mâu Ni từ bỏ những điều mà ông biết chắc ấy không phải là Đạo. Ông không thể tìm thấy một vị chân sư nào cả, cho nên ông tự mình tới một ngọn núi băng giá phủ đầy tuyết trắng để tu hành khổ hạnh. Mỗi ngày ông chỉ ăn một ít hoa quả khô và chịu đói đến mức toàn thân khô héo. Ông khổ tu như vậy để tìm chân lý. Nhưng 6 năm trôi qua, ông nhận ra rằng khổ hạnh cũng không phải là Đạo, bèn xuống núi.

Thích Ca Mâu Ni đi tới bờ sông Hằng. Vì quá gầy yếu xanh xao, ông ngã xuống hôn mê bất tỉnh. Một người phụ nữ làm nghề chăn dê tình cờ đi qua, và cho ông một ít váng sữa. Thích Ca Mâu Ni ăn và phục hồi sức lực. Nhưng ông không có cách nào tìm thấy một vị chân sư có thể hướng dẫn cho mình, nên ông vượt qua sông Hằng, tới dưới một tán cây Bồ Đề, ngồi xuống và thiền định. Ông thề rằng nếu không trở thành một bậc “Vô thượng chính đẳng chính giác” thì ông thà chết tại nơi này.

Thích Ca Mâu Ni thiền định dưới tán cây Bồ Đề ấy trong 49 ngày. Buổi sáng ngày thứ 49, ông ngẩng đầu lên nhìn trời, và nhìn thấy được những ngôi sao sáng trên bầu trời. Cũng trong một cái nhìn ấy, thần thông và các quyền năng siêu phàm của ông lập tức nổ tung, và tư tưởng của ông khai mở. Ông lập tức nhớ lại mọi điều mà ông đã từng tu luyện trước kia, hiểu được kiếp sống hiện tại và nhiều kiếp trước của mình, và tất cả những điều khác nữa mà ông cần phải biết sau khi khai ngộ. Bởi vì năng lượng phóng ra trong quá trình khai công khai ngộ, một chấn động lớn xuất hiện trong phạm vi địa lý rộng lớn xung quanh ông. Người ta cho rằng ấy là một trận động đất nhẹ, núi đổ hay sóng thần, nhưng thực ra đó là do sự khai ngộ của Thích Ca Mâu Ni. Đương nhiên năng lượng của Phật là từ bi và không làm hại ai cả. Sau 12 năm tu luyện vô cùng gian khổ, Thích Ca Mâu Ni rốt cuộc đã ngộ Đạo. Sau đó, Phật Thích Ca Mâu Ni liền bắt đầu cuộc đời truyền Pháp 49 năm của mình.

Đặc điểm của pháp môn tu luyện mà Thích Ca Mâu Ni truyền dạy là Giới, Định, Huệ. Giới chính là cấm tất cả dục vọng và tâm cố chấp, định là nói về người nhập định tu hành, huệ là nói về người khai ngộ khai huệ. Đại tạng kinh có mấy vạn quyển, đều không lìa xa 3 chữ này. Đương nhiên, hình thức biểu hiện của nó rất phong phú phức tạp, nhưng thực chất chính là 3 chữ này.

“Mọi người đều biết rằng Bà La Môn giáo là Thích Ca Mâu Ni phản đối nhiều nhất. Ông cho rằng [nó] là một tà giáo, nó cùng với Phật Giáo của Thích Ca Mâu Ni là đối lập [với nhau] nhất. Kỳ thực tôi cho chư vị biết rằng: Thích Ca Mâu Ni chống đối Bà La Môn giáo chứ không phải chống đối Thần của Bà La Môn giáo. Thần mà Bà La Môn giáo tin theo vào thời kỳ nguyên thủy nhất đều là Phật, [họ] tin theo chính là các vị Phật trước thời Thích Ca Mâu Ni. Nhưng qua thời gian quá lâu dài, con người không còn tin Phật nữa, khiến cho tôn giáo này trở thành tà giáo, thậm chí [họ] sát sinh để tế lễ Phật. Cuối cùng, Thần mà họ tin tưởng và tôn thờ kia cũng không còn là hình tượng Phật nữa, [họ] bắt đầu tin theo và thờ phụng yêu ma quỷ quái có hình tượng quái vật. Con người đã làm cho tôn giáo trở thành tà”. (Giảng Pháp tại Pháp hội Houston).

Lời nói và việc làm của mọi người đều trái với những điều mà các vị Phật thời tiền sử dạy bảo. Như vậy, Bà La Môn giáo tiến vào thời Mạt pháp. Trong thời gian ấy, Phật Pháp của Thích Ca Mâu Ni bắt đầu truyền rộng ra tại Ấn Độ. Bởi Pháp mà Thích Ca Mâu Ni truyền chính là chính Pháp, trong quá trình truyền Pháp, Thích Ca Mâu Ni không ngừng bác bỏ các giáo lý của các tôn giáo khác, cho nên không ngừng có những người rời bỏ ngoại đạo đến quy y Phật giáo. Như một trong những đồ đệ của ông, người mà sau này trở thành Xá Lợi Phất ban đầu là người của Bà La Môn giáo. Ông cùng Thích Ca Mâu Ni tranh luận, biết Phật Thích Ca Mâu Ni đang truyền chính pháp, bèn rời bỏ Bà La Môn giáo và trở thành người đệ tử có trí tuệ cao nhất của Phật Thích Ca Mâu Ni. Như vậy, Phật Pháp mà Thích Ca Mâu Ni truyền càng lúc càng cường thịnh, còn các tôn giáo kia càng lúc càng suy tàn. Phật Pháp dần dần bị các tôn giáo kia kỳ thị và phản đối. Trong thời gian mâu thuẫn tôn giáo lên đến đỉnh điểm, xuất hiện sự kiện các đệ tử Phật giáo bị sát hại một cách công khai. Người đệ tử có Thần thông nhất là Mục Kiền Liên bị những kẻ ngoại đạo lăn đá từ trên núi xuống đè chết, trở thành đệ tử đầu tiên của Phật Thích Ca Mâu Ni chết vì lý tưởng của Phật giáo. Ngoại đạo còn bắt bớ đệ tử của Phật Thích Ca, ném họ vào hầm lửa, hoặc trói vào cột rồi dùng cung tên bắn chết. Sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni không còn tại thế, 500 đệ tử của Phật từng bị người ta chém đầu. Sự kiện bức hại ấy khiến người ta vô cùng đau xót!

Sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni không còn trên thế gian, các tôn giáo khác bắt đầu hưng thịnh trở lại. Phật giáo ở Ấn Độ trải qua nhiều lần cải tổ, cuối cùng đã kết hợp với những thứ của Bà La Môn giáo, biến thành một loại tôn giáo mới là Ấn Độ giáo. Ấn Độ giáo không còn tin Thích Ca Mâu Ni, cũng không thờ phụng một vị Phật nào cả. Do vậy, Phật giáo sinh ra tại Ấn Độ, cuối cùng lại dần dần bị tiêu biến ở Ấn Độ. Song tại Đông Nam Á, tại Trung Quốc, Phật Pháp đã truyền rộng khắp nơi, ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa của những quốc gia này.

Tài liệu Tham khảo

1. Giảng Pháp tại Pháp hội châu Âu

2. Chuyển Pháp Luân

3. Giảng pháp tại Pháp hội Houston

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Trí huệ Khổng Tử về cách đối sử với người khác

Bài viết của Zhi Zhen [MINH HUỆ 22-06-2008] Khổng tử đã chỉ ra rằng lòng tốt là gồm cả hai một tư tưởng chính trị và một tiêu chuẩn đạo đức. Lòng tốt nhấn mạnh việc chăm lo cho người khác và chú trọng tư tưởng về lòng trung thành và sự khoan dung tha thứ. Một tư tưởng như vậy đã có một ảnh hưởng sâu rộng đến đạo đức truyền thống Trung Hoa về lương thiện, trung thực, nhẫn nại và khoan dung. Nó vẫn có ý nghĩa sâu sắc trong xã hội ngày nay.

Lòng chân thành, chân thật là cơ sở nền tảng đầu tiên quan trọng nhất

Một lần khi Khổng Tử đang thảo luận cách đối nhân xử thế với những học trò của ông, Zily nói: “Nếu người khác đối xử tốt với con, đổi lại con cũng sẽ đối xử tốt với họ; Nếu họ không tốt với con, con cũng sẽ không tốt với họ.”

Khổng Tử đã luận: “Đây là cách xử thế của những người không tốt.”

Zigong nói: ” Nếu người khác đối xử tốt với con, con sẽ đáp lại tốt với họ; Nếu họ không tốt với con, con sẽ hướng dẫn họ đến cái tốt.”

Khổng Tử đã luận: “Đây là cách xử thế giữa những người bạn.”

Yanzi nói: “Nếu người khác đối xử tốt với con, con sẽ tốt với họ; Nếu họ không tốt với con, con cũng sẽ tốt với họ và dẫn họ đến cái tốt.”

Khổng Tử đã luận: “Đây là cách xử thế trong gia đình và người thân. Nếu các con có thể mở rộng tư tưởng và đối xử với tất cả mọi người trong thế giới này bằng lòng chân thành, thành thật, nó sẽ thực sự tốt!”

Đối xử với người khác bằng lòng tốt lương thiện

Yanzi đã hỏi Khổng Tử: “Làm sao con có thể đạt được mục tiêu đối xử với người khác bằng lòng tốt? con mong ước con có thể làm được việc đối xử với mọi người như nhau bất kể họ giàu hay nghèo; can đảm mà không hiển thị khoe khoang mình dũng cảm; làm bạn chỉ với những người có mục đích cao quý và tránh gian khổ suốt cuộc đời. Điều đó có đúng không?”

Không Tử nói: ” Để là người tốt, một người cần phải tu thân và liên tục nâng cao đạo đức bản thân. Điều mà con nói là tốt. Đối xử như nhau cho dù họ giàu hay nghèo, con sẽ thấy hài lòng và không bị điều khiển bởi ham muốn dục vọng. Hành xử như nhau bất kể con ở địa vị cao hay là người dân bình thường, con sẽ luôn luôn khiêm tốn và lịch sự. Can đảm mà không hiển thị khoe khoang lòng dũng cảm, con sẽ đối xử với mọi người bằng lòng kính trọng. Làm bạn với những người có mục đích cao quý và tránh gian khổ suốt cuộc đời, con có thể lựa chọn những người bạn của mình, con sẽ thận trọng trong lời nói và hành động mình. Đây là một mục đích rất tốt!”

Cách cai trị

Qi Gaoting đã hỏi Khổng Tử : “con đã đi một đoạn đường dài và đã trải qua nhiều khó khăn thử thách, mặc quần áo sờn rách và mang quà đến cho thầy, con đến với hy vọng rằng thầy có thể dạy con cách phò tá hoàng đế cai trị đất nước.”

Khổng Tử đã nói: “Hãy dựa vào những nguyên tắc luân lý đạo đức và công bằng, Ngay cả khi xúc phạm đến hoàng đế, con cũng không thể từ bỏ sự chính trực và những nguyên tắc đạo đức. Phò tá hoàng đế không có nghĩa là làm mọi việc cho hoàng đế, mà là làm việc cho đất nước và cho người dân dưới sự cai trị của hoàng đế. Tóm lại là làm những việc chân chính và phò tá hoàng đế truyền bá lòng tốt lương thiện. Con cần phải đối xử với mọi người bằng lòng chân thành. Con cần phải làm một tấm gương tốt và ngay thẳng công bằng. Tiến cử những người có khả năng với hoàng đế đồng thời loại đi những kẻ xấu xa; loại bỏ phần xấu ra khỏi bản thân con và cùng với hoàng đế sống theo luật pháp và chuẩn mực đạo đức. Con cần phải thông minh nhưng cẩn thận trong lời nói và hành động; tu thân và dẫn dắt người dân sống theo lòng tốt lương thiện. Nếu con có thể làm như vậy, con có thể giống như một đạo hữu bên cạnh hoàng đế ngay cả khi con ở cách xa ông ấy ngàn dặm. Nếu không, con không thể làm được điều đó ngay cả khi con ở ngay bên cạnh ông ta.”

Khổng Tử nói rằng một người cần phải tu thân để đối xử tốt với người khác. Đối xử với người khác không phải là mục đích, mà mục đích là thăng tiến bản thân đến một tầng cao hơn. Khổng Tử xem trung, nghĩa, trí và tín là những điều kiện tiên quyết để là một người cao quý. Một người cao quý có thể đạt đến “từ bi” qua tự phê bình và đối xử với người khác bằng lòng tốt và khoan dung. Một người cao quý sẽ duy trì đạo đức cao trong bất kể tình huống nào và sẽ giữ tâm anh ta trong sạch, đối xử tốt với mọi người và trân quý sinh mệnh. Cho dù họ giàu hay nghèo, anh ta sẽ không bị dao động. Quyền lực và sự ép buộc cũng không ảnh hưởng anh ta được.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Văn hóa thần truyền: Đi tìm Đức Phật

[MINH HUỆ 16-11-2009] Ngày xưa, có 500 người mù sống tại thủ đô Vaisali của đất nước Licchavi. Bởi vì họ không nhìn thấy gì, họ chẳng thể làm được một công việc nào cả. Họ ăn xin để sống qua ngày, còn người ta thì đối xử với họ rất tệ bạc.

Khi ấy Thái tử Tất Đạt Đa đã trở thành Phật. 500 người mù ấy nghe được tin tốt lành rằng đức Phật đang ở cõi trần gian thì rất xúc động, bởi vì họ biết những ai được gặp đức Phật thì mọi khổ đau bệnh tật đều tiêu tan, và tất cả phiền não đều được hóa giải. Họ tụ tập lại và bàn bạc với nhau. Họ nói: “Chúng ta dù thế nào cũng phải đi gặp đức Phật! Chỉ cần chúng ta được gặp đức Phật, chúng ta sẽ có thể được trông thấy thế giới này!”.

Một người thường hay dẫn đầu trong số những người mù ấy nói: “Đúng thế! Chúng ta nên đi gặp đức Phật thay vì ngồi đây chờ đức Phật tới gặp chúng ta, phải không?”.

Mọi người trả lời đầy tuyệt vọng: “Làm sao chúng ta đến được với Ngài đây? Chúng ta thậm chí còn chẳng nhìn thấy đường đi nữa là!”.

Người cầm đầu trả lời: “Nếu chúng ta thật sự muốn đi gặp đức Phật, chúng ta cần phải tìm một người nào đó dẫn đường. Chúng ta sẽ làm như thế này nhé. Chúng ta gắng hết sức đi ăn xin, mỗi người cố thu thập cho đủ 1 đồng tiền vàng. Đến khi đã thu thập được 500 đồng tiền vàng, chúng ta có thể thuê mướn ai đó dẫn đường cho chúng ta đi tìm đức Phật”.

Thế là những người mù ấy tản đi khắp nơi ăn xin. Sau một thời gian khá dài chịu đựng nhiều đắng cay khổ sở, họ đã có đủ 500 đồng tiền vàng, và thuê được một người dẫn đường cho họ.

Người dẫn đường đi trước, còn đám người mù nối đuôi nhau, người sau nắm quần áo người trước thành một hàng dài dằng dặc, rồng rắn kéo nhau đi trông rất ấn tượng.

Họ hướng về Sravasti nơi đức Phật đang nghỉ chân tại đó. Trong suốt cuộc hành trình, họ phải hứng chịu đủ mọi khó khăn gian khổ, nhưng họ cảm thấy tâm hồn tràn ngập niềm tin sáng ngời, và cảm thấy chuyến đi trở nên đỡ gian nan hơn rất nhiều. Tuy nhiên, trên con đường tiến về Magadha, họ phải lội qua một đầm lầy ở trong khe núi. Người dẫn đường thấy cuộc hành trình phía trước sẽ rất khó khăn bèn tìm cớ chuồn đi mất, đang tâm bỏ mặc những người mù ấy.

Họ chờ mãi, chờ mãi, nhưng kẻ dẫn đường không bao giờ quay trở lại như lời hắn đã hứa. Họ cảm thấy rất sợ hãi và bảo nhau: “Thế là những nỗ lực của chúng ta uổng phí mất rồi. Tên vô lại ấy đã cướp hết số tiền của chúng ta và bỏ rơi chúng ta. Phải làm sao bây giờ?”.

Mọi người đều hoang mang lo lắng, nhưng người cầm đầu đám người mù nghe thấy tiếng nước chảy ở phía trước. Anh biết rằng ấy chắc hẳn là cái đầm lầy mà họ cần phải lội qua, thế là anh bảo mọi người nắm tay nhau đi về phía ấy. Khi họ đang mò mẫm tiến về phía trước, bỗng họ nghe thấy tiếng một người giận dữ quát: “Thật là tồi tệ, các người mù cả rồi hay sao? Các người đã giẫm nát hoa màu mà tôi gieo trồng hết cả rồi!”.

“Trời ơi! Chúng tôi thật lòng xin lỗi. Chúng tôi thật sự là bị mù. Nếu chúng tôi nhìn thấy được, chúng tôi đã không phạm phải lỗi lầm như thế rồi. Chúng tôi van xin Ngài, hỡi người tốt bụng, hãy giúp đỡ chúng tôi bằng trái tim nhân từ của Ngài và hãy chỉ cho chúng tôi đường đến Sravasti! Một kẻ lưu manh đã lấy hết tiền của chúng tôi rồi, nên chúng tôi chỉ có thể đền đáp lại lòng tốt của Ngài trong tương lai mà thôi. Chúng tôi sẽ giữ đúng lời hứa của mình!”.

Người chủ ruộng cảm thấy những người mù ấy thật đáng thương. Ông thở dài và nói với họ: “Thôi hãy quên chuyện này đi vậy! Lại đây, tôi sẽ tìm cho các vị một người dẫn đường đến Sravasti”.

Những người mù vô cùng vui mừng và biết ơn người chủ ruộng. “May mắn thay, chúng tôi đã được gặp ông, một người thật là tốt bụng!”.

Thế là người chủ ruộng đi tìm một người dẫn họ đi đến Sravasti. Khi họ đến nơi, họ rất hạnh phúc. Nhưng không may, người trụ trì của ngôi chùa ấy bảo họ: “Các bạn đến trễ quá. Đức Phật đã đi đến Magadha rồi”.

Những người mù rất thất vọng, nhưng họ vẫn tìm đường trở lại Magadha. Họ đã phải chịu đựng rất nhiều khổ sở dọc đường, nhưng khi đến Magadha họ mới biết là đức Phật đã trở lại Sravasti rồi.

Mặc dù đã kiệt sức, họ vẫn tin tưởng vững chắc rằng cuối cùng thế nào rồi họ cũng sẽ gặp được đức Phật, thế là một lần nữa họ lại hướng về Sravasti. Họ đã quyết tâm sẽ không ngừng nghỉ chừng nào họ còn chưa được gặp đức Phật. Đáng buồn thay, họ một lần nữa lại không gặp được đức Phật ở Sravasti.

“Đức Phật đã lại tới Magadha rồi”. Vị sư trụ trì ngôi chùa nói với họ bằng một giọng nói đầy thông cảm. Những người mù buộc phải trở lại Magadha lần thứ 2.

Sau khi họ đi qua đi về giữa 2 thành phố ấy đến lần thứ 7, đức Phật thấy rằng Thiện tâm của họ đã đạt được tiêu chuẩn, thế là Ngài bèn đợi họ ở tịnh xá của Ngài tại Sravasti.

Những người mù cảm nhận được ánh sáng ấm áp trong ánh hào quang nhân từ mà Đức Phật tỏa ra. Cuối cùng, họ đã gặp được đức Phật mà họ mong mỏi trông chờ bấy lâu nay.

500 người mù quỳ mọp xuống dưới chân đức Phật và bày tỏ lòng biết ơn vô bờ của họ. “Đức Phật, Ngài cứu độ tất cả sinh linh, những ai đang phải chịu khổ đau. Cầu xin Ngài hãy cho chúng con sáng mắt để chúng con được chiêm ngưỡng Ngài, một đức Phật tỏa ánh quang minh như ánh sáng của Thiên Đàng”.

Thấy họ chân thành như vậy, đức Phật nói với họ: “Các con thành kính như thế, và đã trải qua một chặng đường dài đầy chông gai với một niềm tin kiên định. Ta sẽ ban cho các con ánh sáng”. Thế là 500 người mù ngay lập tức sáng mắt trở lại. Họ quỳ trên mặt đất cảm ơn và nói: “Xin cảm ơn Ngài, hỡi đức Phật từ bi vô lượng! Xin Ngài hãy thu nhận chúng con làm đồ đệ, chúng con muốn đi theo và phụng sự Ngài mãi mãi”.

Đức Phật nói: “Được rồi, các đồ đệ của ta!”.

Họ đã trở thành các đồ đệ của đức Phật và tu luyện rất tinh tấn. Cuối cùng, họ đều đạt được quả vị A-la-hán.

Những người mù ấy đã từng phải sống trong bóng tối mịt mùng, nhưng con tim của họ tràn đầy ánh sáng. Tâm cầu Đạo của họ chói lọi như ánh vàng kim rực rỡ. Trong suốt cuộc hành trình đi tìm đức Phật, họ đã không đánh mất niềm tin mãnh liệt của mình vào Phật Pháp, bất kể bao nhiêu khó khăn gian khổ mà họ đã phải gánh chịu.

Có một số người cứ mãi nghĩ rằng: “Tôi không tin chuyện tu luyện. Chỉ sau khi chính mắt tôi nhìn thấy thì tôi mới tin”. Những người như thế sẽ không bao giờ thấy nổi sự thật, bởi vì nếu trái tim của họ không thể nhận ra Chân Lý trước tiên, thì cặp mắt kia có tác dụng gì đâu.

Một số người không thể hiểu được vì sao những người tu luyện lại tin theo Phật Pháp. Họ mãi cho rằng những người tu luyện thật là ngốc nghếch, bởi vì người tu luyện không thể trông thấy những quyền lợi vật chất tầm thường đặt ngay trước mắt mình. Đúng vậy. Ở phương diện này, người tu luyện chẳng khác nào những người mù ấy, không nhìn thấy được những cảnh đẹp xung quanh.

Một số người lại nghĩ việc tu luyện quá huyền bí và cho rằng ấy không phải là một việc mà người bình thường có thể làm được. Thực ra, tu luyện chẳng phải là một điều gì huyền hoặc cả. Chỉ cần bạn có một tâm hồn trong sáng, rồi một ngày nào đó bạn sẽ gặt hái được thành công.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Văn hóa Thần truyền: Thần Phật chỉ xem trọng lòng người

[MINH HUỆ 22-8-2007] Vào thời vua Đường Trung Tông (khoảng năm 705-707), tại khu vực Hồ Bắc, Tương Dương (Trung Quốc) người ta chuẩn bị đúc một pho tượng Phật lớn. Có rất nhiều người giàu có và tín ngưỡng Thần Phật đều tới dâng hiến tiền bạc cho việc ấy. Những người tổ chức đối với những người ủng hộ tiền của đều có ghi chép sổ sách đàng hoàng, để sau này sẽ khắc tên ghi công vào bia đá.

Có một bà cụ vô cùng nghèo khổ nhưng nóng lòng muốn được hiến tặng. Bà chỉ có một đồng tiền mà mẹ đẻ tặng cho bà thời con gái. Bà đã nâng niu giữ gìn đồng tiền ấy không nỡ dùng, cất kỹ suốt 60 năm trời. Ấy là tài sản duy nhất mà bà có.

Nghe tin người ta quyên tiền đúc tượng Phật, bà cụ cung kính mang đồng tiền ấy vượt qua một quãng đường xa xôi để đến dâng tặng. Nhưng người phụ trách việc đăng ký tên tuổi nói với bà: “Tôi chẳng thể đăng ký cho 1 đồng của bà được”. Bà cụ không biết làm sao, đành nhân lúc người khác không để ý lặng lẽ đến gần lò đúc tượng và tung đồng tiền vào trong đó. Bà thành kính chắp tay cầu nguyện rồi trở về nhà.

Vài ngày sau người ta dỡ lò lấy tượng ra. Một viên quan bỗng nhiên nhìn thấy một đồng tiền đính vào chính giữa ngực của pho tượng Phật. Có một đại phú ông trông thấy như thế trong lòng rất khó chịu bèn yêu cầu giũa bay đồng tiền kia đi. Thế là người ta gọi thợ thủ công đến để gọt giũa đồng tiền ấy.

Nhưng gắng sức gọt giũa suốt một đêm, đến sáng hôm sau nhìn lại thì đồng tiền vẫn còn y nguyên như cũ, vẫn đính chặt vào giữa ngực bức tượng Phật. Mấy nhà sư thấy thế nói: “Chuyện này thật là kỳ diệu. Thần Phật nhận xét con người ta thì chỉ xem trọng tấm lòng thôi. Bà cụ ấy hết lòng thành kính cho nên mới thành ra như thế”. Từ đó về sau không ai còn dám động đến đồng tiền ấy nữa.

Đồng tiền ấy mãi mãi nằm trên ngực bức tượng Phật.

(chuyện trong sách “Thái Bình quảng ký”)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tạo một tài khoản hoặc đăng nhập để bình luận

Bạn phải là một thành viên để tham gia thảo luận.

Tạo một tài khoản

Đăng ký một tài khoản mới trong cộng đồng của chúng tôi. Dễ thôi!


Đăng ký tài khoản mới

Đăng nhập

Bạn đã có tài khoản? Đăng nhập tại đây.


Đăng nhập ngay