wildlavender

Huyền Thoại đạo Sĩ Thất Sơn - Bài 1: Đạo Và đời

3 bài viết trong chủ đề này

Huyền thoại đạo sĩ Thất Sơn - Bài 1: Đạo và đời

Khai mở đất hoang, giúp dân chữa bệnh…, vị giáo chủ đến với tín đồ không phải chỉ lvới những lời rao giảng mà rất “đời”.

Họ là những người góp công lớn khai mở đất vùng Tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười, tích trữ lương thảo chống giặc. Lịch sử pha lẫn huyền thoại về những đạo sĩ Thất Sơn là một phần của lịch sử khẩn hoang Nam Bộ. Loạt bài giới thiệu một số mẩu chuyện kết hợp khảo cứu và truyền khẩu về các đạo sĩ Thất Sơn.

Danh tăng Đoàn Minh Huyên là giáo chủ của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, được tín đồ suy tôn là Đức Phật Thầy Tây An. Ông đã cùng đệ tử lập nên làng Xuân Sơn và Hưng Thới, tức xã Thới Sơn, huyện Tịnh Biên (An Giang) ngày nay.

Mang màu sắc của một tôn giáo nhưng đạo Bửu Sơn Kỳ Hương là tu tại gia, không cần xuống tóc, miễn sao tròn cái đạo làm người. Đó là triết lý sống căn cơ của người chính đạo.

Giúp dân thoát đại dịch

Theo công trình biên khảo của nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Hiệp và lời truyền kể của dân gian, khoảng năm 1849, đang chu du giảng kinh, vừa lúc biết vùng Đất Sét-Cái Tàu Thượng (Lấp Vò) người dân lâm đại nạn dịch tả và chết ngày càng nhiều, Đức Phật Thầy tức tốc trở về. Ngài đã trị và cứu được không biết bao nhiêu người mắc bệnh.

Ổ dịch nơi này dứt thì nơi lân cận phát, với chiếc xuồng con sắp nát, ngược dòng Tiền Giang, ông bơi riết đến lòng Ông Chưởng cứu dân.

Ông dựng một mái trại đơn sơ ở Cái Xoài (Chợ Mới), bắt tay ngay vào việc trị bệnh. Bệnh phát ra ở đâu có mặt ông ở đó. Tại Tòng Sơn, Trà Bư, Xẻo Môn, Kiến Thạnh, bằng cách khuyên người tu tâm dưỡng tánh, hoặc vài ba loại hoa lá có sẵn quanh vườn nhà, thế mà ông trị bệnh gì cũng dứt. Người dân khâm phục, đến xin quy y đông nghẹt. Nhà cầm quyền lúc ấy sợ, mời ông về cầm giữ tại An Giang để tra xét. Sau thời gian thử thách, biết rõ ông là bậc chân tu nên cho vào chùa Tây An Cổ Tự ở núi Sam.

Posted Image

Thới Sơn Tự, nơi Đức Phật Thầy ở, ngày nay khách thập phương thường đến viếng. Ảnh: VĨNH SƠN

Tại đây, ông cảm hóa được vị thiền sư chủ chùa và thu hút hàng vạn thập phương thiện tín. Để tự do hành đạo theo chủ trương của mình và tránh sự khó dễ của chính quyền do hằng ngày thiện tín đến quá đông, ông cho di tản tín đồ, khai hoang tản mạn nhiều nơi. Các vùng xa xôi hoang vắng, chưa có vết chân người là chỗ tốt để Bửu Sơn Kỳ Hương của ông hoạt động.

Đi khẩn hoang

Năm 1851, từng đoàn tín đồ của Đức Phật Thầy chia nhau ra đi. Đoàn thứ nhất đi vào Thất Sơn, nơi rừng bụi rậm rì, đầy thú dữ. Nơi đây các nông trại Hưng Thới và Xuân Sơn được dựng lên (nay là xã Thới Sơn, huyện Tịnh Biên).

Đoàn thứ hai đến Láng Linh, một vùng bùn lầy, mùa lụt như biển cả, mùa hạn thì như bãi đất hoang. Địa thế bất tiện cho nông nghiệp nhưng rất thuận lợi cho khách ẩn cư vì tiếp giáp với láng là rừng Bảy Thưa. Tại vùng này, một trại ruộng tên Bửu Hương Các được cất lên để vừa ở tu, vừa chăm lo khai phá cánh đồng hoang. Vùng này là xã Thạnh Mỹ Tây, huyện Châu Phú, An Giang ngày nay.

Đoàn thứ ba về miệt Cần Lố, vùng Đồng Tháp Mười. Một ngôi chùa được dựng lên tại Trà Bồng, ruộng rẫy được khai mở…

Đoàn thứ tư về Cái Dầu, sát hữu ngạn Hậu Giang, nơi có nhiều phù sa.

Những người điều khiển nông trại Bửu Sơn Kỳ Hương là các vị đại đệ tử của Đức Phật Thầy. Họ là những người đạo đức gương mẫu, giỏi võ nghệ. Những nơi họ đến khai hoang, về mặt chủ quyền là những vùng đã thuộc về Việt Nam từ lâu nhưng muốn đưa người vào định cư lập nghiệp không phải giản đơn, bởi đâu đâu cũng toàn rừng bụi, cọp beo, rắn rít, lại thêm sơn lam chướng khí nhiều…

Theo dân gian, nơi đâu đoàn người khai hoang của các vị đại đệ tử Đức Phật Thầy đến thì thú dữ tự dưng được thuần phục. Các ngài không ai đem theo gươm giáo, chỉ võ trang bằng cái tâm cái đức, bằng lời khuyên răn mà thú dữ khuất phục, có khi còn quấn quýt bảo vệ.

Phải làm thì mới có ăn

Ông Nguyễn Sơn Đào (Thới Sơn, Tịnh Biên, An Giang), người đang nắm giữ gần nửa ngọn núi Ông Két, nơi Đức Phật Thầy từng lập ra hai ngôi làng Xuân Sơn và Hưng Thới, phân tích: “Đức Phật Thầy quan niệm “có làm thì mới có ăn”, mới có sức khỏe để phụng sự nhân dân, đất nước. Làm người đương nhiên phải có đạo đức. Do vậy, ông dùng văn thơ để nói về cách sống của người có đạo đức mà sau này gọi là giáo lý và những câu sấm truyền”.

Posted Image

Ông Nguyễn Hữu Nghi lật lại từng trang sách chữ Nôm viết về “tứ ân” mà Đức Phật Thầy từng truyền dạy. Ảnh: VĨNH SƠN

Lúc mới về Thất Sơn, Đức Phật Thầy huy động nhân dân quanh vùng bày cách khai thác đá sỏi để làm đất bằng mà trồng khoai mì, cấy lúa, dùng nước suối mà tưới tiêu. Ông cho lập ra ba trại gọi là trại ruộng, trại rẫy và trại cưa để phục vụ canh nông và xây dựng làng mạc. Tại đây ông lần lượt thu thập nhiều đệ tử, trong đó nổi tiếng có “thập nhị hiền thủ” là 12 vị đệ tử đầu tiên xin quy y với thầy. Công cuộc khai mở đất của đoàn bổn đạo Bửu Sơn Kỳ Hương ở cả hai vùng Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên. Sau khi lập nên các nông trại khẩn đất hoang canh tác lúa nước, nhiều đoàn người được chỉ dụ của Đức Phật Thầy đi sang cánh Đồng Tháp Mười mở đất, truyền đạo.

Lấy tứ ân làm trọng

Người theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương không cần đi chùa, cúng miễu hay hành đạo rườm rà. Được phép cưới vợ, gả chồng và một mực giữ vẹn nghĩa phu thê. Đức Phật Thầy truyền dạy lấy tứ ân làm trọng. Ở chùa Phi Lai Tam Bửu có ông Nguyễn Hữu Nghi (Hai Nghi), giữ chức phó ban quản tự khu di tích lịch sử Ba Chúc, cắt nghĩa tứ ân rành rọt. Ông là người may mắn được gặp gỡ các bậc cao niên đi trước như “ông già Nam Bộ” Sơn Nam, giúp các vị này sưu khảo để lại tư liệu của mối đạo Bửu Sơn Kỳ Hương từ thời kháng Pháp.

Ông Hai Nghi kể trong tứ ân có hai vấn đề: tứ đại trọng ân và trọng ân. Trong tứ đại trọng ân tức là con người phải nhớ ơn đất, nước, gió, lửa. Bởi đây là bốn yếu tố cấu thành vạn vật hiện hữu trên thế gian. Còn tứ trọng ân gồm: ơn tổ tiên, cha mẹ; ơn tổ quốc; ơn tam bảo; và ơn đồng bào, nhân loại.

Là một công dân, chúng ta có bổn phận phải bảo vệ đất nước. Nếu thời bình ta phải làm cho đất nước được giàu mạnh, thời chiến ta phải hy sinh chiến đấu để giữ độc lập cho đất nước.

Tam bảo tức là Phật, Pháp, Tăng. Người tu hành luôn luôn tuân theo Phật, Pháp, triệt để không hành động ngoài giáo lý của nhà Phật. Mọi sự mê tín dị đoan, tin vào chuyện ma quỷ, đồng bóng… đều là khắc tinh của người chính đạo Bửu Sơn Kỳ Hương.

Ông Đoàn Minh Huyên sinh ngày rằm tháng 10 năm Đinh Mão (1807) tại Tòng Sơn, tổng Vĩnh Trinh, huyện Vĩnh An, phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh (nay thuộc huyện Lấp Vò, Đồng Tháp).

Posted Image

Tại xã Thới Sơn ngày nay có ngôi trường mang tên đạo sĩ Đoàn Minh Huyên “Trường THCS Đoàn Minh Huyên” để ghi nhớ ơn lập làng của ông. Mộ của ông hiện nằm cạnh Tây An Cổ Tự ở núi Sam (Châu Đốc).

VĨNH SƠN

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chuyện thu phục thú dữ của các đạo sĩ- Bài 2

Người đời truyền tụng rằng sức mạnh siêu nhiên từ đoàn người trong đạo Bửu Sơn Kỳ Hương đã cảm hóa được thú dữ trở nên lành, không hại người.

Trong hàng thập nhị hiền thủ (12 vị đệ tử) của Đức Phật Thầy thì ông Bùi Văn Thân là người thứ hai sau Đức Quản cơ Trần Văn Thành đến quy y, được Đức Phật Thầy giao làm chủ trại ruộng ở Thới Sơn. Trại ruộng ấy ngày nay là chùa Phước Điền, được công nhận di tích lịch sử văn hóa. Người trong đạo thường gọi ông là Tăng chủ (ông Tăng sư làm chủ trại ruộng). Ngoài việc tu luyện đạt được phép thần thông, ông Tăng chủ còn hàng phục được mãnh hổ, giao hảo với hổ như bè bạn.

Cứu hổ mắc xương, thu phục mãnh hổ

Tương truyền thuở xưa vùng Thất Sơn cọp dữ có tiếng. Từ ngày ông Tăng chủ được giao coi giữ trại ruộng thì thú dữ đều rất sợ. Khi ông đi rừng, hễ cọp thấy thì quỳ mọp, có lúc còn quấn quýt theo ông lên núi như người ta dẫn chó ra đồng vậy. Người đời cho là đức độ cao siêu của ông khiến thú dữ cũng hóa lành.

Chuyện kể rằng một hôm, vào chạng vạng, Đức Phật Thầy đi xa về, khi ngài vào gần tới cốc thấy một con bạch hổ ngồi ủ rũ gần bàn Thông thiên. Vừa thấy ông, cọp liền há miệng ra. Đức Phật Thầy bước vào cốc kêu to: “Ông Tăng đâu, ra coi đạo hổ đau gì mà ngồi ủ rũ đó!”. Tăng chủ đang ở sau chùa, nghe tiếng Đức Phật Thầy liền chạy ra chỗ ông hổ ngồi, rồi hỏi: “Ông làm gì ngồi đây? Sao mà ốm quá vậy?”. Ông hổ há miệng ra ngước lên trước mặt ông Tăng. Ông Tăng hỏi thêm: “Bộ ông mắc xương hả?”. Ông hổ liền đập đuôi và gật đầu. “Nếu mắc xương thì cúi đầu xuống”. Ông hổ làm theo lời. Ông Tăng cung tay đấm ngay cổ ông hổ ba cái, tức thì cục xương từ trong miệng ông hổ vọt ra.

Posted Image

Hình họa tại chùa Phước Điền thể hiện cảnh ông hổ mang đầu heo rừng đến trả ơn cứu mạng của ông Tăng chủ. Ảnh: VĨNH SƠN

Vừa lúc Đức Phật Thầy bước ra dặn ông hổ: “Từ đây tôi cấm ông làm hại bổn đạo của tôi lên núi hay vào rừng trong vùng Thất Sơn nữa nghe không?”. Ông hổ cúi đầu lui ra. Sau đó vài hôm, trước trại ruộng có một con heo rừng bị hổ vật chết còn in dấu răng. Các đạo sĩ ngầm hiểu đó là quà ông hổ mang đến đền ơn. Ngày nay, tại di tích chùa Phước Điền, nhiều người dân sống quanh đó vẫn hay truyền kể cho nhau nghe câu chuyện ấy.

Cá sấu ngán bảo bối

Bà Hồ Thị Quyên (59 tuổi) là cháu cố ngoại đời thứ tư của ông Đình Tây (tức đạo sĩ Bùi Văn Tây, một trong 12 vị đại đệ tử của Đức Phật Thầy), người đang được gia tộc giao trọng trách giữ ngôi mộ và những bảo vật do ông để lại.

Câu chuyện bà Quyên kể ra đây đã được lưu giữ và truyền khẩu qua nhiều đời, dựa trên chuyện của gia tộc và những hiện vật đang thờ cúng.

Ông Đình Tây nuôi một con cá sấu có tới năm chân. Người đời ví con cá sấu như chiếc ghe lớn, di chuyển được là nhờ có năm mái chèo nên đặt tên con cá sấu là ông Năm Chèo. Con cá sấu là món quà ông Tây Đình nhận được từ một gia đình ở miệt Láng Linh (nay là xã Thạnh Mỹ Tây, huyện Châu Phú) lúc đang đi hành thiện. Nhưng khi về hậu liêu, nhìn thấy con cá sấu với hình thù kỳ lạ, Đức Phật Thầy khuyên nên giết đi kẻo sau này nó sẽ hại dân lành. Thấy con cá sấu ngộ nghĩnh, ông Đình không giết mà lén mang đến một bụi rậm nơi có hồ sen trước cửa đình thả xuống nuôi. Không lâu sau nó lớn nhanh như thổi. Sợ hại người nên ông Đình lấy dây xích cột chân nó vào cây đại thụ cạnh đình làng.

Posted Image

Năm món bảo vật mà Đức Phật Thầy trao cho ông Đình Tây thu phục cá sấu Năm Chèo vẫn đang được thờ cúng ở Thới Sơn. Ảnh: VĨNH SƠN

Rồi một ngày trời giông, sấm chớp dữ dội, mưa như trút nước, con cá sấu bẻ xích trốn mất. Ông Đình lần theo dấu dây xích phát hiện có bàn chân người bị cắn đứt. Thấy tình hình không ổn, ông Đình Tây liền vào báo cáo cớ sự với Đức Phật Thầy. Thầy nói: “Đây là cơ duyên của ông với nó, sau này sẽ gặp lại”, rồi Thầy đưa cho ông năm món bảo bối và một câu khẩu huyết biệt truyền (chỉ Thầy và ông Đình Tây biết) để sau này thu phục, sấu thần. Bảo bối gồm: hai cây lao, một cây mun cổ phụng, một lưỡi câu và một đường dây băng.

Ít lâu sau người dân làng Láng Linh (nơi ông Sinh cho ông Đình Tây con cá sấu) thấy con cá sấu năm chân khổng lồ xuất hiện. Nó trườn lên bờ bắt gà, vịt của dân làng ăn thịt. Ông Đình Tây mang bảo bối xuống định thu phục nhưng khi đến nơi thì nó lặn xuống sông mất dạng. Hễ ông Đình Tây quay đi thì nó lại nổi lên quấy phá dân lành. Nó làm nổi sóng to trên sông khiến ghe tàu ngang qua đắm chìm. Con cá sấu dường như chỉ biết sợ mỗi ông Đình Tây, nên hễ mỗi lần nó nổi lên mặt nước là dân làng la lớn: “Năm Chèo nổi lên, bớ ông Đình!”. Nghe kêu vậy nó liền lặn mất. Một hôm ông Đình Tây xuống mé sông la lớn trong thinh không như thông báo với con cá sấu về sứ mạng của mình mà Đức Phật Thầy đã giao phó. Dường như nó nghe biết nên từ ấy biệt tăm.

Chờ mãi nó vẫn bặt tăm, ông Đình Tây liền mang bảo bối trả lại cho Thầy. Thầy bảo cứ giữ, có khi sẽ cần đến.

Posted Image

Bà Hồ Thị Quyên (trái) và chị là cháu đời thứ tư của ông Đình Tây ngày ngày trông coi mộ sự của ông. Ảnh: VĨNH SƠN

Bà Quyên kể năm 1856, lúc ông Đình Tây được 30 tuổi thì sấu dậy nhưng mãi đến khi qua đời vào năm 1914, ông vẫn chưa sử dụng bảo bối lần nào. Năm món bảo bối của ông Đình Tây vẫn được cất giữ qua nhiều thế hệ sau khi ông mất. Ngày nay, tại ngôi mộ ông Đình Tây ở xã Thới Sơn, huyện Tịnh Biên vẫn còn thờ cúng năm món bảo vật này.

Ông Năm Chèo vẫn ở Vàm Nao

Dân gian cho rằng con cá sấu biết hối lỗi và đang nằm vắt ngang hai con sông lớn là sông Tiền và sông Hậu, tạo thành dòng Vàm Nao. Sông Vàm Nao còn gọi là dòng Thuận Giang. Trong nhiều sách sử còn ghi lại nơi đây có độ sâu khó tả, là chỗ có dòng nước xoáy hết sức nguy hiểm cho ghe tàu qua lại. Ngày trước nơi đây mọc lên bến cảng Thuận Giang. Trên sông Vàm Nao ngày nay dân An Giang hay thả lưới và bắt được cá hô khổng lồ, nặng tới hàng trăm ký. Đó là nơi chứa nhiều loài cá lớn nên người đời tin là ông Năm Chèo nằm ở dưới.

VĨNH SƠN

nguồn phapluattp.vn

Share this post


Link to post
Share on other sites

Ông Đạo Lập tàng hình- bài 3

Những câu chuyện truyền khẩu từ đời này sang đời khác đã phủ lên các đạo sĩ Thất Sơn một màu sắc thần thoại.

Được mệnh danh là người có nhiều phép thuật và trị bệnh giỏi của Bửu Sơn Kỳ Hương là ông Phạm Thái Chung mà người đời thường gọi là ông Đạo Lập (do ông lập nên chùa Bồng Lai ở Bà Bài, xã Nhơn Hưng, huyện Tịnh Biên).

Sang sông rộng bằng chiếc nón làm thuyền

Nhờ tự thân tu luyện nên dân gian truyền tụng ông Đạo Lập có nhiều phép lạ. Những lúc ngao du bốn biển, muốn sang sông rộng, biển sâu ông chỉ cần dùng chiếc nón lá rộng vành đang đội trên đầu thẩy xuống nước làm thuyền. Ông còn đoán biết trước chuyện chẳng lành xảy đến mà tránh, thậm chí đi mây về gió để kịp thời cứu khổ cứu nạn cho người khác.

Tương truyền buổi đầu thời Pháp thuộc, không biết ông Đạo Lập góp tay cho nghĩa quân thế nào mà thực dân Pháp cứ lùng bắt. Một lần ông đến Hà Tiên thăm nhà người quen, đúng khi bọn thực dân dò ra tung tích nên đến vây bắt. Chợt nghe có tiếng động, ông liền đứng lên cắp nón, cầm gậy xô cửa tầu khậu (nhà ngoài, nơi làm kho chứa hàng hóa) rồi bước vào trong, bảo chủ nhân khóa chặt cửa lại.

Lên nhà trên, chủ nhà thấy toán người Pháp đang lục soát, truy tìm ông Đạo Lập. Sau khi sục sạo khắp nơi, họ bắt chủ nhà mở cửa tầu khậu. Lúc ấy tâm trạng chủ nhà như chết đứng, cứ ngỡ mở cửa ra bọn Pháp tóm ông Đạo Lập là cái chắc. Ai dè, cửa mở, chẳng thấy gì trong đó, ông Đạo Lập đã biến đi tự bao giờ!

Posted Image

Khu du lịch Mũi Nai (Kiên Giang) là nơi tương truyền ông Đạo Lập đón thuyền trở về với câu chuyện biết tàng hình của ông Đạo Lập.

Dân gian truyền khẩu khi đảng Cần Vương còn hoạt động, ở vùng Châu Đốc có một người tên Thái được đảng tín nhiệm. Ông Thái được giao giữ tờ mật chiếu, nếu để bại lộ thì rất nguy. Ông Thái bèn giấu tại miễu thờ Thần Nông hoang vắng. Ít lâu sau ông đến kiểm tra thì phát hiện tờ mật chiếu mất. Một điều lạ là khi giấu ông Thái rất thận trọng, nhét mật chiếu vào trong tờ giấy đề chữ “Thần” lớn, đặt ngay bàn chánh trong miếu. Vì là chỗ tôn nghiêm nên tờ giấy này xưa nay không ai dám động đến. Mất mật chiếu, ông Thái hết sức lo sợ cơ mưu bị bại lộ.

Tình cờ, một hôm ông Đạo Lập gặp ông Thái, trong câu chuyện ông Đạo Lập tiết lộ đã hóa rắn theo dõi và đốt tờ mật chiếu để bảo vệ mưu đồ đại nghĩa. Từ đó người đời đồn đại và tin là ông Đạo Lập biết tàng hình.

Dự báo thiên cơ

Theo lời của nữ sĩ Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội ở Hà Tiên, bà từng nghe kể lại ngày xưa ông cố của bà vốn là nhà hàng hải, thường chở hàng hóa sang Xiêm (Thái Lan) buôn bán. Hồi ấy, ông cố vừa đóng xong chiếc thuyền buôn đặt tên là Minh Thuận và định cho xuất cảng với hàng hóa là hồ tiêu, hải sâm, đồi mồi… thì đúng lúc ông Đạo Lập ghé nhà chơi. Sau lễ cúng kiếng, ông cố của bà hỏi xin ông Đạo Lập một phép bình an, may mắn cho chuyến khai trương đặc biệt này. Ông Đạo Lập đưa cho ông cố bà ba lá bùa và nói chuyến đi rồi cũng may mắn, phát tài. Duy chỉ có vướng chút lo sợ nhưng cuối cùng sẽ bình an vô sự. Với ba chiếc bùa, khi ra khỏi cửa Hà Tiên thì đốt đi một lá. Lá thứ nhì chờ lúc có một con cá to định làm hại thì đốt. Còn lá thứ ba để dành đốt khi vào cửa sông Bắc Nam.

Thuyền dong buồm với 10 người, chiếc bùa thứ nhất được đốt vừa lúc ra khỏi Hà Tiên. Thuyền ra giữa biển, thình lình ở trước mũi thuyền sóng bắn lên cao. Một con cá to nhảy bổng lên khỏi mặt nước, bằng một tầm người đứng. Vị thuyền trưởng nhớ lời dặn của ông Đạo Lập đem đốt lá bùa thứ hai. Thuyền lập tức bình yên, tiếp tục vượt biển.

Lênh đênh trên đại dương, một buổi chiều nọ, trước mũi thuyền bỗng vụt hiện lên vật gì to như hòn đảo. Cả thuyền ai nấy đều kinh ngạc, tưởng chừng tàu bị lạc vào đảo hoang. Nhưng nhìn kỹ thì thấy nó cử động và khi đến gần mới nhận ra một con kình ngư khổng lồ, đang đùng đùng lướt sóng chặn đầu thuyền. Biết rõ đó là con vật ăn thịt người, trên tàu ai nấy kinh hoảng. Vị thuyền trưởng bấy giờ mới sực nhớ lá bùa thứ nhì đã đốt, chắc chắn nó phải được đốt vào lúc này mới đúng. Cùng đường, thuyền trưởng đành đem đốt lá bùa thứ ba nhưng hoàn toàn vô hiệu.

Posted Image

Cửa sông Hà Tiên, nơi được truyền tụng ngày xưa ông Đạo Lập tiễn thuyền Minh Thuận đi buôn chuyến đầu.

Kình ngư lướt tới càng nhanh, cái vẫy đuôi nhẹ của nó cũng đủ làm thuyền lật úp. Lúc ấy mọi người đều trông rõ từng khía cạnh của cánh vi cá khổng lồ. Thuyền trưởng ra lệnh cho thuyền đảo chệch một bên để tránh vật dữ. Tuy nhiên, sóng bủa trùng trùng tràn ngập cả sàn thuyền. Cánh vi cá và cánh buồm thuyền đã cao ngang nhau và chỉ cách chưa đầy chục thước. Nháy chớp, lưng cá đã cọ vào sườn thuyền khiến thuyền chao nghiêng dữ dội. Phút nguy ngập ập đến nhưng không hiểu sao con kình ngư bỗng dừng lại. Đợi khi thuyền vừa vượt khỏi, nó mới quẫy đuôi một cái khiến thuyền phải quay tròn mấy vòng. Mọi vật trên thuyền đều bị xô đổ nhưng từ từ yên trở lại.

Ông Phạm Thái Chung người ở làng Đa Phước, huyện An Phú (An Giang). Ngoài tên mà người dân vẫn gọi là Đạo Lập, ông còn có biệt hiệu khác là Đức tiên sinh. Hằng năm cứ vào ngày 26-9 âm lịch, người dân cúng giỗ ông.

Từ hôm ấy cho đến khi trở về, thuyền được bình yên, không còn gặp trở ngại. Khi về tới Mũi Nai (Kiên Giang), vị thuyền trưởng vừa lên bờ đã thấy ông Đạo Lập đứng sẵn ở dưới đám dừa bên mé biển, cười nói: “Đoán biết bữa nay cậu về nên ghé lại đón mừng. Chà! Chiều hôm ở ngoài Thổ Châu, cậu đã sợ xanh mặt, khi đó tôi ngồi trên chóp cột buồm chớ đâu. Nếu tôi không giữ cho thuyền vững lại và đuổi quái ngư đi, nó sẽ cắm đến và đội lật thuyền, các người đều đã vào bụng nó rồi. Các người chẳng thấy từ xa nó hướng thẳng về mũi thuyền đó sao!”.

Thuyền trưởng bỗng thất sắc, nhớ lại từng phút lâm nguy ngoài biển. Ông Đạo Lập còn nói: “Chỉ tội nghiệp cho con cá bé, bỗng dưng chết oan ức vì lá bùa thứ hai, đáng lẽ phải để mà diệt con quái ngư ấy”. Nghe ông Đạo Lập nói, ai nấy đều kinh hồn.

Cho đến nay, dân vùng Thất Sơn và vùng ven biên giới dọc theo tuyến quốc lộ N1, nối từ Bảy Núi về miệt Kiên Lương, Hà Tiên vẫn còn kể khá nhiều chuyện về ông như ông Đạo Lập làm phép, ông Đạo Lập ném dao…

VĨNH SƠN

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vui lòng đăng nhập để bình luận

Bạn sẽ có thể bình luận sau khi đăng nhập



Đăng nhập ngay