Thiên Sứ

Bản Kiều Nôm Cổ Nhất Việt Nam

1 bài viết trong chủ đề này

Lộ diện bản Kiều Nôm cổ nhất Việt Nam

doisongphapluat

Posted Image

Tôi đã viết về ông Nguyễn Khắc Bảo, tên thường gọi là ông Lang Chọi, ở số 8, đường Trần Hưng Đạo, TP. Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh với khía cạnh là tay chơi tiền cổ, đồ cổ được xếp hạng. Quá trình trao đổi, ông thường gắn những sự việc rất đời phù hợp với những câu Kiều. Tôi tìm tiền cổ, đồ cổ thì nhìn thấy một tủ đựng những quyển sách đã cũ, bằng giấy bản. Chợt nghĩ một cách thiển cận rằng, sách thuốc của "thầy lang" ấy mà. Thế nhưng, bên ngoài tủ đựng những cuốn sách mà tôi cho rằng, đó là bí quyết để kiếm cơm hàng ngày của ông lại có một tấm hình gây sự chú ý. Đó là một người đàn ông đứng dưới phông chữ của một cuộc hội thảo về Đại thi hào Nguyễn Du. Hỏi ra mới biết, ông Bảo là người giàu có nhất Việt Nam về Truyện Kiều, nhất là những bản gốc bằng chữ Nôm. Hành trình sưu tầm những bản Kiều Nôm cổ đó được "giang hồ đồn thổi" có khá nhiều chi tiết thú vị, công phu thể hiện

"Thầy lang" bén duyên Kiều

ông Bảo tự hào với cái gốc gác cả nhà làm "thầy lang". ông Bảo nói rằng: "Nếu không bỏ nghề dạy học, về làm "thầy lang" thì cũng chẳng có điều kiện để sưu tầm những bản Kiều Nôm cổ. Tức là nghề "thầy lang" gắn tôi với Truyện Kiều". Thế này nhé, ông Bảo là học sinh cấp III Hàn Thuyên ngày xưa. Cái ngôi trường nổi nhất, nhì xứ Kinh Bắc ấy. ông học cùng lứa với nhà văn Đỗ Chu. ông kể: "Tôi giỏi môn toán hơn văn. Tôi được đi thi học sinh giỏi cả văn lẫn toán toàn miền Bắc. Điểm tổng kết là 4 văn và 5 toán (thời điểm đó, hệ số điểm 5 là cao nhất), được chọn vào học khoa Toán của trường Đại học Sư phạm. Tôi trở thành giáo viên dạy toán đến năm 1989 thì về nghỉ mất sức để nối nghiệp "thầy lang" gia truyền của gia đình". Khi về làm thuốc, ông Bảo phải trang bị lại vốn chữ Hán để phục vụ cho nghề mưu sinh hàng ngày. Vì thế, phải đọc thông tường những cuốn sách viết về thuốc do cha, ông để lại. Thế nhưng cái đặc biệt của sách thuốc này là nửa trên viết bằng chữ Hán, nửa dưới viết bằng thơ Nôm lục bát. Chữ Hán thì được cha, ông dạy đủ để làm thuốc. Khi nghỉ dạy học, về với nghề thuốc, ông mới tìm tòi để biết những chỗ được diễn giải bằng chữ Nôm ấy có nghĩa như thế nào? ông không hề được cha, ông dạy chữ Nôm. Đầu thế kỷ XX, khi ông Bảo bắt đầu lớn thì chữ Nôm vẫn còn đang "bôn ba, khó nhọc" tìm người học lắm. Phong trào chung của người dân khi đó là học chữ quốc ngữ, ghét chữ Hán và không thích chữ Nôm. Chữ Hán gần như đi vào đường cụt, chẳng ai học, chữ Nôm thì không được màng tới, dù rằng những gia đình gia phong, nho nhã vẫn dạy con học song song cả chữ Nho và chữ quốc ngữ. Thời đó, chữ Hán và chữ Nho được gói gọn trong câu của cụ Tú Xương rằng: "Nào có ra gì cái chữ nho/ ông nghè, ông cống cũng nằm co/ Sao bằng đi học làm thầy phán/ Sáng rượu sâm banh, tối sữa bò"... "Tôi kế tục nghề gia truyền của gia đình, biết chữ Hán nhưng muốn đọc được chữ Nôm để hiểu ngọn ngành của thuốc, thế nhưng không có người dạy. Trong tủ sách viết về thuốc của các cụ để lại có một bản Kiều bằng giấy bản, viết bằng chữ Nôm. Tôi lấy bản Kiều chữ Nôm đó để làm tài liệu học" - ông Bảo kể. Vì được trang bị thông thạo chữ Hán rồi nên ông Bảo học chữ Nôm rất nhanh. ông tìm đọc những sách của các cây đại thụ viết về Truyện Kiều, về chữ Nôm như cụ Đào Duy Anh, Nguyễn Tài Cẩn, Vũ Văn Kính. Trong bản Kiều của các cụ để lại có những chữ khác với bản Kiều của cụ Đào Duy Anh. Cụ Đào Duy Anh giải rằng cụ tự xây dựng bản Truyện Kiều trên cơ sở một bản Kiều Nôm cổ. Đối chiếu bản Kiều Nôm cổ của cụ Đào Duy Anh với bản Kiều Nôm cổ do cha ông để lại, ông Bảo thấy có sự khác nhau... ông tự đặt kế hoạch cho mình là phải đi tìm các bản Kiều Nôm cổ khác để biết vì sao những bản Kiều Nôm cổ khắc bằng ván, trên giấy bản lại có những chỗ khác nhau. Bản Kiều Nôm cổ nhất đang ở đâu?

Hành trình thú vị

Đếm trong tủ sách, tôi phát hiện ra 52 bản Kiều Nôm. ông Bảo tự hào rằng: "Đó là tài sản vô giá, lớn nhất về Kiều của Việt Nam. Thư viện Quốc gia, thư viện của Viện Hán - Nôm, thư viện nước ngoài (Trường sinh ngữ Paris, thư viện Anh quốc - chỉ có 1 bản), tủ sách của những người chuyên nghiên cứu Kiều, yêu Kiều được gọi là đại gia về Kiều ở nghĩa đen cũng chỉ có đến 20 bản Kiều Nôm chính, được khắc trên giấy bản. Tôi cũng có 20 bản Kiều Nôm trùng với họ nhưng có 32 bản Kiều Nôm khác mà không ai có". ông Bảo đi Hà Nội, Vĩnh Phúc, Nghệ An, Bắc Giang, Hà Tĩnh và các tỉnh miền Nam, đến đâu "ngửi thấy hơi" của bản Kiều Nôm cổ là ông tìm, xin photo; lân la, chuyện trò để xin được bản chính. ông có thuận lợi là làm thuốc nên quen nhiều thầy thuốc già, biết chữ Nho; là Hội viên của Hội Văn học Nghệ thuật nên có điều kiện quen nhiều nhà văn, nhà thơ, từ đó quen được nhiều hậu duệ của các vị quan lại, khoa bảng ngày xưa. ông đặt vấn đề với họ, biết ai có quyển Kiều Nôm thì giới thiệu để liên hệ. Người ta giới thiệu thì đến gặp, có được bản Kiều Nôm photo. Đi lại, chuyện trò về Kiều, "kích" vào tâm lý các cụ bằng chữ nghĩa rồi thì chữa bệnh. Có cụ nhà Nho thấy ông tận tâm với Kiều, những người biết nhân thân của ông thì cũng cho cả bản gốc; có bản thì phải đổi chác bằng hiện vật, bằng tiền...

Các bản Kiều Nôm cổ như "Văn Nguyên Đường - Duy Minh Thị 1879"; "Bảo Hoa Các Duy Minh - 1879" và "Thịnh Mỹ Đường - 1879" được sưu tầm bằng phong cách của thời hiện đại. Đọc tạp chí "Xưa và nay", ông Bảo phát hiện ra ông Trương Ngọc Tường ở Cai Lậy, Tiền Giang có bản Kiều Nôm. "Vì phải có bản Kiều Nôm mới hiểu để viết được như vậy" - ông Bảo giải thích. ông gọi điện thoại nhờ toà soạn tìm địa chỉ, số điện thoại của ông Tường để liên hệ. Qua tìm hiểu, ông Bảo miền Tây, ông Tường cũng là tay chơi tiền cổ có hạng ở ta đang sinh sống. Họ gặp nhau qua điện thoại nhiều lần, trao đổi về Kiều, về tiền cổ. Qua nhiều cuộc điện thoại đi, lại giữa đôi bên, khi đã hiểu đôi chút về nhau, ông Bảo đặt vấn đề xin photo bản Kiều Nôm cổ của ông Tường, nhờ ông tìm cho các bản Kiều Nôm khác ở quanh vùng... ông Tường cũng là người yêu Kiều, ông cất công tìm giúp bạn, cho bạn photo... Khi cầm bản Kiều Nôm gốc trên tay, ông Bảo nghĩ, mình trả công bạn như thế nào đây, vì bạn nhiệt tình quá dù khi đó chưa hề biết mặt nhau, chỉ quen, quý nhau qua điện thoại. Qua tìm hiểu, ông Bảo biết ông Tường đang tìm những đồng tiền cổ thời Đinh Tiên Hoàng. Vốn là tay chơi tiền cổ có hạng ở vùng Kinh Bắc, trong kho có sẵn những đồng tiền cổ thời Đinh Tiên Hoàng, ông liền gửi vào cho ông Tường. ông Tường có tiền cổ, ông Bảo có sách cổ... Sau đó, 2 ông đã gặp nhau, tay bắt mặt mừng...

Bản Kiều Nôm cổ "Quan Văn Đường - 1911" được tìm thấy gắn liền với một bậc "nữ Nho" cũ. Cụ này về Bắc Ninh ở với con. Chồng của vị "nữ Nho" này có bản Kiều Nôm gốc nhưng để tại nhà ở Yên Thế (tỉnh Bắc Giang). Thấy ông Bảo đi lại nhiều, cụ nói: "Yên tâm, tôi biết anh yêu Kiều, tôi sẽ bảo người nhà chuyển bằng xe khách xuống và đưa tận tay". ông Bảo vận động để được đưa cụ về Yên Thế với lý do là ngày xưa dạy học ở vùng đó, muốn lên thăm lại bạn bè và tiện lấy sách luôn. Cụ đồng ý. Về đến nhà ở Yên Thế, người vợ kế của cụ và ông Bảo nhận ra nhau. "Hoá ra vợ kế của cụ là học trò của tôi" - ông Bảo nói. Tìm mãi không thấy, cụ lại cho rằng, hay là để ở Bắc Ninh? Trên đường đi từ Yên Thế về cứ quen ai là "thầy lang", là con cháu của quan lại, khoa bảng, là nhà Nho là cụ dắt ông Bảo vào chơi, giới thiệu. Vì đi chơi nên cụ nhớ lại được rằng: Hình như bản Kiều Nôm cổ của mình cho một người bạn già ở Thổ Hà, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang mượn. Nhà người bạn này chỉ cách nhà ông có vài cây số, đi qua dòng sông Cầu nước chảy lơ thơ là đến. Một buổi sáng sớm đẹp trời, cụ đi bộ từ nhà mình sang Thổ Hà. Vì không dám chắc, cụ chỉ hỏi nước đôi thì cụ bạn bảo ngay: "Tôi có mượn của ông, tôi định vài bữa nữa, khoẻ hơn, sang ông chơi, gửi lại sách luôn thể". Cụ cầm bản Kiều Nôm cổ về, đem vào tận nhà, trao tận tay cho ông Bảo nói rằng: "Tôi đưa nàng Kiều về dinh đây" - mà chẳng kèm bất kỳ một điều kiện nào.

Bản "Duy Minh Thị - 1891" gắn với một Linh mục nổi tiếng nhiều sách. Đó là Linh mục Nguyễn Hữu Triết ở TP. Hồ Chí Minh, đã nhiều lần giành giải cao trong các cuộc triển lãm về sách. ông Bảo biết Linh mục Triết có bản Kiều Nôm cổ cũng thông qua một cuộc triển lãm sách. Sau đó, ông nhờ bạn bè trong giới chơi đồ cổ ở Sài thành tìm gặp Linh mục, thuyết phục Linh mục, xin photo bản Kiều cổ của Linh mục để làm tư liệu. Hai người yêu Kiều này lại đàm đạo với nhau qua điện thoại. Họ gắn với nhau từ sự khác biệt của chữ này trong bản Kiều cổ này với bản Kiều cổ khác. Khi Linh mục Triết ra Hà Nội về thăm ông Bảo. Họ gặp nhau như những người tri kỷ, chỉ nói toàn về Kiều, về những điển tích, về từ, ngữ trong Truyện Kiều...

Bản Kiều cổ nhất Việt Nam và 2 người mẹ của Nguyễn Du

Vì đi tìm sách nên ông Bảo cứ lân la, "vui đâu, chầu đấy". ông về Từ Sơn - vùng khoa bảng, quan lại ngày xưa. ông Bảo đọc gia phả của gia đình Nguyễn Du đến mức thuộc lòng nhiều đoạn và phát hiện ra một điều thú vị, trong gia phả của gia đình danh gia vọng tộc này có ghi danh đất Kinh Bắc. Cha của đại thi hào Nguyễn Du là cụ Nguyễn Nghiễm có rất nhiều vợ. Người mẹ đẻ ra đại thi hào Nguyễn Du được ghi trong gia phả dòng họ là người đẹp thôn Hoa Kiều, xã Hương Mạc, phủ Từ Sơn (cũ). Trong gia phả dòng họ Nguyễn ghi người vợ thứ 5 của cụ Nguyễn Nghiễm ở xã Tiêu Sơn, huyện Yên Phong, Bắc Ninh. ông hỏi người bạn già ở xã Tương Giang (thuộc thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh ngày nay): "Thôn Tiêu Sơn của Tương Giang bây giờ, ngày xưa thuộc địa phận hành chính của huyện Yên Phong đúng không? Xung quanh vùng này có nhà quan lại, đỗ đạt nào không?". Người bạn già bảo rằng, trước đây Tiêu Sơn là một xã của huyện Yên Phong nhưng đã chuyển về Từ Sơn từ lâu rồi. ở thôn có một gia đình quan phủ. Nhà, ngõ, ao xung quanh đó đều gắn với từ quan phủ như ngõ Quan phủ, ao Quan phủ. ông yêu cầu người bạn đưa sang đó ngay. Đó là nhà cụ Nguyễn Thịnh ở xóm Hưng Phúc, thôn Tiêu Sơn, xã Tương Giang, thị xã Từ Sơn. Đó là ngôi nhà cổ, có chiều sâu, kiểu của quan lại ngày xưa. Nhà có gian và có chái... Hai bên bàn thờ là đôi câu đối. Cụ Thịnh nói rằng, nhà có bức hoành phi nữa nhưng bán mất rồi, bán cho nhà ở xóm bên. ông Bảo cảm nhận, đây là một gia đình có nguồn cội danh gia vọng tộc, không đỗ đạt thì cũng làm quan lại trong triều đình phong kiến vì đôi câu đối rất chỉnh. "Tôi giật mình khi đọc 2 câu đối và nghĩ ngay đến dòng dõi nhà cụ Nguyễn Du" - ông Bảo trầm ngâm nói. ông phân tích, hai câu đối bằng chữ Hán như thế này: "Lưỡng triều danh tể tướng / Nhất thế đại Nho sư" nghĩa là: Là Tể tướng của 2 triều vua và làm thầy của cả một đời bấy giờ. Hai câu đối trên là do vua Lê Hiển Tông tặng cụ Nguyễn Nghiễm. Cụ Thịnh kể rằng: "Đó là đôi câu đối do các cụ để lại, cả hoành phi nữa. Thế nhưng, hoành phi đã bán đi rồi. Hồi đó cũng có ý định bán đôi câu đối nhưng không ai mua". Cụ Thịnh dẫn ông Bảo sang nhà mua hoành phi. Bức hoành phi ghi: "Dịch thế thư hương /Càn Long tân tỵ niên - lạp tiền nhất nhật - Chánh sứ đức bảo đề". Nghĩa nôm là đời này sang đời khác được hưởng vinh quang của sách vở /4 chữ trên là của Chánh sứ đời Càn Long sang nước ta năm Tân Tỵ tặng. Gia phả của gia đình của cụ Nguyễn Du cũng ghi như vậy. Câu đó là Chánh sứ của vua Càn Long nhà Thanh (Trung Quốc) tặng cha của cụ Nguyễn Nghiễm.

Trong nhà không còn gì ngoài đôi câu đối. Cụ Thịnh chỉ ra đồng, ở ngoài đồng có một cái mộ, có chữ Nho. Chữ Nho khắc ở mộ là "Nghệ An trấn/ Đức Thọ phủ/ Tiên Điền xã nhân dã/ Nguyễn Hầu chi mộ". Tức là người nằm ở mộ quê ở xã Tiên Điền, phủ Đức Thọ, trấn Nghệ An và là Nguyễn Hầu. Dòng kế bên là "Minh Mệnh thập nhất niên/ Tri phủ Vĩnh Tường tạo tác", nghĩa là người làm bia là con, tạo bia này là năm Minh Mệnh và người tạo bia đó là Tri phủ Vĩnh Tường. Trong gia phả, anh trai của cụ Nguyễn Du có con trai làm Tri phủ Vĩnh Tường. Vậy kết luận mộ có khắc các chữ trên là mộ của anh trai ruột, cùng cha, khác mẹ với cụ Nguyễn Du, tên là Nguyễn Trừ. Sau khi phát hiện ra những điều thú vị trên, ông Bảo gọi điện vào Bảo tàng Nguyễn Du. Những người của Bảo tàng đã ra xem mà ngỏ ý mua lại đôi câu đối, hoành phi. Người đang giữ hoành phi không bán. ông Bảo tham mưu cho gia đình cụ Thịnh rằng đó là cơ sở duy nhất để khẳng định gia đình cụ thuộc dòng dõi nhà Nguyễn Du. Sau đó, họ Nguyễn đã đối chiếu gia phả, đã mời gia đình cụ Thịnh về Tiên Điền nhận họ hàng.

Để trả ơn ông Bảo đã phát hiện ra gia đình mình có dòng dõi danh gia vọng tộc, cụ Thịnh đã tìm trong số đồ sót lại cuối cùng của gia đình, phát hiện ra còn một bản Kiều Nôm, bằng giấy bản, bị rách bìa. Bản Kiều Nôm này khác với tất cả các bản ông Bảo đã sưu tầm được trước đó, vì nội dung rất đặc biệt. Theo ông Bảo, đó là bản Kiều Nôm cổ nhất được xác định là 1847 - 1848. ông Bảo giải thích: Văn bản Kiều Nôm đó viết thể hiện ở 2 phần khác nhau. Năm 1847 là năm cuối cùng trị vì của vua Thiệu Trị, năm 1848 là năm đầu tiên lên ngôi của vua Tự Đức. Thường thì đời vua nào cũng vậy, sách thời đó không thể có từ, chữ, ngữ phạm huý được - tức là không có tên của vua trong sách. Nửa đầu của bản Kiều Nôm này không kiêng huý Tự Đức, nửa sau thì kiêng triệt để. Vì sao lại như vậy? Tên của vua Tự Đức tên là Thì. ông Ngô Thì Nhậm thời đó phải đổi tên là Ngô Thời Nhiệm...Quan mà trùng tên với vua còn phải đổi thì sách không thể có chữ phạm huý được. Kiêng chữ Thì thể hiện như thế nào? Khi khắc chữ Thì thì người ta bớt đi một nét. Nửa đầu văn Kiều Nôm này không bớt nét, nửa sau thì bớt. Tức là nửa đầu được sắp bản in ván gỗ khi vua Tự Đức chưa lên ngôi và nửa sau thì lên ngôi rồi, nên phải bỏ bớt nét đi.

Chẳng biết các nhà khoa học xác định bản Kiều Nôm đó cổ nhất hay không nhưng từ việc yêu Kiều, sưu tầm được nhiều bản Kiều Nôm cổ, tìm ra dòng dõi nhà Nguyễn Du ở Bắc Ninh cũng đã là một kỳ tích của ông Bảo đóng góp với đời. Chia tay ông trong một buổi sáng trời mưa phùn ở Kinh Bắc vào tháng ăn chơi - tháng Giêng, lòng tôi cứ nao nao về câu mở đầu của Truyện Kiều: "Trăm năm trong cõi người ta /Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau /Trải qua một cuộc bể dâu /Những điều trông thấy mà đau đớn lòng...".

Vũ Thu Thêm

Bắc Ninh cuối Giêng, đầu Hai!

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vui lòng đăng nhập để bình luận

Bạn sẽ có thể bình luận sau khi đăng nhập



Đăng nhập ngay