phoenix

Lễ Vu lan và Ngày "xá tội vong nhân"

14 bài viết trong chủ đề này

Cứ đến rằm tháng 7, người Việt lại không quên lễ cúng "Xá tội vong nhân" (cúng cô hồn) và soạn lễ Vu lan. Rất nhiều người nhầm lẫn hai việc này thành một việc. Lễ "Vu lan bồn" xuất hiện trong điển tích Phật giáo với chuyện Mục Kiều Liên khổ hạnh để báo hiếu mẹ.

Còn "xá tội vong nhân" là quan niệm dân gian đến ngày rằm tháng 7, những vong hồn còn lang bạt nơi trần gian chưa về được với cõi âm sẽ được bắc cầu cho siêu độ. Có quan điểm cho rằng đó là ngày cõi âm mở cửa địa ngục để cho các linh hồn được siêu thoát, về cõi trời để được tái sinh. Để cho các vong hồn này không quấy nhiễu đời sống và có thể siêu thoát thì người ta cúng đồ gạo muối, bỏng, khoai, ..... (những thứ dân dã, và thường cho trẻ con). Lễ này cũng được đưa vào giáo lý Phật giáo (tích ông A Nan Ðà (A Nan), với một con quỷ) và thường được Phật giáo tổ chức đọc kinh cầu siêu độ cho các vong linh cô hồn. Năm ngoái, tại 3 miền ở Việt Nam, thiền sư Thích Nhất Hạnh đã cùng nhiều phật tử trong và ngoài nước làm lễ "Đại trai đàn chẩn tế" lớn nhằm mục đích này. Nếu như khu vực ngoài Bắc chủ yếu nhằm vào mục đích cúng cầu siêu "cúng chúng sinh" thì khu vực miền trong (từ Huế trở vào) thường chú trọng vào ý nghĩa "Vu lan báo hiếu". Ở vùng Vĩnh Phú, Phú Thọ gần Đền Hùng, rất phổ biến tục cúng cháo. Cháo se được nấu, chia ra các bát nhỏ, bày ra phía đường để mời các vong hồn.

Ngoài ra, trong sách sử người ta còn thấy ghi nhận những lễ cúng cho tiết Trung Nguyên - rằm tháng bảy (cùng với tiết Thượng nguyên - rằm tháng giêng; tiết Hạ nguyên - rằm tháng mười). " Mười lăm tháng bảy là tiết Trung Nguyên, cũng là quỷ tiết.

- Ngày trung nguyêng tháng bảy, địa quan xuống trần, phán xét thiện ác nhân gian, do đó đạo sĩ thì tụng kinh, quỷ đói tù đồ cũng được giải thoát.

Trong “Tu Hành Ký” giải thích rõ về ngày đó như vậy. " (Trích: truyện Cổ Long)

Người Nhật Bản cũng có lễ rằm tháng 7 (AL) với quan niệm đó là ngày cửa địa ngục mở. Để đón thân nhân là các vong linh được giải thoát, họ sắm sửa đò cúng, làm đèn lồng để dẫn đương cho tổ tiên và thả đồ ăn xuống sông, biển để họ nhận được.

Nó tương tự như ý nghĩa báo hiếu trong lễ Vu lan của người Việt.

Cũng trong tháng bảy, người ta còn thấy tích Mưa ngâu vào ngày 7/7 (AL). Trung Quốc có câu chuyện Ngưu Lang Chức Nữ với cầu Ô thước. Nhật Bản có lễ Tanabana với tích tương tự (lấy của Trung Quốc). Ở Việt Nam cũng lấy tích này để làm điển cố cho ngày 7/7 (AL). Đặc biệt, ngày 7/7(AL) thường là có mưa. Năm nay, ở VN mưa khá lớn. Nhất là ở Sài Gòn, mưa lớn kèm lốc xoáy khiến nhiều cây cối bị đổ và nhà bị tốc mái. Rõ ràng, hiện tượng này phải có liên quan đến chu kỳ thiên văn và lịch số.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Sự tích ngày rằm tháng Bảy[/size]

Tháng 7 âm lịch, người Việt có một ngày lễ mà giới tăng ni Phật tử thường gọi là ngày lễ Vu Lan. Đây là một đại lễ báo hiếu cha mẹ, ông bà, tổ tiên đã khuất – một tập tục đáng quý, đáng trọng của người Việt, thể hiện tấm lòng “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Rằm tháng 7 Âm lịch cũng là ngày xá tội vong nhân mà dân gian gọi nôm na là ngày cúng chúng sinh.

Tháng 7 còn là tháng mưa Ngâu – gắn với sự tích ông Ngâu bà Ngâu hay còn gọi là tích Ngưu Lang - Chức Nữ.

Chúng ta cùng tìm hiểu về những sự tích, tập tục đầy tính nhân văn này nhé!

Posted Image

Xuất xứ lễ Vu Lan

Xuất phát từ sự tích về Bồ tát Mục Kiền Liên đại hiếu đã cứu mẹ của mình ra khỏi kiếp ngạ quỷ. Vu Lan là ngày lễ hằng năm để tưởng nhớ công ơn cha mẹ (và tổ tiên nói chung) - cha mẹ của kiếp này và của các kiếp trước.

Theo kinh Vu Lan thì ngày xưa, Mục Kiền Liên đã tu luyện thành công nhiều phép thần thông. Mẫu thân ông là bà Thanh Đề đã qua đời, ông tưởng nhớ và muốn biết bây giờ mẹ như thế nào nên dùng mắt phép nhìn khắp trời đất để tìm. Thấy mẹ mình, vì gây nhiều nghiệp ác nên phải sanh làm ngạ quỷ, bị đói khát hành hạ khổ sở, ông đã đem cơm xuống tận cõi quỷ để dâng mẹ. Tuy nhiên do đói ăn lâu ngày nên mẹ của ông khi ăn đã dùng một tay che bát cơm của mình đi tranh không cho các cô hồn khác đến tranh cướp, vì vậy khi thức ăn đưa lên miệng thức ăn đã hóa thành lửa đỏ.

Mục Liên quay về tìm Phật để hỏi cách cứu mẹ, Phật dạy rằng: "dù ông thần thông quảng đại đến đâu cũng không đủ sức cứu mẹ ông đâu. Chỉ có một cách nhờ hợp lực của chư tăng khắp mười phương mới mong giải cứu được. Ngày rằm tháng bảy là ngày thích hợp để vận động chư tăng, hãy sắm sửa lễ cúng vào ngày đó".

Posted Image

Làm theo lời Phật, mẹ của Mục Liên đã được giải thoát. Phật cũng dạy rằng chúng sanh ai muốn báo hiếu cho cha mẹ cũng theo cách này (Vu Lan Bồn Pháp). Từ đó ngày lễ Vu Lan ra đời.

Sự tích ngày xá tội vong nhân:

Sự tích lễ cúng cô hồn như sau: Cứ theo "Phật Thuyết Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La Ni Kinh" mà suy thì việc cúng cô hồn có liên quan đến câu chuyện giữa ông A Nan Ðà, thường gọi tắt là A Nan, với một con quỷ miệng lửa (diệm khẩu) cũng gọi là quỷ mặt cháy (diệm nhiên). Có một buổi tối, A Nan đang ngồi trong tịnh thất thì thấy một con ngạ quỷ thân thể khô gầy, cổ nhỏ mà dài, miệng nhả ra lửa bước vào. Quỷ cho biết rằng ba ngày sau A Nan sẽ chết và sẽ luân hồi vào cõi ngạ quỷ miệng lửa mặt cháy như nó. A Nan sợ quá, bèn nhờ quỷ bày cho phương cách tránh khỏi khổ đồ. Quỷ đói nói: "Ngày mai ông phải thí cho bọn ngạ quỷ chúng tôi mỗi đứa một hộc thức ăn, lại vì tôi mà cúng dường Tam Bảo thì ông sẽ được tăng thọ mà tôi đây cũng sẽ được sanh về cõi trên".

Posted Image

A Nan đem chuyện bạch với Ðức Phật. Phật bèn đặt cho bài chú gọi Là "Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La Ni", đem tụng trong lễ cúng để được thêm phước. Phật tử Trung Hoa gọi lễ cúng này là Phóng diệm khẩu, tức là cúng để bố thí và cầu nguyện cho loài quỷ đói miệng lửa, nhưng dân gian thì hiểu rộng ra và trại đi thành cúng cô hồn, tức là cúng thí cho những vong hồn vật vờ không nơi nương tựa vì không có ai là thân nhân trên trần gian cúng bái. Vì tục cúng cô hồn bắt nguồn từ sự tích này, cho nên ngày nay người ta vẫn còn nói cúng cô hồn là Phóng diệm khẩu. Có khi còn nói tắt thành Diệm khẩu nữa. Diệm khẩu, từ cái nghĩa gốc là (quỷ) miệng lửa, nay lại có nghĩa là cúng cô hồn. Ðiều này góp phần xác nhận nguồn gốc của lễ cúng cô hồn mà chúng tôi đã trình bày trên đây. Phóng diệm khẩu mà nghĩa gốc là "thả quỷ miệng lửa", về sau lại được hiểu rộng thêm một lần nữa thành "tha tội cho tất cả những người chết". Vì vậy, ngày nay mới có câu : "Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân".

Posted Image

Nhưng lễ cúng cô hồn khác với lễ Vu Lan dù được cử hành trong cùng Ngày Rằm. Một đằng là để cầu siêu cho cha mẹ nhiều đời được siêu thoát, một đằng là để bố thí thức ăn cho những vong hồn chưa được siêu thoát, những vong hồn không nơi nương tựa, không người cúng kiếng.

Sự tích Ngưu Lang – Chức Nữ

Thuở xưa, có vị thần chăn trâu của Ngọc Hoàng tên là Ngưu Lang, vì say mê nhan sắc của một tiên nữ phụ trách việc dệt vải tên là Chức Nữ nên bỏ bễ việc chăn trâu, để trâu đi nghênh ngang vào điện Ngọc Hư. Chức Nữ cũng vì mê tiếng tiêu của Ngưu Lang nên trễ nải việc dệt vải. Ngọc Hoàng thượng đế giận giữ, bắt cả hai phải ở cách xa nhau, người đầu sông Ngân, kẻ cuối sông.

Nhưng về sau, Ngọc Hoàng nghĩ lại, thương tình nên ra ơn cho Ngưu Lang và Chức Nữ mỗi năm được gặp nhau một lần vào đêm mùng 7 tháng Bảy âm lịch. Khi tiễn biệt nhau, Ngưu Lang và Chức Nữ khóc sướt mướt. Nước mắt của họ rơi xuống trần hoá thành cơn mưa và được người dưới trần gian đặt tên là mưa ngâu(thông thường vào tháng Bảy âm lịch) và gọi họ là ông Ngâu bà Ngâu.

Thời bấy giờ sông Ngân trên thiên đình không có một cây cầu nào cả nên Ngọc Hoàng mới ra lệnh cho làm cầu để Ngưu Lang và Chức Nữ được gặp nhau. Các phường thợ mộc ở trần thế được vời lên trời để xây cầu. Các phường thợ mộc mạnh ai nấy làm, không ai nghe ai. Kẻ muốn làm kiểu này, người muốn làm kiểu kia, cãi nhau chí chóe. Đến kỳ hạn mà cầu vẫn không xong. Ngọc Hoàng bực tức, bắt tội các phường thợ mộc hóa kiếp làm quạ lấy đầu sắp lại làm cầu cho Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau.

Bị hoá làm quạ, các phường thợ mộc lại càng giận nhau hơn. Vì thế cứ tới tháng bảy là loài quạ phải họp nhau lại để chuẩn bị lên trời bắc Ô kiều. Khi gặp nhau, nhớ lại chuyện xưa nên chúng lại lao vào cắn mổ nhau đến xác xơ lông cánh.

Ngưu Lang và Chức Nữ lên cầu, nhìn xuống thấy một đám đen lúc nhúc ở dưới chân thì lấy làm gớm ghiếc, mới ra lệnh cho đàn chim ô thước mỗi khi lên trời làm cầu thì phải nhổ sạch lông đầu. Từ đó, cứ tới tháng bảy thì loài quạ lông thì xơ xác, đầu thì rụng hết lông.

Có dị bản khác cho rằng tên gọi của Ô kiều là cầu Ô Thước do chim Ô (quạ) và chim Thước (chim Khách) kết cánh tạo ra.

Nguồn: Vietnamnet.vn

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Mời cách ACE nghe bài hát Bông hồng cài áo:

Bài hát Bông hồng cài áo

Vietsciences-Thích Nhất Hạnh 03/05/05

Ý niệm về mẹ thường không thể tách rời ý niệm về tình thương. Mà tình thương là một chất liệu ngọt ngào, êm dịu và cố nhiên là ngon lành. Con trẻ thiếu tình thương thì không lớn lên được. Người lớn thiếu tình thương thì cũng không "lớn" lên được. Cằn cỗi héo mòn.

Ngày mẹ tôi mất, tôi viết trong nhật ký: Tai nạn lớn nhất đã xẩy ra cho tôi rồi! Lớn đến mấy mà mất mẹ thì cũng như không lớn, cũng cảm thấy bơ vơ, lạc lõng, cũng không hơn gì trẻ mồ côi. Những bài hát, bài thơ ca tụng tình mẹ bài nào cũng dễ, cũng hay. Người viết dù không có tài ba, cũng có rung cảm chân thành; người hát ca, trừ là kẻ không có mẹ ngay từ thuở chưa có ý niệm, ai cũng cảm động khi nghe nói đến tình mẹ.

Những bài hát ca ngợi tình mẹ đâu cũng có, thời nào cũng có. Bài thơ mất mẹ mà tôi thích nhất, từ hồi nhỏ, là một bài thơ rất giản dị. Mẹ đang còn sống, nhưng mỗi khi đọc bài thơ ấy thì sợ sệt, lo âu.... sợ sệt lo âu một cái gì còn xa, chưa đến, nhưng chưa chắc chắn phải đến :

Năm xưa tôi còn nhỏ

Mẹ tôi đã qua đời !

Lần đầu tiên tôi hiểu

Thân phận trẻ mồ côi.

Quanh tôi ai cũng khóc

Im lặng tôi sầu thôi

Để dòng nước mắt chảy

Là bớt khổ đi rồi...

Hoàng hôn phủ trên mộ

Chuông chùa nhẹ rơi rơi

Tôi thấy tôi mất mẹ

Mất cả một bầu trời.

Cầu nguyện cho con

Một bầu trời thương yêu dịu ngọt, lâu quá mình đã bơi lội trong đó, sung sướng mà không hay, để hôm nay bừng tỉnh thì thấy đã mất rồi. Người nhà quê Việt nam không ưa cách nói cao kỳ. Nói rằng bà mẹ già là kho tàng của yêu thương, của hạnh phúc thì cũng đã là cao kỳ rồi. Nói mẹ già là một thứ chuối, một thứ xôi, một thứ đường ngọt dịu, người dân quê đã diễn tả được tình mẹ một cách vừa giản dị vừa đúng mức:

Mẹ già như chuối ba hương

Như xôi nếp một, như đường mía lau.

Ngon biết bao! Những lúc miệng vừa đắng vừa nhạt sau một cơn sốt, những lúc như thế thì không có món ăn gì có thể gợi được khẩu vị của ta. Chỉ khi nào mẹ đến, kéo chăn đắp lên ngực cho ta, đặt bàn tay (Bàn tay ? hay là tơ trời đâu la miên ?) trên trán nóng ta và than thở "khổ chưa, con tôi ", ta mới cảm thấy đầy đủ, ấm áp, thấm nhuần chất ngọt của tình mẹ, ngọt thơm như chuối ba hương, dịu như xôi nếp một, và đậm đà lịm cả cổ họng như đường mía lau. Tình mẹ thì trường cửu, bất tuyệt; như chuối ba hương, đường mía lau, xôi nếp một ấy không bao giờ cùng tận.

Công cha như núi Thái sơn,

nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

Nước trong nguồn chảy ra thì bất tuyệt. Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời. Không có mẹ, tôi sẽ không biết thương yêu. Nhờ mẹ mà tôi được biết tình nhân loại, tình chúng sinh; nhờ mẹ mà tôi biết được thế nào là tình nhân loại, tình chúng sinh; nhờ mẹ mà tôi có được chút ý niệm về đức từ bi. Vì mẹ là gốc của tình thương, nên ý niệm mẹ lấn trùm ý thương yêu của tôn giáo vốn dạy về tình thương.

Mẹ là một dòng suối, một kho tàng vô tận, vậy mà lắm lúc ta không biết, để lãng phí một cách oan uổng. Mẹ là một món qùa lớn nhất mà cuộc đời tặng cho ta, những kẻ đã và đang có mẹ. Đừng có đợi đến khi mẹ chết rồi mới nói: "trời ơi, tôi sống bên mẹ suốt mấy mươi năm trời mà chưa có lúc nào nhìn kỹ được mặt mẹ!". Lúc nào cũng chỉ nhìn thoáng qua. Trao đổi vài câu ngắn ngủi. Xin tiền ăn quà. Đòi hỏi mọi chuyện. Ôm mẹ mà ngủ cho ấm. Giận dỗi. Hờn lẫy. Gây bao nhiêu chuyện rắc rối cho mẹ phải lo lắng, ốm mòn, thức khuya dậy sớm vì con. Chết sớm cũng vì con. Để mẹ phải suốt đời bếp núc, vá may, giặt rửa, dọn dẹp. Và để mình bận rộn suốt đời lên xuống ra vào lợi danh. Mẹ không có thì giờ nhìn kỹ con. Và con không có thì giờ nhìn kỹ mẹ. Để khi mẹ mất mình có cảm nghĩ: "Thật như là mình chưa bao giờ có ý thức rằng mình có mẹ!"

...

Chiều nay khi đi học về, hoặc khi đi làm việc ở sở về, em hãy vào phòng mẹ với một nụ cười thật trầm lặng và thật bền. Em sẽ ngồi xuống bên mẹ. Sẽ bắt mẹ dừng kim chỉ, mà đừng nói năng chi. Rồi em sẽ nhìn mẹ thật lâu, thật kỹ để trông thấy mẹ và để biết rằng mẹ đang còn sống và đang ngồi bên em. Cầm tay mẹ, em sẽ hỏi một câu ngắn làm mẹ chú ý. Em hỏi: " Mẹ ơi, mẹ có biết không ?" Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên và sẽ hỏi em, vừa hỏi vừa cười "Biết gì?" Vẫn nhìn vào mắt mẹ, vẫn giữ nụ cười trầm lặng và bền, em sẽ nói: "Mẹ có biết là con thương mẹ không ?" Câu hỏi sẽ không cần được trả lời. Cho dù người lớn ba bốn mươi tuổi người cũng có thể hỏi một câu như thế, bởi vì người là con của mẹ. Mẹ và em sẽ sung sướng, sẽ sống trong tình thương bất diệt. Mẹ và em sẽ đều trở thành bất diệt và ngày mai, mẹ mất, em sẽ không hối hận, đau lòng.

...

Ngày Vu Lan ta nghe giảng và đọc sách nói về ngài Mục Kiền Liên và về sự hiếu đễ. Công cha, nghĩa mẹ. Bổn phận làm con. Ta lạy Phật cầu cho mẹ sống lâu. Hoặc lạy mười phương Tăng chú nguyện cho mẹ được tiêu diêu nơi cực lạc, nếu mẹ đã mất. Con mà không có hiếu là con bỏ đi. Nhưng hiếu thì cũng do tình thương mà có; không có tình thương hiếu chỉ là giả tạo, khô khan, vụng về, cố gắng mệt nhọc. Mà có tình thương là có đủ rồi. Cần chi nói đến bổn phận. Thương mẹ, như vậy là đủ. Mà thương mẹ không phải là một bổn phận.

....

Đó là điệp khúc tôi muốn ca hát cho anh nghe hôm nay. Và anh hãy ca, chị hãy ca cho cuộc đời đừng chìm trong vô tâm, quên lãng. Đóa hoa mầu hồng tôi cài trên áo anh rồi đó. Anh hãy sung sướng đi.

*

Lược trích tản văn của thiền sư Thích Nhất Hạnh

Nguồn: http://www.thuvienhoasen.org/

Share this post


Link to post
Share on other sites

Lời Giới Thiệu: Có một số người thắc mắc ngày lễ Vu Lan là dịp để con cái cúng dường trai tăng hầu nhờ đó mà cha mẹ quá vãng được siêu thăng. Nhân mùa Vu Lan Báo Hiếu, Hoa Sen xin giới thiệu một vài quan điểm về Vu Lan Bồn: “Vu Lan, Mùa Báo Hiếu” hay là “Tháng Bẩy Ngày Rằm Xá Tội Vong Nhân” của tác giả Tâm Viên Ý Mã.

Hằng năm, cứ đến rằm tháng bẩy, là nhiều gia đình Việt Nam và Trung Hoa lại bận rộn thiết lễ, nào là Vu Lan, nào là cúng cô hồn lang thang vô thừa nhận. Chùa chiền thì nấu cháo đổ vào lá đa bầy la liệt ngoài cổng với vài xấp áo giấy, vài tờ giấy vàng và lập lòe một bó nhang để những cô hồn vô thừa nhận nương theo làn khói mà về hưởng chút cháo thí! Những nhà làm ăn buôn bán thì lễ vật linh đình hơn, nào là gà, vịt, heo quay, hay ít lắm thì cũng cái đầu heo, cho nó “nặng lễ dễ kêu”, mấy chú cô hồn lỡ hưởng của lễ rồi thì mai mốt hẳn là phải cong cổ ra mà phù hộ gia chủ cho nó đáng đồng tiền bát gạo chứ! Thậm chí ngay đến tài xế lái xe công xa, mà cũng nhiều ông mè nheo được nhà nước trích quỹ đặc biệt chi tiền cho các ông thiết lễ vì bị các ông dọa “không cúng cô hồn, rủi xe lật ai chịu trách nhiệm”. Thế là cấp trên hết vía, thì “trước lễ sau ăn”, chi cho ông tài thiết lễ, mình cũng được nhậụ ké, được tiếng rộng rãi, lại khỏi chịu trách nhiệm.

Riêng đối với Phật tử, ngày rằm tháng bảy lễ Vu Lan Bồn, điển tích thì hầu hết Phật tử đều thuộc lòng vì năm nào cũng nghe nhắc đi nhắc lại trên đủ loại chương trình phát thanh, phát hình và báo chí, cho nên kẻ viết bài này chỉ xin tóm tắt rằng có một đệ tử của Đức Phật tên là Mục Kiền Liên, tu hành đắc đạo đã chứng A La Hán, có thần thông. Mẹ chết, ngài dùng thần thông xuống địa ngục tìm thấy mẹ đang chịu hình phạt đói khát, ngài dâng lên chén cơm. Nhưng bà mẹ vừa nuốt vào cổ thì miếng cơm đã hóa thành than hồng đốt cháy cổ bà. Quá thương xót mẹ, Ngài về cầu cứu với Phật. Đức Phật dạy rằng tới ngày rằm tháng bảy, hãy thiết lễ trai tăng, thỉnh cầu chư tăng đến để thọ trai, nhờ sức tâm thanh tịnh sau ba tháng tịnh tu mùa hạ, bà sẽ được giải cứu.

Ngài Mục Kiền Liên vâng lời Phật, và quả nhiên, mẹ ngài thoát khỏi địa ngục.

Đức Phật đã giác ngộ được bản thể, thoát khỏi vòng luân hồi trong sáu nẻo, ngài biết lý do chính đã nhận chìm con người trong sinh tử là vì cái tật gom góp, tích lũy từ vật chất tới tình cảm, chỉ muốn mọi thứ là của riêng mình, của thân nhân mình, của bè đảng mình, của đất nước mình, vân vân, một cái tật đã có từ niệm vô minh đầu tiên, từ thời vô thủy, mà thuốc chữa thì chỉ có một bài thôi, là bài xả bỏ, còn gọi là bố thí. Cho nên đệ tử của Phật đi trên con đường của Ngài đã xả bỏ hết, từ tình cảm tinh thần cho đến của cải vật chất, vì chỉ có xả bỏ thì tâm mới không bị ràng buộc, hạn hẹp vào thói quen thu thập, cất giữ làm cho mọi người nghi kỵ, xa lánh nhau. Chỉ có xả bỏ thì tâm hồn mới tự giải thoát khỏi sự kìm kẹp của sở hữu, tham sân si, bước được bước đầu trên con đường giải thoát khỏi luân hồi, sinh tử.

Cho nên, nhân đây, ngài mở cửa phương tiện để trải phước điền cho đời sau, mọi người vì lòng hiếu thảo với cha mẹ, thân nhân, mà dâng lễ cúng dường trai tăng, tạo một duyên lành với nhà Phật mở lòng ra thực hiện hạnh xả bỏ, tức là hạnh bố thí, đứng đầu trong lục độ vạn hạnh. Mặt khác nhờ người Phật tử cư sĩ cúng dường những nhu cầu cần thiết mà chư tăng ni có thể an tâm tu hành cho tới đạt được bản thể, tự do, tự tại, giữ cho con đường giải thoát được ánh sáng của đèn tuệ thường chiếu. Người Phật tử cúng dường cũng là bước vào đường tu, với hạnh xả bỏ, có đà rồi, sẽ tiếp tục đi thêm những bước trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, vân vân và vân vân.

Có người hỏi rằng:

- Nếu nhờ lễ Vu lan cúng dường trai tăng mà thân nhân thoát khỏi địa ngục, thì đó có phải là một hình thức hối lộ không?

Nghe hỏi như thế, có người đã trợn mắt lên dọa dẫm:

- Chết, hỏi bậy, coi chừng bị đẩy xuống địa ngục!

Xin đừng sợ những lời dọa dẫm vô căn cứ của những vị bảo hoàng hơn vua chỉ muốn trùm vào đạo Phật một tấm màn thần bí, huyền hoặc, tưởng rằng thế là tôn trọng đạo Phật mà hóa ra đang làm ngược lại. Đức Phật dậy rằng: “Tin ta mà không hiểu ta là phỉ báng ta vậy”. Cho nên, nếu còn thắc mắc thì cứ hỏi. Xin trả lời:

- Đạo Phật quan niệm rằng tất cả pháp giới đều chỉ do tâm tạo. Thế thì địa ngục cũng do tâm tạo. Tâm tham lam, bủn xỉn, độc ác thì tạo thành địa ngục. Tâm chuyển thì địa ngục tan rã. Cho nên, chính trong lúc chư tăng ni thọ thực mà theo đúng giới luật thì không được “tán tâm tạp thoại” (nghĩ vẩn vơ, nói chuyện lăng nhăng) bởi vì nếu phạm giới này thì “tín thí nan tiêu”, nghĩa là phẩm vật dâng cúng mà mình thụ hưởng sẽ khó mà tiêu hóa được (còn có nghĩa là nếu nhận phẩm vật dâng cúng mà không tích cực tu hành thì trong tương lai sẽ phải trả nợ thí chủ). Cho nên, chính là lúc thụ trai đó, chư vị tăng ni lặng lẽ không nghĩ thiện, ác, một hình thức thiền định, đó là lúc tâm lực mạnh nhất. Tất cả chư vị đều lặng lẽ tâm không suy nghĩ (cuồng tâm ngưng nghỉ tức là bồ đề), thì chính thời gian đó, sức tâm của chư vị tỏa ra, ảnh hưởng vào pháp giới, chuyển hóa được những tâm tham lam, keo kiệt, bủn xỉn đang trong địa ngục kia. Ngay khi tâm chuyển thì chính sát na đó, địa ngục tự tan rã, chứ không phải là do chư tăng ni “ăn hối lộ rồi xin xỏ” cho gia chủ được ra khỏi địa ngục. Xin xỏ là tâm niệm ô nhiễm, làm sao mà sánh được với tâm niệm thanh tịnh, không chút vướng mắc của vọng tâm sinh diệt tranh đua, tham lam danh lợi. Tâm thanh tịnh không vướng mắc suy nghĩ có sức mênh mông ngang tầm pháp giới. Cho nên mới có câu: “Tâm được tịnh rồi tội liền tiêu”.

Vậy thì, là Phật tử, nhân lễ Vu Lan, rất nên cúng dường trai tăng để giúp chư vị khỏi lo lắng về phần vật chất, an tâm tu hành đến giải thoát. Phẩm vật cúng dường ít nhiều không khác gì nhau. Chỉ có cái niệm tâm lúc cúng dường, kính trọng người tu hành, mong cho chư vị đạt đạo để Phật pháp trường tồn là quan trọng. Nếu không có tiền để cúng dường mà chỉ có lòng vui mừng khi thấy có người cúng dường thì phước đức cũng bằng nhau, đó là lời Phật dậy. Câu này rất có ý nghĩa, vì người dẹp được tâm ganh tị thì đã là phước quá rồi!

Ngoài sự cúng dường trai tăng hoặc tùy hỷ với người cúng dường, xin đừng giết súc sinh để cúng cô hồn. Niệm tâm thanh tịnh của chư tăng ni tỏa trong không gian đó không chỉ hạn hẹp chuyển hóa thân nhân mình, mà chuyển hóa tất cả pháp giới. Nếu mình lại giết súc sinh để cúng, thì mình lại làm cho pháp giới ô nhiễm vì tăng thêm sự đau khổ, lòng thù hận. Nếu tin lời Phật nói: “Tất cả chúng sinh đều là cha mẹ đời quá khứ, và sẽ là Phật trong tương lai”, mà mình còn giết súc vật thì hóa ra mình giết cha mẹ đời quá khứ để cúng cô hồn đời này. Cho nên, có nhiều người đã sáng suốt nhận định ra việc này, họ ăn chay tháng bảy để từ từ tăng thêm đến ăn chay trường, đó là hình thức báo hiếu rộng lớn nhất, không chỉ đối với cha mẹ đời này, mà với cả cha mẹ đời quá khứ nữa.

Tâm Viên Ý Mã

(Courtesy of Thư Viện Phật Giáo Hoa Sen http://www.jps.net/hoasen.)

TÂM VIÊN Ý MÃ

Nguồn: Vietbao.com

Share this post


Link to post
Share on other sites

Giới thiệu vài bài thơ:

Cách nhau là đất

NGUYỄN QUANG HƯNG

A! Rình trông lại em rồi!

Đom đóm thở đêm bồi hồi

Ngũ sắc choàng lưng thon kéo lại

Đốt hình nhân về thay

Dìu chốn lối đồng thấp thỏm cườm ta

Xa gần nước mây não nuột cuồng quay

Chợ Âm Dương mua chịu giấy

áo hồng, gối thêu cùng may

Tháng Bẩy, âm binh chặn cướp

Bùng bùng bát âm buổi em đi xưa

Voi mây ngựa xám nườm nượp

Mưa lên trắng mấy cho vừa

Chòi canh rộng những thiếu thừa

Kìa chăn gối chẳng kịp lừa hai vai

Dưới miền thăm thẳm đất dài

Rồi đây chỉ nở một loài hoa đêm

18/1/2002

Nguồn: e-văn.com.vn

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nguyễn Du

Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh

Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt,

Toát hơi may lạnh buốt xương khô

Não ngườI thay buổi chiều thu,

Ngàn lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng...

Đường bạch dương bóng chiều man mác,

Dịp đường lê lác đác mưa sa

Lòng nào lòng chẳng thiết tha

Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.

Trong trường dạ tối tăm trời đất,

Có khôn thiêng phảng phất u minh...

Thương thay thập loại chúng sing

Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người

Hương lửa đã không nơi nương tựa

Hồn mồ côi lần lữa bấy niên...

Còn chi ai khá ai hèn

Còn chi mà nói ai hèn ai ngu!

Tiết đầu thu lập đàn giải thoát

Nước tĩnh đàn sái hạt dương chi

Muôn nhờ đức Phật từ bi

Giải oan cứu khổ độ về tây phương.

Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh

Chí những lăm cất gámh non sông

Nói chi những buổi tranh hùng

Tưởngn khi thế khuất vận cùng mà đau!

Bỗng phút đâu mưă sa ngói lở

Khôn đem mình làm đứa thất phu

Giàu sang càng nặng oán thù

Máu tươi lai láng xương khô rụng rời

Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,

Quỷ không đầu đứng khóc đêm mưa

Cho hay thành bại là cơ

Mà cô hồn biết bao giờ cho tan.

Cũng có kẻ màn lan trướng huệ

Những cậy mình cung quế Hằng Nga,

Một phen thay đổi sơn hà,

Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?

Trên lầu cao dưới dòng nườc chảy

Phận đã đành trâm gãy bìng rơi

Khi sao đông đúc vui cười

Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương.

Đau đớn nhẽ không hương không khói

Hồn ngẩn ngơ dòng suối rừng sim.

Thương thay chân yếu tay mềm

Càngnăm càng héo một đêm một dài.

Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,

Ngọn bút son thác sống ở tay

Kinh luân găm một túi đầy

Đã đêm Quản Cát lại ngày Y Chu.

Thịnh mãn lắm, oán thù càng lắm,

Trăm loài ma mồ nấm chung quanh

Ngàn vàn khôn đổi được mình

Lầu ca viện hát tan tành còn đâu?

Kẻ thân thích vắng sau vắng trước

Biết lấy ai bát nước nén nhang?

Cô hồn thất thểu dọc ngang

Nặng oan khôn nh9e tìm đường hóa sinh?

Kìa những kẻ bài binh bố trận

Đổi mình vào cướp ấn nguyên nhung

Gió mưa sấm sét đùng đùng

Phơi thây trăm họ nên công một người.

Khi thất thế tên rơi đạn lạc

Bãi sa trường thịt nát máu rơi

Mênh mông góc bể chân trời

Nắm xương vô chủ biết rơi chốn nào?

Trời thăm thẳm mưa gào gió thét

Khí âm huyền mờ mịt trước sau

Ngàn mây nội cỏ rầu rầu,

Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?

Cũng có kẻ tính đường trí phú

Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn

Ruột rà khôngkẻ chí thân

Dẫu làm nên để dành phần cho ai?

Khi nằm xuống không người nhắn nhủ

Của phù vân dẫu có như không

Sống thời tiền chảy bạc ròng

Thác không đem được một đồng nào đi.

Khóc ma mướn, thương gì hàng xóm

Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm

Ngẩn ngơ trong quảng đồng chiêm

Nén hương giọt nước biết tìm vào đâu?

Cũng có kẻ rắp cầu chữ qúy

Dẫn mình vào thành thị lân la

Mấy thu lìa cửa lìa nhà

Văn chương đã chắc đâu mà trí thân.

Dọc hàng qúan gặp tuần mưa nắng

Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng

Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng

Anh em thiên hạ láng giềng người dưng

Bóng phần tử xa chừng hương khúc

Bãi tha ma kẻ dọc người ngang

Cô hồn nhờ gửi tha phương

Gió trăng hiu hắt lửa huơng lạnh lùng.

Cũng có kẻ vào sông ra bể,

Cánh buồm mây chạy xế gió đông

Gặp cơn giông tố giữa dòng

Đem thân chôn rấp vào lòng kình nghê.

Cũng có kẻ đi về buôn bán

Đòn gánh tre chín dạn hai vai

Gặp cơn mưa nắng giữa trời

Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?

Cũng có kẻ mắc vào khóa lính

Bỏ cửa nhà gồng gánh việc quan

Nước khe cơm vắt gian nan

Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời

Buổi chiến trận mạng người như rác

Phận đã đành đạn lạc tên rơi

Lập lòe ngọn lửa ma trơi

Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương!

Cũng có kẻ lỡ làng một kiếp

Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa

Ngẩn ngơ khi trở về già

Ai chồng con tá biết là cậy ai?

Sống đã chịu một đời phiền não

Thác lại nhờ hớp cháo lá đạ

Đau đớn thay phận đàn bà,

Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?

Cũng có kẻ nằm cầu gối đất

Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi

Thương thay cũng một kiếp người

Sống nhờ hàng xứ chết vùi đường quan.

Cũng có kẻ mắc oan tù rạc

Gửi mình vào chiếu rách một manh

Nắm xương chôn rấp góc thành

Kiếp nào cỡi được oan tình ấy đi?

Kìa những kẻ tiểu nhi tấm bé

Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha

Lấy ai bồng bế xót xa

U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.

Kìa những kẻ chìm sông lạc suối

Cũng có người sẩy cối sa cây

Có người leo giếng đứt dây

Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.

Người thì mắc sơn tinh thủy quái

Người thì sa nanh sói ngà voi

Có người hay đẻ không nuôi

Có người sa sẩy có người khốn thương.

Gặp phải lúc đi đường lỡ bước

Cầu Nại Hà kẻ trước người sau

Mỗi người một nghiệp khác nhau

Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ?

Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi

Hoặc là nương ngọn suối chân mây

Hoặc là điếm cỏ bóng cây

Hoặc là quán nọ cầu này bơ vơ

Hoặc là nương thần từ Phật tự

Hoặc là nhờ đầu chợ cuối sông

Hoặc là trong quãng đồng không

Hoặc nơi gò đống hoặc vùng lau tre

Sống đã chịu một bề thảm thiết

Ruột héo khô dạ rét căm căm

Dãi dầu trong mấy mươi năm

Thở than dưới đất ăn nằm trên sương

Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn

Tắt mặt trời lẩn thẩn tìm ra

Lôi thôi bồng trẻ dắt già

Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh.

Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ

Phóng hào quang cứu khổ độ u

Rắp hòa tứ hải quần chu

Não phiền trút sạch oán thù rửa không.

Nhờ đức Phật thần thông quảng đại

Chuyển pháp luân tam giới thập phương

Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương

Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.

Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh

Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao

Mười loài là những loài nào?

Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh.

Kiếp phù sinh như hình như ảnh

Có chữ rằng:"Vạn cảnh giai không"

Ai ơi lấy Phật làm lòng

Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.

Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo

Của có khi bát cháo nén nhang

Gọi là manh áo thoi vàng

Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.

Ai đến đây dưới trên ngồi lại

Của làm duyên chớ ngại bao nhiêụ

Phép thiên biến ít thành nhiều

Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sanh.

Phật hữu tình từ bi phổ độ

Chớ ngại rằng có có không không.

Nam mô chư Phật, Pháp, Tăng

Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài

--------------------------------------------------------

(Nguyễn Châu biên soạn)

Bài văn chiêu hồn đã mô tả cảnh khổ đau của mọi hạng người trong xã hội từ những kẻ quyền thế cao sang đến người xó chợ đầu đường. Tất cả mọi người không ai có thể khước từ cái chết. Tuy "mỗi người một nghiệp khác nhau" nhưng cầu Nại Hà thì không ai có thể không bước qua, chỉ là "kẻ trước người sau mà thôi!

Cầu Nại Hà là gì? Tại nơi nào? Theo sách Phật, cầu Nại Hà ở về phía Đông của Thập Điện (tức mười tầng Địa Ngục), những người nghèo hèn và chết yểu (chết trẻ) đều phải đi qua cầu này để vào đường đầu thai sinh vào kiếp khác. Nại Hà là tên con sông ở Địa Ngục có ba cái thác nhỏ, linh hồn các tội nhân khi đến đây phải hỏi xem nơi nào có thể lội qua được để khỏi trầm luân nên gọi là Nại Hà.

Con người khi sống trong xã hội thì có phân biệt cao thấp sang hèn nhưng khi chết thì đều bình đẳng! Nhất là chết mà trở thành cô hồn:

Thương thay thập loại chúng sinh

Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người!

Hương lửa đã không nơi nương tựa

Hồn mồ côi lần lữa bấy niên

Còn chi ai khá ai hèn

Còn chi mà nói kẻ hiền người ngủ

Cụ Nguyễn Du đã tả cảnh bi thương từ dương gian đến âm phủ: từ tiết đầu thu ảm đạm, thê lương của cõi dương chuyển sang cảnh "trường dạ tối tăm" bi thiết của cõi âm... để nêu ra các loại chúng sanh với những nghiệp cảnh khác nhau nhưng tựu trung đều bi thảm giống nhaụ Nói là "thập lọai" nhưng bài văn đã kể ra cả thảy 16 nghiệp cảnh. Chữ "mười" ở đây không phải là số đếm thông thường mà là tiếng tượng trưng cho sự rộng khắp, tòan vẹn như trong cách nói "mười phân vẹn mười", "nhân vô thập toàn"...

Các loại chúng sinh được nhắc đến trong văn tế là:

1. Những kẻ "tính đường kiêu hãnh" tham danh vọng mà quên mạng sống.

2. Những kẻ giàu sang sống trong "màn loan trướng huệ" tự kiêu, tự mãn về nhan sắc...

3. Những kẻ làm quan to "mũ cao áo rộng" cầm ngọn bút sinh sát trong taỵ..

4. Những tướng sĩ "bài binh bố trận" "đemmình vào cướp ấn nguyên nhung" phơi thây trăm họ để dành công cho bản thân mình...

5. Những kẻ tính đường tr6i phú bôn ba lìa bỏ quê nhà để mong được giàu sang...

6. Những kẻ "rắp cầu chữ quý"

7. Những kẻ vào sông ra bể, trong sóng gío hiểm nguỵ..

8. Những kẻ thương buôn đường xa

9. Những kẻ phải đi lính

10. Những kẻ sa cơ thất thế rơi vào "buôn nguyệt bán hoa"

11. Những người hành khất "sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan"

12. Những kẻ mắc vòng tù ngục oan khiên

13. Những kẻ hữu sinh vô dưỡng

14. Những trẻ sơ sinh mất mẹ cha

15. Những kẻ chết vì các loại nạn tai: thủy, hỏa, ác thú...

16. Những kẻ vô tự tức không con cái, thân thuộc

Nêu ra cảnh khổ của cõi âm Nguyễn Du muốn cảnh giác cõi dương là nơi mà cuộc tranh dành lợi danh, tiền của thường rất gắt gao và hung hãn... Tác giả nhắc cho mọi người thấy rõ rằng:

Sống thời tiền chảy bạc ròng

Thác không đem được một đồng nào đi

Và cuối cùng kêu gọi các loại cô hồn hãy khôn ngoan lắng nghe kinh để nương nhờ ph6ep Phật mà thoát khổ. Lấy Phật làm lòng thì tự nhiên siêu thóat trong luân hồi. Văn tế Thập loại Chúng sinh là một lời cảnh báo cho thế gian đáng cho mọi người suy gẫm... trong ngày Đức Mục Kiền Liên cứu mẹ khỏi khổ hình Địa Ngục để báo hiếu.

Nguồn: annonymous.online.fr

Share this post


Link to post
Share on other sites

Cúng Rằm tháng bảy như thế nào?

Ngày rằm tháng bảy, nhà nhà mua đồ vàng mã, quần áo, mua bỏng, mua khoai, mua kẹo, sắp gạo muối cúng chúng sinh. Chùa tổ chức đọc kinh, cúng cháo. Nhưng cũng lạ, nhiều người lại chen chân đổ xô nhau đến Phủ để thắp nhang cầu khấn cúng chúng sinh. Xem ra, bà con ta trọng tín ngưỡng nhưng lại chẳng có thói quen tìm hiểu xem nội dung, mục đích của nó là gì. Càng ngày, vài tro duy trì văn hóa truyền thống của gia đình càng bị mai một. Thế hệ con cháu không được truyền dạy các ý nghĩa của nghi thức, tập tục khi chính những người lớn tuổi hơn chẳng để tâm coi trọng nhiều. Nhiều người chỉ biết cúng là cúng, chẳng hiểu cúng để làm gì. Như vậy, có lễ mà chẳng có thực lòng cũng phí phạm.

Cúng chúng sinh thế nào cho đúng??

Dưới đây là một hướng dẫn. Mong ACE am hiểu góp ý thêm:

Thời gian: có thể cúng từ ngày mùng 1 đến 15 tháng 7 âm lịch

Giờ cúng: nên cúng vào giờ Dậu

Chuẩn bị đồ lễ:

1. Quần áo cho chúng sinh (vàng mã)

2. Đồ ăn: gạo, muối, nước, bỏng, khoai - sắn - ngô - lạc luộc, kẹo bánh, hoa quả ....

3. Tiền vàng mã

4. Cháo nấu bằng gạo tẻ hoặc nếp, cho thêm chút muối, múc ra bát nhỏ

5. Hương để thắp

6. Phóng sinh: chọn con vật muốn phóng sinh (chim, cá, rùa, cua, ốc....)

Tất cả đồ lễ là tùy tâm, nhất là về số lượng.

Không nên cúng đồ mặn vì quan niệm vong hồn chúng sinh còn đang trong tình trạng chưa thưởng thức được những thứ đồ ăn đó

Bày biện:

Có thể bày theo bốn phương, tám hướng hoặc chỉ đặt một bàn chung hướng ra phía ngoài đường (ngoài cửa)

Nên bày trên bàn thấp, rộng

Một số nơi vẫn còn giữ tục trẻ em đi cướp đồ cúng. Chúng đóng giả các vai "cô hồn" đi đến các gia đình để cướp đồ cúng. Gia đình nào được cướp nhiều đồ thì thường vui mừng vì lễ được chứng. Còn trẻ em thì thích thú vì có đồ ăn.

Cúng Vu lan:

Có thể thực hiện tại chùa hoặc ở nhà.

Thời gian: từ 1-15/07 AL

Đồ lễ:

Có thể chuẩn bị cả các đồ chay, mặn như lễ cúng thông thường

Có đèn để thả xuống các dòng chảy lưu thông (sông, suối..)

LỄ TRỌNG KHÔNG BẰNG TÂM KÍNH.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Hôm nay (15/8 DL), Trần Phương tôi nghỉ làm cả buổi chiều để đến chùa ăn cơm và đọc kinh - lễ Phật (cùng với đám bạn cũ). Một điều thú vị là sau khi đọc kinh (Nhật Tụng) xong, tới lúc cúng cô hồn, tôi thì không tham gia giành giật mà chỉ đứng một chỗ ngay góc bàn để xem, nhưng cũng chẳng bỏ qua khi lộc đến với mình B) hì ... tôi cứ đứng yên một chỗ mà chụp những đồng xu văng tới ... và, khi tất cả đã xong xuôi, lúc ra về tôi đếm "lộc" của mình thì được đúng 5000đ không hơn không kém, không biết có nên mua 1 tờ vé số không nữa ;) , mà thôi ... hổng mua đâu :P

Share this post


Link to post
Share on other sites

Hôm nay (15/8 DL), Trần Phương tôi nghỉ làm cả buổi chiều để đến chùa ăn cơm và đọc kinh - lễ Phật (cùng với đám bạn cũ). Một điều thú vị là sau khi đọc kinh (Nhật Tụng) xong, tới lúc cúng cô hồn, tôi thì không tham gia giành giật mà chỉ đứng một chỗ ngay góc bàn để xem, nhưng cũng chẳng bỏ qua khi lộc đến với mình B) hì ... tôi cứ đứng yên một chỗ mà chụp những đồng xu văng tới ... và, khi tất cả đã xong xuôi, lúc ra về tôi đếm "lộc" của mình thì được đúng 5000đ không hơn không kém, không biết có nên mua 1 tờ vé số không nữa ;) , mà thôi ... hổng mua đâu :P

Hôm nay cô em ở cùng cơ quan được giao trọng trách chuẩn bị lễ cúng. Mất 2 lượt mới mua đủ đồ. May quá heo quay đắt nên "nàng" không mua. :D Nhưng tiếc là nàng lại chỉ mua một con ba ba bé xíu bằng 2 đốt ngón tay để phóng sinh. Cũng tại "nàng" chưa quen với việc này.

Lúc thắp hương, đám trẻ con bu kín cả cổng cơ quan, đập cửa ầm ầm, còn đòi trèo vào. Đứa nào cũng nhăm nhe cướp con ba ba. Nhang tàn một nửa, mấy chị em thu con ba ba với đồ vàng mã về. Cửa vừa rút then là lũ trẻ ào vào, tranh cướp, chứi bới lẫn nhau. Không những cướp đồ mà còn đập gần vỡ cái bàn. Rồi còn dùng hoa quả ném đi ném lại và cái bàn để phá. Cúng "cô hồn" mà ngăn chúng thì cũng chẳng ra kiểu gì.

Thật buồn, một tập tục Việt mà từ người lập lễ đến người tham gia đều không hiểu được ý nghĩa sâu sắc của nó. Tiếc thay, một nghi thức văn hóa lại vô tình làm cho người ta "thiếu văn hóa" hơn.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Những đồ tế lạ trong ngày Vu Lan[/size]

Gửi osin cho người cõi âm. Ảnh: Gia đình và Xã hội.

Gửi ôsin cho người cõi âm, làm hẳn "nhà máy thủy sản" để tế chồng quá cố... - những chuyện kỳ quặc thế này còn vô số và được giải thích là “từ sự báo mộng”.

Vừa đốt mấy thúng tiền vàng, đô la, hai “ông ngựa” cao hơn một mét và một “nhà máy chế biến hải sản” cao gần 3m, bà Toàn 40 tuổi, phố Thái Hà, Hà Nội, vừa sụt sịt: “Ông nhà tôi xấu số, khi có đầy đủ của nả thì không được hưởng. Năm ngoái tôi đã đốt đủ nhà lầu, ôtô, xe SH, máy giặt, tủ lạnh... Năm nay chợt nhớ ra là ông ấy rất thích nhà máy chế biến hải sản nên phải cất công lên tận làng Đông Hồ, (xã Song Hồ, Thuận Thành, Bắc Ninh) để đặt cho ông ấy cái nhà máy này. Biết ông ấy sẽ vui, tôi cũng thấy mãn nguyện”.

Cái “nhà máy chế biến hải sản” mà bà Toàn đặt cho chồng có giá là 7 triệu đồng. Bên trong đó, có tất cả các hình ảnh mô phỏng nhà máy thật như phòng làm việc của giám đốc, phòng hành chính, xưởng chế biến...

Cũng cầu kỳ không kém, người ta kể lại chuyện ông Bình trú ở đường Mạc Vĩnh Phúc (phường Cát Bi, quận Ngô Quyền, TP. Hải Phòng) từng cất công lên tận làng Cót, Hà Nội để đặt cho con trai một chiếc máy bay bằng giấy. Ông Nguyễn Văn Sỹ, 80 tuổi quê gốc ở làng Đông Hồ, hiện ở phố Yên Hoà (làng Cót cũ), Hà Nội, người trực tiếp làm chiếc máy bay này kể rằng:

“Anh Bình đặt chiếc máy bay dài 4 mét cho người con trai là phi công bị tai nạn chết khi chưa đến 30 tuổi. Anh Bình cho tôi một tháng để làm chiếc máy bay này sao cho thật đẹp, thật giống. Khi tôi gọi điện cho anh ấy lên lấy thì anh khen máy bay đẹp nhưng chỉ có một chiếc ghế lái thì không đúng, nên yêu cầu tôi phải làm lại, với đầy đủ... ghế cho hành khách. Thậm chí còn cả yêu cầu phải có hình một tiếp viên đang bê nước cho khách”.

Vẫn giọng đều đều, ông Sỹ tiếp: “Có lẽ sợ tôi phật lòng vì yêu cầu bổ sung này, ngoài số tiền đã định, anh ấy còn thưởng luôn cho tôi 1 triệu đồng. Tôi hẹn 2 ngày sau lên lấy. Đúng hẹn, lúc 11h đêm, anh ấy thuê hẳn một chiếc ôtô tải chở cái máy bay về Hải Phòng”.

Không chỉ ông Sỹ, nhiều người làm hàng mã chuyên nghiệp còn khẳng định rằng, nhiều người chiều con cái không may chết trẻ, nên đã yêu cầu phải làm một chiếc ôtô “long lanh” như thật, màu sắc, logo, trau chuốt, cánh mở, vô lăng quay trơn tru...

Riêng chị Phạm Thị Nguyệt - chủ xưởng sản xuất hàng mã, trú tại số 89, đường Hoa Bằng, phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy cho biết: “Khách hàng đến đặt mã thường kể về những giấc mơ gặp người nhà, hoặc sau khi đi xem bói, gọi hồn gọi cốt thấy người âm về xin cái nọ, đòi cái kia...”.

Thậm chí, rất nhiều người chỉ tự nghĩ mà suy ra nhu cầu của người quá cố, như một bà vợ có chồng là bộ đội về hưu, nhất quyết đòi cửa hàng làm cho một hình nhân nam bộ đội để gửi xuống cho chồng... hàn huyên, tâm sự chuyện chiến trường! Một số người khác thì lại đặt làm hình nhân nữ, thậm chí là cả ô sin và vật nuôi trong nhà như chó, mèo... để tế.

Đốt cho... oai

Để thể hiện oai phong điện thờ của mình, năm nào cũng vậy, cứ đến tháng làm lễ Vu Lan, một ông “thầy” ở Ngã Tư Sở, Thanh Xuân, Hà Nội đã chất vàng mã cao như núi. Sát cửa điện, hai “ông” ngựa giấy lực lưỡng cao ngót 3m, dán giấy xanh đỏ lòe loẹt. Trong điện, những đĩnh vàng bạc và những chồng tiền giấy âm phủ xếp dọc theo chân tường lên tận trần nhà. Giữa điện, hai con voi lớn chen chúc với thuyền rồng, những tòa bảo tháp, những ngai bà chúa, ông hoàng, cùng vài chục hình nhân lớn như người thật. Tất cả đều bằng giấy màu sặc sỡ. Chưa kể thầy có hàng trăm con nhang đệ tử. Họ thường đưa cả cục tiền dầy cộp nhờ thầy sắm lễ và vàng mã luôn.

Chẳng ai biết rằng, thầy mua nhiều vàng mã thì được nhiều tiền “phần trăm”, lễ càng lớn thì tiền công của thầy cũng... càng cao. Một chị giúp việc cho thầy kiểm kê lại số hàng mã trong điện vào mùa Vu Lan khẳng định: “4 “ông mã”, mỗi ông 1,5 triệu đồng. Ông voi thì 2,5 triệu đồng. Hai tòa bảo điện để làm lễ “rải quan” (rải tiền cho quan cõi âm) mỗi tòa 1,2 triệu đồng. Ngai bà chúa và thuyền rồng thì trên 3 triệu đồng một bộ. Tổng cộng gần 30 triệu đồng... ra tro. Tất nhiên, những món đồ này thầy đều được các đại gia tài trợ”.

Một chủ hàng chuyên làm vàng mã cũng kể rằng, mới đây một xã ở huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam cũng đặt đủ hình 12 con giáp để tế làng. Người trong xã này quan niệm càng đốt nhiều càng thể hiện được oai phong với… xã bên cạnh. 12 con giáp là tượng trưng cho tuổi của tất cả con cháu trong xã và đốt là để cầu mát mẻ, khoẻ mạnh! Còn các con vật được đốt thì cầu cho vật nuôi nhanh lớn, không bị dịch bệnh. Tất nhiên, cái vụ “oai” nói trên đã tiêu tốn của xã này trên chục triệu đồng.

(Theo Gia Đình & Xã Hội)

Nguồn: http://vnexpress.net

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nghĩ thiện và làm thiện, ấy là "không lễ mà lễ"...

17-08-2008 11:49:17 GMT +7

"Mỗi nén hương thờ Phật, thờ Tổ, chỉ là một hình thức nhắc nhở do tâm của mình mà ra". Ảnh: Trà My

Posted Image

- "Thấy thương cho những người đi nghe giảng pháp đua đòi, hay những kẻ chửi rủa, cầu điều ác cho người khác khi đến cửa chùa khấn bái. Điều đó vừa mất sức khỏe, mất thì giờ, mất tiền, lại không lợi lộc gì. Ấy là có lễ mà không lễ...".

Rằm tháng bảy âm lịch là ngày lễ Vu Lan, cũng là ngày Xá tội vong nhân. Vào ngày này, con cái báo hiếu với cha mẹ, người con Phật cầu siêu độ cho tiền nhân quá cố. Nhân mùa Vu Lan năm nay, VietNamNet xin ghi lại vài dòng suy nghĩ của một số nhà tu hành và phật tử về ý nghĩa của ngày này.

Không có hiếu không phải phật tử

Thầy Thích Nữ Như Hiền (trụ trì chùa Linh Sơn, Thanh Nhàn, Hà Nội): “Tích Vu Lan bắt nguồn từ tấm lòng hiếu thảo cứu mẹ của Tôn giả Mục Kiền Liên. Tấm gương chí hiếu lớn lao ấy muôn đời sau vẫn phải soi vào. Tích này được chép trong kinh Vu Lan bồn, dịch nghĩa là Giải đảo huyền (giải cái tội bị treo ngược).

Câu chuyện ý nói rằng, những người nào tạo tội ác thì phải thọ quả báo nơi địa ngục, ma quỉ, súc sinh, chịu sự hành hạ thống khổ cùng cực giống như người bị treo ngược. Nghĩ đến công ơn cha mẹ, khi ngày Vu Lan đến, phật tử thường đem tâm chí thành, chí hiếu cúng đường Tam Bảo để cầu nguyện cho thân nhân, tiền vong của mình thoát khỏi cảnh khổ đau cùng cực.

Ngày Vu Lan là ngày của phật tử đền ơn đáp nghĩa bằng cách đến chùa cầu thỉnh chư tăng, chú nguyện cho vong nhân của mình thoát khỏi cảnh đọa đày tăm tối của địa ngục, đồng thời cầu nguyện cho tất cả người khác cũng thoát khỏi tội khổ đau cùng cực như Mục Kiền Liên đã làm khi cứu mẹ.

"Báo hiếu xuất phát từ tấm lòng. Cứ đi lễ ào ào chưa chắc đã tưởng nhớ đến cha mẹ". Ảnh: Lan Thương

Posted Image

Tuy nhiên, không có nghĩa là cứ đốt thật nhiều vàng mã, khấn bái xì xụp là trọn. “Thiên kinh vạn quyển, hiếu nghĩa vi tiên” (Ngàn quyển kinh, vạn quyển sách đều lấy hiếu làm đầu), nếu như suốt ngày lễ Phật mà không có hiếu với cha mẹ cũng không phải đệ tử của Phật.

Bà Nguyễn Thị Trọng (vãi chùa Hà, Hà Nội): “Việc nhớ ơn bố mẹ, ông bà, những người đã sinh ra mình, tiếp sức cho mình phải thể hiện cả cuộc đời và qua việc làm, chứ nếu chỉ ngày này mới nghĩ đến là giả dối. Không có tâm đến chùa Phật không chứng, có tâm không đến chùa Phật cũng độ cho”.

Hiếu lễ biểu hiện ở cái tâm mình. Thấy thương cho những người đi nghe giảng pháp đua đòi, hay những kẻ chửi rủa, cầu điều ác cho người khác khi đến cửa chùa khấn bái. Điều đó vừa mất sức khỏe, mất thì giờ, mất tiền, lại không lợi lộc gì. Chỉ có con người phạt nhau, Phật không hại ai bao giờ. Ấy không phải là lễ...

Mình thấy chúng sinh khổ mình khổ hơn chúng sinh, mình thấy chúng sinh đói mình đói hơn chúng sinh đó mới là báo ơn Phật. Tốn hàng triệu đồng tiền vàng mã, đi cúng bắc loa cho người đời nghe chẳng những người chết không được hưởng mà người sống cũng không có lộc. Mỗi nén hương thờ Phật, thờ Tổ, chỉ là một hình thức nhắc nhở do tâm của mình mà ra. Thành tâm phải ninh minh, phải hiểu biết, sáng suốt thì mọi điều mới tốt đẹp hơn.

"Lễ mà không lễ"...

Posted Image

Thầy Thích Đàm Lan (Trụ trì chùa Bồ Đề, Hà Nội). Ảnh: Trà My

Thầy Thích Đàm Lan (Trụ trì chùa Bồ Đề, Hà Nội): “Trong mùa lễ Vu Lan, người con của Phật nghĩ đến cha mẹ, ông bà tổ tiên mà sắm hương hoa oản quả tỏ lòng thương nhớ, có người đến chùa tụng kinh, có người lễ tại gia, cầu cho các vị được siêu thoát.

Theo quan niệm của nhà Phật, việc báo ân, báo hiếu không chỉ thực hiện mỗi năm một lần vào lễ Vu Lan mà phải thực hiện trong suốt cuộc đời. Và trong lúc báo hiếu phải có quan niệm đúng đắn sáng suốt mới đủ. Làm việc thiện, làm phúc giúp người nghèo, người khó khăn cũng là một cách nhớ đến ông bà, tổ tiên.

Nhiều người mải mê với công việc, đến ngày này vội vã đến khấn lễ theo phong trào, đó là tín tâm nhưng chưa hiểu biết. Phật dạy phải biết “nhẫn”, Phật chỉ chứng cho những người có tâm thật sự, biểu hiện bằng những việc thiện hàng ngày. Chí tiết, chí thành theo lời Phật dạy không cần lễ lộc cũng có phúc. “Không lễ mà lễ, lễ mà không lễ”, “không làm mà làm, làm mà không làm” là vậy.

Báo hiếu xuất phát từ tấm lòng. Cứ đi lễ ào ào chưa chắc đã tưởng nhớ đến cha mẹ. Không phải khi cha mẹ ông bà mất rồi mới phô trương ma chay theo kiểu “sống thì chẳng cho ăn, chết mới làm ma tế ruồi” mà săn sóc quan tâm đến cha mẹ khi cần, vâng lời cha mẹ nhưng không chiều theo ý sai trái của cha mẹ.

Hoàng Xuân Huy (21 tuổi, Thái Nguyên): “Theo tôi, vào mùa Vu Lan, ông bà, cha mẹ nên kể lại tích truyện cho con cháu như là một cách nhắc nhở, giáo dục về hiếu nghĩa. Hiện nay, nhiều bậc phụ huynh mải mê, bận bịu với công việc, nhiều bạn trẻ không biết rằng đây là ngày lễ báo ân báo hiếu, ngày xá tội vong nhân”.

Luôn luôn làm việc thiện, có ý nghĩa cho đời để tưởng nhớ đến người quá cố như lời Phật “phục vụ chúng sinh cúng dường chư Phật”, “Tùy thuận chúng sinh nhi vi lợi ích”.

Tích Vu Lan báo hiếu nói lên lòng chí hiếu, chí thành của người con có sức mạnh cảm thông và kích thích đến tâm hồn người đau khổ làm họ thức tỉnh cơn mê, xoay chuyển tâm niệm ác, hướng về nẻo thiện. Nhờ sự chuyển hướng của cái tâm này, mà họ thoát khỏi hình phạt đau khổ mà trước kia chính cũng do cái tâm ấy tạo ra.

Trong kinh có nói: "Tâm có thể tạo nghiệp, mà tâm cũng có thể chuyển nghiệp". Sự tích Vu Lan báo hiếu khởi đầu bằng hình ảnh Mục Kiền Liên cứu mẹ trở thành hình ảnh mang tính giáo dục nhân văn.

Phật không chứng người hiềm khích

Posted Image

Hòa thượng Thích Thanh Tứ (Viện chủ Tùng Lâm Quán Sứ): “Vào ngày Xá tội vong nhân, ngày lễ báo ân báo hiếu, theo tập quán các gia đình sửa soạn lễ nghi khấn cúng, lễ Phật cầu nguyện cho các vong linh được siêu thoát.

Hòa thượng Thích Thanh Tứ (Viện chủ Tùng Lâm Quán Sứ). Ảnh: Trà My

Tuy nhiên, lâu nay từ tập quán tốt đẹp này, một số bà con ta không hiểu rõ ý nghĩa của ngày Vu Lan báo hiếu, sắm vàng mã đốt thật nhiều gây tốn kém, không cần thiết. Điều chính là con cái hiếu thảo với cha mẹ, đi lễ hướng thiện, thành tâm, nếu không hiểu ý nghĩa thì chính tín dễ thành mê tín.

Lễ Phật cầu phúc là điều tốt, nhưng lễ Phật cầu những điều không tốt cho người khác là không lành mạnh. Nếu trong tâm đầy hiềm khích, độc ác, có đi lễ Phật cũng chẳng ích lợi gì bởi Phật nào có chứng.

Phật khuyên mọi người bỏ việc ác, làm việc lành, bỏ đường tà, theo đường chính, nếu tâm nguyện thì chẳng lễ Phật cũng được phúc”.

Ông Nguyễn Quang Hoán (Trưởng Tiểu ban Quản lý chùa Hà, Hà Nội): “Ngày rằm tháng bảy, nhà chùa không tổ chức lễ Vu Lan. Vào ngày này, nhiều gia đình làm lễ cúng gia tiên tại gia, nhà chùa vẫn mở cửa để phục vụ nhu cầu tự do tín ngưỡng của mọi người.

Theo quan điểm của chúng tôi, việc hiếu nghĩa, biết ơn cha mẹ, ông bà, tổ tiên được biểu hiện qua việc làm hàng ngày, chứ không phải khi người thân mất rồi mới có mâm cao cỗ đầy.

Nhà chùa không khuyến khích đốt vàng mã gây lãng phí. Với lòng thành mỗi người chỉ cần kính cẩn thắp một nén hương. Tâm xuất thì Phật sẽ biết, tu thân mình cho chính, ăn ở làm việc thiện cũng là báo ân báo hiếu”.

Theo VNN

Nguồn: http://www.nld.com.vn/tintuc/loi-song/235968.asp

Share this post


Link to post
Share on other sites

Cô hồn thời... lạm phát

[/size]

17-08-2008 00:39:20 GMT +7

Tiết tháng 7 mưa ngâu sùi sụt, hai cô hồn trí thức lang thang, tư lự. Không phải hai cô hồn này đi kiếm ăn như những cô hồn các đảng hạ cấp khác, mà họ đang đi thực tế trần gian, xem cái thời lạm phát người ta cúng cô hồn những sản vật gì. Hai ông sợ dân gian gọi họ là “đồ cô hồn” lắm

Nhìn phố Hàng Mã la liệt nhà lầu, ô tô, có cả ô tô đời mới lắc - xụt (Lexus), rôn (Roll Roys), mẹc (Mercedes); xe gắn máy thì PS, SH, Nouvou LX cáu cạnh... nhưng ít người mua. Tàng hình vào một hàng mã đầy rẫy hàng hóa, hai cô hồn trí thức nghe một người phụ nữ mua hàng nói: “Thôi thời đại lạm phát, xăng dầu tăng, mua xe hơi gửi cho các cụ ở dưới đấy, các cụ tốn xăng “nuôi” nó cũng mệt lắm, thôi chị bán cho em cái xe đạp cuộc...”. Ôi, cái mà dân gian nói là lạm phát đâu có lan xuống âm phủ mà cô này nói thế nhỉ. Đúng là dương gian ám ảnh cái nạn lạm phát mất rồi. Nhưng một lúc sau cũng có nhiều người mua, họ muốn đô thị hóa âm phủ. Cô hồn trí thức 1 nói: “Tôi thương ông thi hào Nguyễn Du. Tụi mình đâu cần sơn hào hải vị, xe hơi nhà lầu, chỉ cần sự cảm thông như trong Văn tế thập loại chúng sinh của cụ Nguyễn Du là được...”. Cô hồn trí thức 2: “Dương gian hỏng rồi ông ạ. Hôm qua tôi đến chùa, thấy nhiều vị tai to mặt bự, chắc giàu có lắm, đem cúng những vật phẩm mà tôi không định danh được, chắc nó được nhập cảng. Hình như họ cúng cho chính họ - những cô hồn các đảng đang tồn tại giữa trần gian gian trá...”.

Hai cô hồn trí thức trầm ngâm dạo phố. Hương ngọc lan hồi hôm còn thoang thoảng đâu đây. Trên nhiều góc phố, quá nhiều cô hồn các đảng hạ cấp đang loay hoay kiếm ăn. Trông họ đúng là đồ cô hồn, khuôn mặt tái mét, đôi môi hấp háy như muốn nuốt tuồn tuột mọi thứ. Khuôn mặt họ giống như những vị hồi hôm đem đồ cúng sang trọng ở chùa, nhưng cái khác nhau cơ bản là giàu và nghèo. Cuộc sống vốn đơn giản, người này giàu lên thì người khác nghèo đi - hai cô hồn trí thức triết lý với nhau như vậy. Hãy nhìn kìa, những hộ dân nghèo chỉ cúng cô hồn một ít bỏng, đậu phộng, mía, cóc, ổi... mà lại ít hơn mọi năm nữa chứ. Đúng là cái thời lạm phát, cô hồn các đảng cũng đói theo. Nhìn các cô hồn các đảng hạ cấp giành giựt nhau từng hạt bỏng, hạt đậu phộng, hai cô hồn trí thức buồn bã thăng!

Nhưng thăng đâu có được, các cô hồn các đảng khác tưởng hai cô hồn trí thức “ẵm” được nhiều đồ ăn lắm nên thăng sớm, liền bay theo chặn lại định trấn lột. Sau khi lục lọi khắp người hai vị cô hồn trí thức, một cuộc đối thoại thú vị diễn ra:

- Ta chẳng có chi ngoài Văn tế thập loại chúng sinh của cụ Nguyễn Du- hai cô hồn trí thức nói.

- Thế cái đó có ăn được không - bọn cô hồn các đảng hỏi.

- Ăn được, dành cho phần hồn.

- Không, chúng tôi cần cái gì bỏ vào miệng chứ không cần tâm hồn.

- Thế thì các người đến những khu nhà hàng 5 sao, những khu biệt thự, những lâu đài bóng lộn không bao giờ bị cúp điện dưới kia... Ở đó có đủ thứ các ngươi cần. Ở đó cũng có những người cùng hội cùng thuyền với các ngươi, chỉ khác nhau là cõi âm và cõi dương mà thôi.

Bọn cô hồn hạ đẳng sáng rực mắt, nhìn về phía rực rỡ ánh đèn, định bay thẳng đến đó kiếm chác. Bỗng giọng một vị cô hồn trí thức cất lên:

- Hãy đến đó ăn với người ta, rồi cũng có ngày “bóc lịch” cùng với họ...

Nghe vậy, bọn cô hồn các đảng hạ cấp xanh mắt cô hồn, đồng loạt thăng...

TRẦN AI

Nguồn: http://www.nld.com.vn/tintuc/loi-song/235913.asp

Share this post


Link to post
Share on other sites

Gia đình Ban Mai thờ điện nên mọi việc cúng lễ đều tiến hành ở trong gia đình chứ không lên chùa . Hôm 14 mẹ đi mua hai con chim để làm lễ phóng sinh , cầu phúc cho hai chị em du học nơi đất khách quê người . Lồng chim không hiểu sơ hở thế nào mà hai chú chim bay đi đâu không biết . Sáng sớm hôm sau bố đi xuống chợ mua lại hai con chim khác . B)

Ban Mai thấy hai chú chim bay đi rồi thì nói làm lễ phóng sinh chỉ cần mình có cái tâm chim bay rồi thì coi như mình đã cứu được hai sinh linh rồi :P Mẹ mắng là cần phải dâng sớ lên nhà Phật có người chứng dám thì mới được ;) Hi hi Ban Mai cũng chẳng hiểu nên im nghe theo mẹ . Còn bên cửa Mẫu và Thánh thì dâng lễ ngựa và vàng mã , làm lễ như bình thường. :D

Nghe mẹ nói lại , ngày lễ xá tội vong nhân , có rất nhiều cô hồn về , họ tranh cướp thức ăn của nhau rất tội nghiệp :rolleyes: . Ban Mai thì không nhìn thấy gì, chỉ có ông nội nhìn thấy họ thôi.

Share this post


Link to post
Share on other sites

.......... Mẹ mắng là cần phải dâng sớ lên nhà Phật có người chứng dám thì mới được ;) Hi hi Ban Mai cũng chẳng hiểu nên im nghe theo mẹ . ..........

Ngày Vu lan, vừa ý cho mẹ vui cũng là báo hiếu nhỉ B)

Share this post


Link to post
Share on other sites