Thiên Sứ

Các Binh Chủng Việt Nam Thao Diễn Thế Trận

6 bài viết trong chủ đề này

Các binh chủng Việt Nam thao diễn thế trận

VnExpress

Thực hiện nhiệm vụ gìn giữ hòa bình, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, nhiều binh chủng đã từng bước được trang bị vũ khí, khí tài với hỏa lực mạnh sẵn sàng tiêu diệt mục tiêu khi có tình huống xảy ra.

> 'Xây dựng quân đội chính quy, tinh nhuệ'/ 'Hiện đại hóa quân đội không phải là chạy đua vũ trang'

Posted Image

Lực lượng tăng thiết giáp được trang bị khí tài đáp ứng các yêu cầu tác chiến của lực lượng đột kích cơ giới.

Sau 35 năm giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc, các binh chủng quân đội Việt Nam đã được trang bị theo hướng hiện đại, cơ động cao, có sức đột kích và hỏa lực mạnh được xây dựng phù hợp với chiến thuật chiến tranh nhân dân.

Lực lượng tăng thiết giáp huấn luyện tại thao trường Hải quân phối hợp với phòng không trong luyện tập

Nhiều quân binh chủng như bộ đội tăng thiết giáp được xây dựng và củng cố với mục tiêu hoàn thành nhiệm vụ của lực lượng đột kích cơ giới là thọc sâu, nhanh chóng đánh chiếm những mục tiêu quan trọng.

Posted Image

Hải quân đang được xây dựng chính quy, từng bước hiện đại.

Những cánh chim bảo vệ bầu trời Huấn luyện phòng không

Với cách đánh đột phá bằng sức mạnh hiệp đồng quân binh chủng, quân đội phát huy uy lực của xe tăng, và bộ binh cơ giới để tiến công nhanh, thần tốc, táo bạo, bất ngờ.

Đức Quang

Nguồn Quân khu 7 cung cấp

Share this post


Link to post
Share on other sites

Hải quân Việt Nam: năm 2015 sẽ xây dựng khả năng tác chiến viễn dương đối kháng với Trung Quốc", viết: Sau khi chiến tranh Lạnh kết thúc, VN luôn thực hiện phương châm chỉ đạo kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với quốc phòng, nhấn mạnh phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng là hai nhiệm vụ chiến lược lớn, kinh tế tăng trưởng sẽ cung cấp động lực mạnh mẽ cho việc hiện đại hóa quốc phòng. Vì vậy trong qúa trình phát triển kinh tế, VN dần dần mở rộng tỷ trọng đầu tư vào xây dựng quốc phòng; căn cứ vào tiến trình phát triển công nghiệp hóa và hiện đại hóa, dần dần nâng cao trình độ hiện đại hóa quân đội.

Năm 1976, khi VN vừa thống nhất, quân đội VN đã phát triển trở thành đội quân lớn với hơn 1 triệu quân. Cuối thập kỷ 80 của thế kỷ 20, cùng sự thay đổi của cục diện đối đầu hai cực và nhu cầu xây dựng trong nước của VN, cộng thêm việc khó có thể duy trì chi phí quân sự lớn và tiếp tục thực hiện chính sách mở rộng quân bị như trước, nên tháng 9/1986 VN đề xuất tinh giản biên chế quân đội, xây dựng một đội quân với số lượng tương đối, chất lượng cao, phù hợp với thực lực kinh tế quốc gia.

Bước vào thế kỷ 21, căn cứ vào tình hình an ninh quốc gia và cuộc chiến tranh tin học trong tương lai, VN đã xác lập chiến lược quân sự "phòng ngự tích cực". Nhấn mạnh trong kết cấu sức mạnh quân sự, kết hợp giữa 3 lực lượng vũ trang là bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ. Trong quy mô chiến tranh kết hợp giữa tiến công với quy mô vừa và nhỏ và tiến công địch rộng khắp, nhấn mạnh đến tác dụng chống lại kẻ thù một cách toàn diện:

Trước hết, VN thúc đẩy mạnh mẽ thể chế lực lượng vũ trang "3 kết hợp". Trong đường lối phát triển quân đội nhấn mạnh đến việc cùng với sự điều chỉnh chiến lược quốc gia, việc xây dựng quân đội phải chuyển từ trạng thái thời chiến sang trạng thái thời bình, coi việc xây dựng đội quân chính quy với số lượng thích đáng, trang bị tiên tiến, cơ động linh hoạt, sức chiến đấu mạnh, chất lượng cao, ngày càng hiện đại hóa làm mục tiêu cơ bản.

Thứ hai, nhấn mạnh đến việc điều hoà và phát triển có trọng điểm các quân chủng và binh chủng. Mấy năm gần đây, quân đội VN rất nhấn mạnh đến việc điều chỉnh một cách hợp lý tỷ lệ giữa các quân chủng và binh chủng; ưu tiên phát triển hải quân và không quân, khống chế quy mô lục quân, trọng điểm tăng cường xây dựng binh chủng kỹ thuật.

Thứ ba, ưu hoá thể chế quân dự bị và động viên nhanh. Tiếp tục tăng cường xây dựng lực lượng dân quân tự vệ cả về số lượng và chất lượng.

Ngoài ra kết hợp với đặc điểm tình hình đất nước, VN luôn nhấn mạnh đến tư tưởng "quốc phòng toàn dân". Cùng với việc thực hiện cải cách quân sự, phát triển hơn nữa thể chế quốc phòng toàn dân. Dưới sự chỉ đạo của tư tưởng chiến lược quốc phòng toàn dân, VN tăng cường mạnh mẽ việc xây dựng lực lượng bộ đội dự bị và dân quân tự vệ. Lực lượng bộ đội dự bị có khoảng 50 vạn quân. Số lượng dân quân tự vệ lên tới 2,5 triệu người. Một khi chiến tranh đòi hỏi, lực lượng bán quân sự này chỉ cần được trang bị vũ khí cần thiết là có thể tham gia tác chiến.

Căn cứ vào tư tưởng chiến lược quân sự "phòng ngự tích cực" và "quốc phòng toàn dân", mấy năm gần đây VN quán triệt phương châm xây dựng chất lượng quân đội, coi hải quân và không quân là hai quân chủng ưu tiên phát triển, với phương hướng "tiến sâu vào đại dương", đã tăng nhanh tốc độ xây dựng hải quân và không quân và các quân cảng.

Quân đội VN thấy rằng việc coi trọng xây dựng hải quân không chỉ liên quan đến việc củng cố quốc phòng và sự toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ lãnh hải, mà còn liên quan đến việc phát triển kinh tế đất nước, đặc biệt là kinh tế biển. Để tăng cường xây dựng hải quân hiện đại hóa, ngay từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20, VN đã chế định "Kế hoạch phát triển hải quân 10 năm", cấp riêng ngân sách cho việc nghiên cứu chế tạo và mua tàu chiến mới và các trang thiết bị khác của hải quân, xây dựng và mở rộng một số quân cảng quan trọng ở miền Trung và miền Nam.

Bước sang thế kỷ 21, để thích ứng với nhu cầu tác chiến trong tương lai và xây dựng lực lượng hải quân hiện đại, VN lại đưa ra quy hoạch phát triển hải quân trung hạn và dài hạn. Dự định đến trước năm 2010, cố gắng tăng số lượng tàu chiến mới, dần dần thải loại các tàu chiến cũ, phát triển lực lượng tàu ngầm và lực lượng không quân thuộc hải quân; đến trước năm 2050, sẽ hình thành khả năng tác chiến độc lập, viễn dương và lập thể, thực hiện toàn diện việc chính quy hoá và hiện đại hoá hải quân.

Để xây dựng lực lượng hải quân ven bờ thành hải quân viễn dương và hiện đại hóa, VN sẽ chi những khoản đầu tư lớn. Không những mua của Nga những trang bị tiên tiến cỡ lớn như tàu chiến trang bị tên lửa "Nhện độc", còn tự nghiên cứu chế tạo tàu hộ tống và tàu chiến trang bị tên lửa. Ngoài ra còn đầu tư 3,8 tỷ USD để xây dựng một quân cảng rộng 3000 hécta có thể sử dụng cho tàu chiến cỡ 4 vạn tấn ở vùng Đông Bắc VN. Dự tính, một khi quân cảng này xây xong, không chỉ giảm bớt khó khăn tàu chiến Việt Nam chỉ có thể neo đậu ở cảng Cam Ranh, mà còn tăng cường mạnh mẽ việc xây dưng cơ sở hạ tầng của hải quân VN, nâng cao khả năng đảm bảo tác chiến của hải quân VN lên trình độ mới.

Các sĩ quan quân đội VN đã từng nói: "VN dự định đến trước năm 2015 sẽ xây dựng một lực lượng hải quân hiện đại hóa, đến lúc này khả năng bảo vệ tuyến đường vận chuyển viễn dương và khả năng tác chiến trên biển sẽ đạt nhu cầu của hải quân hiện đại hoá. Theo tư duy của quân đội VN hiện nay, dải ven biển hình chữ "S" và những đảo nhỏ mà VN xâm chiếm ở Trường Sa sẽ tạo nên một hệ thống phòng vệ tương đối hoàn chỉnh, hải quân VN có thể "lấy điểm khống chế diện", lấy ưu thế địa lý phát huy tác dụng của các tàu chiến cỡ nhỏ, từ đó có thể đối kháng được với lực lượng hải quân mạnh của các nước khác trong khu vực.

Giống như hải quân, không quân VN thành lập năm 1956, đã có bước phát triển mạnh cùng với tiến trình cải cách đổi mới của đất nước. Hiện nay không quân VN có 12 nghìn quân, biên chế thành 4 sư đoàn,

6 trung đoàn tiêm kích, 3 trung đoàn vận tải, 1 sư đoàn máy bay lên thẳng. Hiện được trang bị 394 máy bay chiến đấu, 47 máy bay trực thăng. Có tin cho biết VN có thể trong vòng 15 năm sẽ tiến hành hiện đại hóa lực lượng không quân với quy mô lớn. Trong vài năm tới VN trọng điểm cải tiến và đổi các loại máy bay chiến đấu và tên lửa phòng không.

Trong một thời gian dài, quân đội VN có xu thế "nhất biên đảo", hoàn toàn dựa vào Liên Xô. Sau khi Liên Xô tan rã, Nga do kinh tế khó khăn không còn quan tâm đến VN. Hiện nay cùng với việc thực hiện chính sách cải cách mở cửa về kinh tế, VN cũng ý thức được rằng lợi ích quốc gia là hạt nhân trong quan hệ đối ngoại của VN, vì vậy trong khi thúc đẩy hợp tác quân sự đối ngoại đã vứt bỏ một phần mâu thuẫn về ý thức hệ, chú trọng lợi ích quốc gia với mức độ lớn nhất.

Một mặt VN kiên trì kết hợp quốc phòng với ngoại giao, nhấn mạnh thực hiện đường lối ngoại giao hoà bình thực dụng "thêm bạn, bớt thù"; chủ trương thông qua hoà bình hiệp thương giải quyết tranh chấp, kiên trì việc phát triển quan hệ hữu hảo, với tất cả các nước trên thế giới, đặc biệt là với các nước xung quanh, tạo ra môi trường an ninh bên ngoài tốt đẹp cho việc xây dựng quốc phòng.

VN với tư cách là nước có thực lực quân sự mạnh nhất khu vực ĐNÁ, năm 1995 đã tham gia vào khối ASEAN, khiến sức mạnh quân sự của VN càng phát triển mà lại không khiến các nước ASEAN khác lo ngại. Mấy năm gần đây, cùng với việc vết thương do chiến tranh VN gây nên cho quan hệ Việt-Mỹ dần dần được lành, quan hệ VN và Mỹ cũng dần dần bình thường hóa. Năm 2006, chuyến thăm VN của Rumsfeld đã mở ra kênh mới cho việc mở rộng hơn nữa sự hợp tác quân sự Việt-Mỹ. Khi đó Bộ trưởng Quốc phòng VN đã công khai nói :"Chúng tôi hoan nghênh họ (người Mỹ) giúp quân đội nhân dân hiện đại hóa. Hiện nay VN đang hợp tác quân sự với Mỹ, Nga và ấn Độ. VN cũng đang tích cực mở rộng nguồn cung cấp vũ khí; hiện nay ngoài Nga và Ấn Độ ra, Pháp, Ba Lan, Ucraina cũng đều trở thành kênh cung ứng trang bị vũ khí cho VN; Ixraen, Bỉ, Đức, HQ, Anh cũng bắt đầu nhòm ngó vào thị trường vũ khí VN.

Có thể dự đoán, cùng với sự phát triển nhanh của nền kinh tế VN, quân đội VN sẽ trở thành quân đội không thể xem thường ở khu vực ĐNÁ.

1.VN sẽ phấn đấu thành quốc gia có nền kinh tế Biển

2.Kinh tế Biển sẽ đóng góp 55% GDP vào năm 2020.Hiện nay Kinh tế biển chỉ đóng góp 15% vào GDP.

3.Xây dựng,hoàn thiện Học Thuyết Hải quân Việt.Xây dựng lực lượng Hải quân hùng mạnh ,đủ sức mạnh bảo vệ các quyền lợi kinh tế của Việt Nam trên khu vực Biển Đông, góp phần giữ gìn an ninh trật tự khu vực ASEAN.

Duyệt binh trên sân bay của ta tại đảo Trường Sa Lớn.Sân bay này được xây từ 1996, chỉ dùng được cho trực thăng và loại máy bay chiến đấu có tính năng cất/hạ cánh trên đường băng ngắn.Sắp tới ta sẽ kéo dài đường băng tới 3000m ,đủ để tất cả các loại máy bay hiện có có thể sử dụng được.

Chủ Tịch Nguyễn Minh Triết cùng chủ tịch tỉnh Bình Thuận đi thăm trung đoàn không quân tiêm kích - bom Su22.Trung đoàn được trang bị 40 Su 22 được nâng cấp,mua từ Ba Lan vào năm ngoái.Những chiếc Su 22 cải tiến này có khả năng mang được tên lửa chống hạm hiện đại nhất ,sẽ là quả đấm mạnh của ta trong tác chiến bảo vệ Trường Sa.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chiến hạm Việt Nam: OSA-II

Tàu Osa là lọai tàu tấn công cao tốc do Liên xô phát triển vào đầu thập niên 1960 theo các dự án 250 (Osa 1) và 250U (Osa 2). Đây là lọai tàu chiến được sản xuất với số lượng nhiều nhất, trên 400 chiếc được xuất xưởng.

Chữ Osa có nghĩa là Ong bắp cày, nó mang tên này do đặc điểm chiến đấu của mình. Việt Nam hiện có khỏang 8 chiếc Osa 2 vẫn còn họat động tốt.

Tàu Osa đựơc phát triển nhằm thay thế loại tàu tấn công “Komar” – Loại chiến hạm mini đầu tiên trên thế giới có trang bị hỏa tiễn đối hạm, có khả năng đánh chìm một chiến hạm to hơn nó gấp nhiều lần. Thân tàu Osa được làm bằng hợp kim nhẹ với cấu trúc đặc biệt cùng với 3 động cơ công suất 12000 mã lực và 3 chân vịt, điều này giúp Osa đạt được tốc độ 40 hải lý/giờ

Vũ khí chính là 4 hỏa tiễn P-15 / SS-N2 được điều khiển bằng ra đa có khả năng đánh chìm 1 chiến hạm to lớn gấp 10 lần Osa ở khỏang cách hơn 80 km. Theo lý thuyết cần 6 Osa để đánh chìm một khu trục hạm 20.000 tấn. Vũ khí phụ của Osa là 4 đại bác 30mm AK-230, chủ yếu đề phòng không hơn là chiến đấu với tàu chiến khác.

Chiến thuật chủ yếu của Osa là “đánh và chạy”, lợi dụng tốc độ cao của mình Osa bất ngờ tiếp cận đối thủ và phóng tên lửa sau đó chạy thật nhanh trước khi tàu địch kịp phản ứng, nếu có máy bay địch truy kích thì dùng 4 súng phòng không để chống trả. Chiến thuật này có phần giống các tàu phóng lôi, nhưng khác ở cự ly tiếp cận là vài chục km và vũ khí là hỏa tiễn có tốc độ nhanh hơn nhiều so với ngư lôi.

Osa đã tham chiến nhiều trận, trong đó Osa chịu nhiều tổn thất trong cuộc chiến tranh Iraq-Iran 1980. Điểm yếu chính là hệ thống điều khiển tên lửa và khả năng tự vệ không cao. Tuy nhiên với khối lượng chỉ 200 tấn và tốc độ cao cùng với 4 hỏa tiễn chết người, Osa vẫn là một đối thủ đáng gờm, đặc biệt khi hành quân với số lượng lớn.

Ngày nay, Osa vẫn là vũ khí chính của hải quân ở những nước đang phát triển như Việt Nam. Tuy vậy Tarantul vẫn là lựa chọn số một dành cho dòng tàu cao tốc mang tên lửa.

Chiến hạm Việt Nam: OSA-II

Tàu Osa là lọai tàu tấn công cao tốc do Liên xô phát triển vào đầu thập niên 1960 theo các dự án 250 (Osa 1) và 250U (Osa 2). Đây là lọai tàu chiến được sản xuất với số lượng nhiều nhất, trên 400 chiếc được xuất xưởng.

Chữ Osa có nghĩa là Ong bắp cày, nó mang tên này do đặc điểm chiến đấu của mình. Việt Nam hiện có khỏang 8 chiếc Osa 2 vẫn còn họat động tốt.

Tàu Osa đựơc phát triển nhằm thay thế loại tàu tấn công “Komar” – Loại chiến hạm mini đầu tiên trên thế giới có trang bị hỏa tiễn đối hạm, có khả năng đánh chìm một chiến hạm to hơn nó gấp nhiều lần. Thân tàu Osa được làm bằng hợp kim nhẹ với cấu trúc đặc biệt cùng với 3 động cơ công suất 12000 mã lực và 3 chân vịt, điều này giúp Osa đạt được tốc độ 40 hải lý/giờ

Vũ khí chính là 4 hỏa tiễn P-15 / SS-N2 được điều khiển bằng ra đa có khả năng đánh chìm 1 chiến hạm to lớn gấp 10 lần Osa ở khỏang cách hơn 80 km. Theo lý thuyết cần 6 Osa để đánh chìm một khu trục hạm 20.000 tấn. Vũ khí phụ của Osa là 4 đại bác 30mm AK-230, chủ yếu đề phòng không hơn là chiến đấu với tàu chiến khác.

Chiến thuật chủ yếu của Osa là “đánh và chạy”, lợi dụng tốc độ cao của mình Osa bất ngờ tiếp cận đối thủ và phóng tên lửa sau đó chạy thật nhanh trước khi tàu địch kịp phản ứng, nếu có máy bay địch truy kích thì dùng 4 súng phòng không để chống trả. Chiến thuật này có phần giống các tàu phóng lôi, nhưng khác ở cự ly tiếp cận là vài chục km và vũ khí là hỏa tiễn có tốc độ nhanh hơn nhiều so với ngư lôi.

Osa đã tham chiến nhiều trận, trong đó Osa chịu nhiều tổn thất trong cuộc chiến tranh Iraq-Iran 1980. Điểm yếu chính là hệ thống điều khiển tên lửa và khả năng tự vệ không cao. Tuy nhiên với khối lượng chỉ 200 tấn và tốc độ cao cùng với 4 hỏa tiễn chết người, Osa vẫn là một đối thủ đáng gờm, đặc biệt khi hành quân với số lượng lớn.

Ngày nay, Osa vẫn là vũ khí chính của hải quân ở những nước đang phát triển như Việt Nam. Tuy vậy Tarantul vẫn là lựa chọn số một dành cho dòng tàu cao tốc mang tên lửa.

Chiến hạm Việt Nam: Tarantul I

Tàu phóng tên lửa lớp Tarantul I (Molniya) đã có mặt tại Việt Nam vào năm 1999. Và Việt Nam mua bản quyền đóng loại tàu này trong nước. Hiện Việt Nam có khoảng 4 chiếc Tarantul 1, và 2 chiếc Tarantul thế hệ mới thuộc project 1412.8. Trong tương lai sẽ đóng thêm 20 chiếc Tarantul nữa

Tàu chiến Tarantul dùng để tác chiến tại các vùng cửa biển và ven bờ. Tàu Tarantul trang bị nhiều loại vũ khí hiện đại và các khí tài tiên tiến, có khả năng độc lập tác chiến và chiến đấu hiệp đồng trong đội hình biên đội.

- Tàu tên lửa Tarantul được phát triển theo dự án số 12421 của Nga, bao gồm: Tàu chiến đấu, tàu bổ trợ và tàu tuần tra tại các vùng cửa biển, ven bờ. Tàu tên lửa Tarantul trang bị đầy đủ các thiết bị trinh sát và truyền tin, các hệ thống ra-đa trinh sát và kiểm soát xạ kích. Ra-đa có tầm bao quát toàn bộ vùng tác chiến trong tầm bắn của tên lửa, bám tín hiệu 15 mục tiêu và khoá tới 6 mục tiêu trong môi trường tác chiến điện tử. Hệ thống ra-đa kiểm soát bắn của pháo và tên lửa trên tàu có khả năng phát hiện các mục tiêu trên không, trên biển, tự động dò tìm các tín hiệu đặc trưng của mục tiêu và xử lý các tín hiệu đó chuyển thành dữ liệu tác xạ trên máy tính.

* Vũ khí chính trang bị trên tàu Tarantul gồm:

- Trang bị hệ thống tên lửa đối hạm với giàn phóng tên lửa U-ran phóng tên lửa hành trình Kh-35 sắp xếp thành hai hàng, mỗi hàng 8 ống phóng (16 tên lửa). Tên lửa hành trình Kh-35 dẫn bằng ra-đa chủ động giai đoạn cuối. Trên hành trình bay, tên lửa bay cách mặt nước 15 mét, ở giai đoạn cuối chúng hạ thấp độ cao và tiêu diệt mục tiêu chỉ ở độ cao từ 3 mét đến 5 mét. Tên lửa Kh-35 có cự ly tác chiến 130km, tốc độ tối đa khoảng 300 m/s, đầu nổ HE nặng 145 kg

- Hoặc tên lửa hành trình đối hạm Moskit - SS-N-22 với 2 giàn phóng (tổng cộng có 4 tên lửa), tầm xa 90 – 120 km, tốc độ siêu âm. Tầm bắn tối đa 250km, tốc độ mach 3, trần bay cách mặt nước biển 20m, đầu nổ 320 kg

- Hoặc tên lửa hành trình đối hạm P-15 Termit “SS-N-2C” với 2 giàn phóng (tổng cộng có 4 tên lửa), tầm xa 80 km, tốc độ March 0.9.

- 12 tên lửa phòng không Igla-1M;

- 1 pháo hạm 76mm AK-176M (với 316 viên đạn), tầm xa 15 km

- Hai pháo phòng không 30mm AK-630M.

Hệ thống ra-đa trên tàu có: Ra-đa trinh sát băng HF, UHF, ra-đa nhận biết mục tiêu không-biển, ra-đa điều khiển, kiểm soát xạ kích cho tên lửa. 2 hệ thống phóng mồi bẫy và mồi bẫy nhiệt PK-10 cỡ 120 mm hoặc PK – 16 dùng để chống ra-đa và hệ thống trinh sát quang học của các hệ thống vũ khí của đối phương. Đạn mồi bẫy PK-16 cỡ 82mm, tầm hoạt động từ 200 mét đến 1800 mét.

Tàu tên lửa Tarantul có lượng giãn nước 550 tấn, trang bị máy chính 2 trục, động cơ tua-bin khí 32.000 sức ngựa, 3 động cơ Diesel, công suất 500kW mỗi động cơ. Tàu có tầm hoạt động 2400 hải lý, hoạt động liên tục trong thời gian 10 ngày. Toàn bộ thuỷ thủ đoàn trên tàu 44 người. Tàu còn trang bị các thiết bị điều hoà không khí, hệ thống thông gió tiên tiến nhất, bảo đảm cho tàu hoạt động trong mọi điều kiện thời tiết.

Việt Nam đã mua bản quyền đóng loại tàu này trong nước. Sẽ có khoảng 20 chiếc sẽ ra đời tại Việt Nam

Theo một số nguồn tin nước ngoài, 2 tàu Tarantul thế hệ mới cũng đã có mặt tại Việt Nam . Đây chính là 2 tàu đầu tiên thuộc Project 1241.8 “Thần Sấm". Loại này có tầm hoạt động và hệ thống vũ khí tấn công hơn hẳn Tarantul 1. 2 chiếc này nằm trong hợp đồng mua 12 chiếc Taratul Project 1241.8 mà VN đã ký với Nga. Số còn lại sẽ do VN tự đóng theo công nghệ được chuyển giao .

Theo một số chuyên gia nước ngoài phân tích, Với 2 chiếc Gepard (sẽ về Việt Nam cuối năm 2009) và trên 20 Tarantul hải quân Việt Nam sẽ tiến tới thành lập hạm đội biển Đông với trên dưới 30 chiến hạm hiện đại.

Chiến hạm Việt Nam: Petya II - III

Petya II và III là lớp chiến hạm hiện đại đầu tiên được HQNDVN nhận về sau khi giải phóng miền nam, năm 1978-1979 đã tham chiến trong cuộc chiến với Khmer đỏ. Hiện nay Petya vẫn còn phục vụ trong lực lượng HQ Việt Nam

Tàu hộ tống lớp Petya-II

Độ giãn nước: 1,077 tấn

Kích thước: 81.8 x 9.2 x 2.85 mét

Sức đẩy: 3 trục; 6,000 bhp; 2 động cơ đẩy gas turbines 30,000 shp; 29 hải lý/

giờ

Thủy thủ đoàn: 92

Radar: Fut-N/Strut Curve 2-D

Vũ khí: 2 tháp pháo với súng 2 nòng 76.2mm, 2 ống phóng ngư lôi 15.8 inch, 2

giàn phóng rócket RBU-6000 ASW RL

Nguồn gốc: Khu trục hạm cỡ nhỏ của Liên Xô, chuyển giao cho Việt Nam.

Nơi sản xuất: Yantar Zavod, Kaliningrad, Russia.

Tàu tuần tiễu lớp Petya-III

Độ giãn nước: 1,040 tấn

Kích thước: 81.8 x 9.2 x 2.72 mét

Sức đẩy: 3 trục; 1 cruise diesel, 6,000 bhp; 2 boost gas turbines, 30,000 shp;

29 hải lý/ giờ

Thủy thủ đoàn: 92

Radar: Fut-N/Strut Curve 2-D air search

Sonar: Titan hull mounted MF

EW: Bizan-4B suite with Watch Dog intercept

Vũ khí: 2 tháp pháo với súng 2 nòng 76.2mm, 3 ống phóng ngư lôi 15.8 inch, 4

giàn phóng rócket RBU-6000 ASW RL

Nguồn gốc: tàu tuần tiễu xuất khẩu của Nga, Việt Nam nhận năm 1978. Việt Nam

hiện có 2 chiếc HQ-09, HQ-11.

Petya là tàu khu trục cỡ nhỏ do Liên Xô chế tạo với chức năng chính là tuần tra bờ biển và chống tàu ngầm. Tổng cộng có khoảng 45 chiếc được chế tạo và sử dụng tại Liên Xô, trong đó có 18 Petya-I, 27 chiếc Petya-II. Phiên bản Petya-III dành cho xuất khẩu.

Việt Nam nhận 3 chiếc Petya-II đã qua sử dụng của Liên Xô và sau đó là 2 chiếc Petya-III vào năm 1978

Petya được thiết kế theo kiểu cổ điển từ thời chiến tranh thế giới thứ 2, mặc dù thời điểm nó sinh ra là vào thập niên 60, có lẽ do Petya không phải là lực lượng chiến đấu xung kích trong hải quân Xo Viết. Nhiệm vụ chính của Petya là tuần tra bờ biển và chống tàu ngầm. Tuy nhiên khả năng chống ngầm của Petya cũng còn hạn chế.

Vũ khí

Petya-III có 2 tháp pháo với đại bác đôi 76,2 mm AK-726 với tầm bắn thẳng mục tiêu trên biển xa 8.2 km. AK-726 được điểu khiển bằng hệ thống tự động Fut-B có thể bắn hạ máy bay có tốc độ bay từ 350 – 650 m/s, ở độ cao từ 500 – 6000 m. Tầm bắn tối đa là 18,3 km. Tốc độ bắn là 45 viên trong 1 phút. Tuy nhiên đây là hệ thống pháo khá cũ được sản xuất vào các năm 1958 – 1964, cho nên có nhiều hạn chế về tầm bắn cũng như độ chính xác.

Petya-III còn có 2 dàn Rocket RBU-6000 chống ngầm với 12 ống phóng mỗi dàn, sử dụng rocket cỡ 213 mm RGB-60 không điều khiển có khả năng bắn xuống mặt nước sâu từ 10-500m với tốc độ 11,5 m/s, tầm xa từ 350 – 5800 m. RBU-6000 được điều khiển bởi hệ thống Burya, ngoài nhiệm vụ chính là chống tàu ngầm và tàu chiến khác, RBU-6000 còn dùng để oanh kích các mục tiêu bờ biển. Ngoài ra Petya-III còn có 10 trái ngư lôi cỡ 400 mm

Khả năng phòng thủ cũng như chiến đấu của Petya rất hạn chế vì tất cả hỏa lực của nó điều là hỏa lực trực tiếp có tầm xạ kích hiệu quả dưới 10 km, trong khi đó các tàu chiến hiện tại đều dùng hỏa tiễn hải đối hải với tầm bắn lên đến hàng trăm km. Tốc độ của Petya khá chậm 29 hải lý/giờ. Tuy nhiên với điều kiện kinh phí cho hải quân còn thấp, Việt Nam vẫn duy trì hạm đội Petya, nhưng với chức năng phòng thủ các cảng sông mà thôi.

Share this post


Link to post
Share on other sites

V. Hà lấy nguồn từ đâu? Sao ko thấy hình? Cho nguồn đi, tôi tìm cách đưa hình lên cho.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đa phần thì cả thế giới đều biết thông tin chung chung về tình hình của nhau, nhưng trong quân sự thì bí mật quân sự là điều đâu dễ dàng public như thế này. Tuy phần lớn số lượng và chủng loại là như vậy, nhưng bên trong thì tất nhiên không phải là như vậy

Dạ đây chú ạ, Loại này việt nam chắc sắp thanh lý rồi chú ạ

http://vndefence.info/modules.php?catid=22...&op=viewcat

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vui lòng đăng nhập để bình luận

Bạn sẽ có thể bình luận sau khi đăng nhập



Đăng nhập ngay