Posted 19 Tháng 7, 2008 Nguồn: http://www.zenarch.vn Thức kiến trúc cổ Việt Nam << >> Thức kiến trúc cổ Việt Nam là một trật tự (order) hoặc là những quy định thống nhất về kích thước, các tương quan tỷ lệ giữa các chi tiết, thành phần kiến trúc trong một công trình kiến trúc theo phong cách cổ điển của Việt Nam với những quy tắc riêng biệt và điển hình đã được người Việt sử dụng trong lịch sử Việt Nam. Nó được đánh giá là thể hiện tài hoa, tri thức và truyền thống trong kiến trúc cổ Việt Nam. Hình ảnh ban đầu Kiến trúc cổ Việt Nam còn lại không nhiều và không phải là những công trình tiêu biểu nhất. Tinh hoa của kiến trúc cổ Việt Nam đã bị chôn vùi sau các cuộc tàn phá triệt hạ văn hóa phương Nam của Trung Hoa và quy luật thời gian (đa số những công trình cổ còn hiện hữu, có niên đại từ thời nhà Hậu Lê đến thời nhà Nguyễn). Người ta hiện còn biết rất ít (và cũng nhiều điều người ta chưa biết gì) về kiến trúc các cung điện thời Lý-Trần, được xem là thời kỳ văn minh nhất của Đại Việt và được sử sách khen ngợi là trước đó chưa hề có, sánh ngang cùng Trung Hoa phương Bắc. Những nền đất còn lại của các ngôi chùa thời kỳ này như chùa Phật Tích, chùa Dâu... có thể chứng minh được những lời này. Tuy vậy, những gì còn lại trên tại Việt Nam ngày nay cũng để người ta biết cách thức xây dựng trong dân gian và những quy định trong cấu tạo kiến trúc thời xưa, được gọi là "thức kiến trúc cổ Việt Nam". Phương đình Đền Đô ở Bắc Ninh Khi nói về kiến trúc cổ Việt Nam, nhiều người lầm tưởng nó là kiến trúc Trung Hoa. Nhưng thật ra kiến trúc cổ Việt Nam khác nhiều so với hệ kiến trúc Trung-Nhật-Hàn (3 nước này khá tương đồng nhau). Kiến trúc cổ Việt Nam cũng lấy gỗ làm vật liệu xây dựng cơ bản và tạo đặc trưng riêng cho nền kiến trúc của mình, tương phản với kiến trúc gạch đá của các vùng còn lại trên thế giới. Nét đặc trưng Thức kiến trúc cổ Việt Nam: dốc mái thẳng Có 3 nét đặc trưng của kiến trúc cổ Việt Nam làm ta phân biệt trong nền kiến trúc gỗ cổ phương Đông: - Dốc mái thẳng - Dùng bảy, kẻ đỡ mái hiên - Cột mập to, phình ở phần giữa thân dưới Nếu so sánh với thức kiến trúc cổ Trung Quốc sẽ thấy được sự khác nhau: - Dốc mái võng xuống - Đỡ mái hiên bằng hệ đấu-củng (còn gọi là con sơn chồng đấu) - Cột thanh mảnh, tròn đều Triền mái của kiến trúc cổ Việt Nam thẳng, không cong, nhưng hếch lên ở góc mái tạo sự thanh thoát, lấy cảm hứng từ mũi thuyền của nền văn hóa sông nước. Phần mái lớn và thường chiếm tới 2/3 chiều cao mặt đứng công trình. Trong khi kiến trúc Trung Hoa mái cong và chỉ hơi hếch ở góc mái. Ngói lợp mái truyền thống Việt Nam là ngói mũi hài còn gọi là ngói vẩy rồng trong khi ngói lợp Trung Hoa là ngói âm dương hay ngói ống. Trang trí trên mái cổ thường có các phần đặc trưng như những con giống gắn trên đầu đao, trong đó con giống luôn là hình tượng thể hiện tinh thần ngôi nhà, được làm từ đất nung hanh vữa truyền thống. Tiếp theo là các bờ nóc có đặt gạch hoa chanh, đỉnh mái gắn con kìm, con sô, con náp, hay lạc long thủy quái. Khu đĩ thường để trống thông thoáng và có chạm yếm trang trí gọi là vỉ ruồi. Trang trí mái lưỡng long chầu hổ phù Đỡ mái hiên bằng kẻ, hay bảy, một thanh chéo đỡ mái hiên vươn ra bằng nguyên tắc đòn bảy rất hay. Không dùng hệ đấu - củng rất nhiều chi tiết như Trung Hoa. Cột là phần đỡ chính của công trình, toàn bộ khối lượng công trình đều đặt lên các cột. Cột tròn và to mập, phình ở giữa. Chi tiết giằng cột chuẩn Sức nặng công trình được đặt lên cột, cột đặt lên các đế chân cột chứ không chôn xuống nền và chính sức nặng của công trình làm công trình ổn định và vững vàng. Trong thức kiến trúc cổ Việt Nam chạm trổ là phần rất quan trọng, nó thể hiện tinh thần công trình. So với kiến trúc Trung Hoa thích vẽ hình và sơn mầu sặc sỡ, kiến trúc cổ Việt Nam thường để mộc mầu gỗ hay quét sơn ta bảo vệ có mầu nâu, thích chạm trổ. Trong thức kiến trúc cổ Việt Nam, tất cả các kích thước tính của công trình đều dựa theo Thước Tầm, một cây thước được tính theo kích thước cơ thể gia chủ. Đây là một điều độc đáo, theo cách phân tích cái đẹp tỷ lệ thì thước tầm là modulor của kiến trúc cổ Việt Nam như modulor của kiến trúc Hy Lạp, tạo ra vẻ đẹp hình học tinh tế như độ dốc mái, tỉ lệ chiều cao mái với phần chân cột, sự thích hợp với người gia chủ. Thước Tầm Căn nhà được xây dựng theo các vì nhà, sau đó các vì được dựng lên và nối với nhau bằng các xà ngang và xà ngưỡng tạo thành một hình hộp, sau đố là lợp mái và làm tường nhà. Vì nhà chính là đơn vị cơ bản khi nói đến kích thước ngôi nhà, giữa hai vì gọi là "gian". Vì nhà cũng là đặc trưng cho lối kiển trúc theo từng địa phương và từng thời kỳ, tuy rất trung thành với thức kiến trúc cổ Việt Nam. Khung nhà phân không gian nhà thành các gian nhà, thường có các bộ phận sau: Tên gọi các cấu kiện bộ vì nhà và hệ mái Cột là kết cấu đứng chịu nén, thường có các loại cột: - Cột cái: cột chính của nhà đặt ở hai đầu nhịp chính - Cột quân hay cột con: cột phụ nằm ở đầu nhịp phụ hai bên nhịp chính; - Cột hiên: nằm ở hiên nhà, phía trước. Liên kết đầu cột Liên kết đầu cột Liên kết cột - kẻ nóc Liên kết chân cột Xà là các giằng ngang chịu kéo, liên kết các cột với nhau, gồm có các loại xà nằm trong khung và các loại xà nằm ngoài khung vuông góc với khung. Xà nằm trong khung, thường đặt ở cao độ đỉnh các cột quân để liên kết được cả cột cái và cột quân, gồm: - Xà lòng hay chếnh: liên kết các cột cái của khung; - Xà nách hay thuận: liên kết cột quân vào cột cái, trong khung. Kẻ là các dầm đơn đặt theo phương chéo của mái nhà, gác lên các cột bằng liên kết mộng, thường có các loại kẻ sau: - Kẻ ngồi gác từ cột cái sang cột quân, trong khung; - Kẻ hiên gác từ cột quân sang cột hiên, trong khung. Một phần kẻ hiên được kéo dài conson qua cột hiên để đỡ phần chân mái. Chi tiết hiên Bẩy hay bẩy hậu hoặc bẩy hiên: là dầm conson nằm trong khung liên kết vào cột quân phía sau nhà, đỡ phần mái vẩy phía sau. Đối với nhà ở thì tiền kẻ, hậu bảy. Đối với các công trình công cộng như đình làng, thường bốn mặt xung quanh đều có hiên thoáng không có cột hiên, nên thường dùng bẩy hiên. Câu đầu là dầm ngang chính đặt trên cùng, khoá các đầu trên của các cột cái trong khung (gác lên các cột cái). Con rường là các đoạn gối đỡ mái dạng dầm gỗ hộp để đỡ hoành mái, được đặt chồng lên nhau. Chiều dài của chúng thu ngắn dần cân theo chiều vát của mái, càng các con rường bên trên càng ngắn. Ở vì nóc các con rường nằm chồng lên câu đầu. Con lợn còn gọi là rường bụng lợn: là con rường trên cùng, gối lên con rường bên dưới qua hai đoạn cột ngắn gọi là trụ trốn, và làm nhiệm vụ đỡ xà nóc (thượng lương). Bên dưới rường bụng lợn (giữa hai trụ trốn) là ván lá đề thường để điêu khắc trang trí. Con lợn có thể được thay bằng giá chiêng. Rường cụt là loại rường nằm ở vì nách (giữa cột cái và cột quân), chúng nằm chồng trên xà nách, chúng cũng đỡ hoành và vẫn thu dần chiều dài khi lên cao theo độ dốc mái. Các loại xà nằm ngoài khung gồm có: - Xà thượng liên kết đỉnh các cột cái giữa các khung với nhau. - Xà hạ hay xà đại liên kết các cột cái giữa các khung, tại cao độ đỉnh cột quân, gần sát vị trí liên kết xà lòng, xà nách vào cột cái. - Xà tử thượng (xà trên của cột con): liên kết các cột quân của các khung ở bên trên. - Xà tử hạ (xà dưới của cột con): liên kết các cột quân của các khung ở bên dưới, tại mức độ cao ngay trên hệ cửa bức bàn. - Xà ngưỡng nối các cột quân ở vị trí ngưỡng cửa. Xà này đỡ hệ thống cửa bức bàn. - Xà hiên liên kết các cột hiên của các khung. Thượng lương, còn gọi là đòn đô ông hay Xà nóc đặt trên đỉnh mái. Các kết cấu mái: - Hoành là các dầm chính đỡ mái đặt nằm ngang theo chiều dài nhà, vuông góc với khung nhà. - Dui là các dầm phụ trung gian, đặt dọc theo chiều dốc mái (trực giao với hoành), gối lên hệ thống hoành. - Mè là các dầm phụ nhỏ, đặt trực giao với dui, song song với hoành, gối lên hệ dui. khoảng cách giữa các mè là nhỏ nhất, vừa đủ để lợp ngói. Việc sử dụng hệ kết cấu hoành - dui - mè, nhằm phân nhỏ nhịp của kết cấu đỡ mái thành hệ lưới vừa đủ để lát lớp gạch màm và lợp ngói bên trên. - Gạch màn là một loại gạch lá nem đơn bằng đất nung, có tác dụng đỡ ngói đồng thời tạo độ phẳng cho mái, chống thấm dột và chống nóng. Gạch màn ngồi trực tiếp trên lớp mè. - Ngói mũi hài hay còn gọi là ngói ta hay ngói vẩy rồng, bằng đất nung, trực tiếp chống thấm dột và chống nóng, lợp trên lớp gạch màn và cũng có thể có lớp đất sét kẹp giữa. Chi tiết đỡ mái Các chi tiết kiến trúc khác: - Cửa bức bàn - Con tiện - Dạ tàu - Đầu đao Cửa dân gian Nhà Việt cổ có thể làm theo: - Hình thức hai mái, hai đầu hồi bít đốc - Hình thức bốn mái, với hai mái phụ hai đầu hồi gọi là hai chái nhà. Mỗi chái nhà gồm có một hàng cột quân (có thể thêm một hàng cột hiên), các hàng cột này xoay vuông góc với các hàng cột trong các gian chính. - Hình thức 8 mái chồng diêm. Modulor trong thức cổ Việt Nam Truyền thống người Việt thường làm theo nhà theo cơ số lẻ: - Phương đình 1 gian chính giữa, bốn xung quanh hệ cột quân đẳng hướng - Nhà 3 gian - Nhà 5 gian hay nhà 3 gian 2 trái - Nhà 7 gian hay nhà 5 gian 2 trái - Nhà 9 gian hay nhà 7 gian 2 trái Cơ sở tỷ lệ hài hoà giữa con người và kiến trúc Một số hình ảnh tham khảo và so sánh Hà Nội Chùa Một Cột Nghi môn Chùa Láng Văn Miếu Môn Tỷ lệ của Khuê Văn Các Mặt đứng Khuê Văn Các Chùa Kim Liên Bắc Ninh Phối cảnh góc Đình Bảng Mặt đứng, mặt bên, mặt bằng Đình Bảng Tỷ lệ Đình Bảng Gác chuông chùa Bút Tháp Thái Bình Chùa Keo Mặt cắt gác chuông Chùa Keo Huế Mặt cắt Đoan Môn Triều Miếu ở kinh thành Huế Share this post Link to post Share on other sites
Posted 19 Tháng 7, 2008 Nguồn: http://www.zenarch.vn Ngôn ngữ và kiến trúc nhà ở dân gian miền Trung << >> Lịch sử Việt Nam gắn liền với truyền thống chống giặc ngoại xâm và thiên tai nên thời gian gây dựng một nền văn hoá mang bản sắc Việt dường như quá ngắn ngủi. Để biết rõ hơn về kiến trúc nhà ở dân gian miền Trung cần tìm hiểu ý nghĩa của ngôn ngữ trong kiến trúc miền Trung. Trước tiên phải kể đến từ vựng trong ngôi nhà. - VÌ: Dãy cột từ trước ra sau. Nhà nhỏ mỗi dãy cũng phải có 2 hoặc 3 cột, vừa vừa thì 4 hoặc 5 cột, khá giả mỗi dãy được 6 hay 7 cột. - KÈO: Hệ thống gỗ kết nối các đầu cột của VÌ. Tùy theo số cột và hình dạng của KÈO ta có nhà RỌI hay nhà RƯỜNG. Các KÈO và CỘT liên kết nhau thành khung nhà, dân gian gọi là BỘ GIÀN TRÒ. Tùy theo vị trí, cột có nhiều tên khác nhau. - CỘT HIÊN: Cột ngoài cùng trước khi vào nhà. - CỘT QUÂN: Dãy cột kế tiếp chỗ cửa ra vào. - CỘT CÁI: Dãy cột giữa nhà. - CỘT QUYẾT TIỀN: Hai cột góc nhà phía trước. - CỘT QUYẾT HẬU: Hai cột góc nhà phía sau. - CỘT ĐẤM TIỀN: Hai cột Quân bìa nhà phía trước. - CỘT ĐẤM HẬU: Hai cột Quân bìa nhà phía sau. - CỘT CỬA ĐÔNG PHÒNG: Cột kế đấm hậu cùng với đấm hậu làm thành cửa vào phòng ở hướng Đông. - CỘT CỬA TÂY PHÒNG: Cột kế đấm hậu cùng với cột này làm thành cửa vào phòng ở hướng Tây. Nhà dân gian đa số quay hướng về hướng Nam, đây là hướng mà theo thuật Phong Thủy ngày xưa là tốt nhất. Cột Quân có nơi gọi là CỘT CON. Cột Cái có nơi gọi là cột hàng 1, cột Con là cột hàng 2, cột Hiên là cột hàng 3. Do đó ông bà ta thường ra HÀNG HIÊN hay HÀNG BA để hứng gió. KÈO cũng tùy theo vị trí mà có nhiều tên khác nhau. - KÈO QUYẾT TIỀN: Liên kết cột Cái bìa phía trước với cột Quyết Tiền. - KÈO QUYẾT HẬU: Liên kết cột Cái bìa phía sau với cột Quyết Hậu. - KÈO ĐẤM TIỀN: Liên kết cột Cái bìa phía trước với cột Đấm Tiền. - KÈO ĐẤM HẬU: Liên kết cột Cái bìa phía sau với cột Đấm Hậu. - XÀ: Nối các bộ Vì Kèo cũng tùy vị trí mà có tên khác nhau. - XÀ THƯỢNG: 2 thanh nối đầu cột Cái. - XÀ HẠ TIỀN: Nối đầu cột con phía trước. - XÀ HẠ HẬU: Nối đầu cột Con phía sau. - XÀ HIÊN: Nối đầu cột Hiên. - XÀ NGẠCH: Nối chân cột Con, nơi ngạch cửa ra vào. Bộ Vì Kèo của nhà 3 gian 2 chái, cũng tùy vị trí mà có tên như sau: - VÌ NHẤT TÂY: Bìa gian giữa hướng Tây. - VÌ NHÌ TÂY: Bìa gian bên hướng Tây. - VÌ NHẤT ĐÔNG: Bìa gian giữa hướng Đông. - VÌ NHÌ ĐÔNG: Bìa gian bên hướng Đông. Ở Bình Trị Thiên loại nhà Rường rất được ưa thích. Nhà thường làm theo 3 loại kích thước, căn cứ theo: - Chiều dài của TRẾNG, tính bằng thước mộc là khoảng cách của 2 tim cột cái. - Chiều cao cột CÁI, từ mặt TẢNG ( mặt kê đá chân cột ) đến TRỐC ( đầu cột ). - NHÀ BA HAI, có Trếng dài 3 thước 2 và cột cao 8 thước 6 nên còn gọi là nhà TÁM SÁU. - NHÀ BA BẢY, có Trếng dài 3 thước 7 và cột cao 9 thước 1 nên còn gọi là nhà CHÍN MỐT. - NHÀ BỐN HAI, có Trếng dài 4 thước 2 và cột cao 10 thước 5 nên còn gọi là nhà MƯỜI NĂM. Thước mộc là thước riêng của chủ nhà. Đo chiều dài của đốt chân ngón tay út, bàn tay trái nếu chủ nhà là nam. Nếu chủ nhà là nữ thì đo chân ngón tay út, bàn tay phải ( nam tả , nữ hữu ). Chiều dài này nhân cho 10, ta có 1 thước dài trên dưới 40 cm, tùy theo chủ nhà cao hay thấp, ngón tay dài hay ngắn. Kích thước này phù hợp với thước LỖ BAN, phải chăng đây là thước Lỗ Ban của riêng từng người ? - DÁNG CỘT: Cột được kê trên đá tảng ( Đá xanh vuông, mỗi cạnh 45 cm dày 10 cm Có hình dạng và tỷ lệ như hình vẽ) - CỬA RA VÀO: Giữa xà hạ tiền và xà ngạch ta có cửa ra vào. Đố trên của cửa gọi là Cầu Quảng có then cài. Đố đứng của cửa gọi là CON ĐỨNG, liên kết ngạch cửa, cầu Quảng với cột con. Trên ngạch cửa có khóet lỗ gọi là LỖ CẬU, để tra CHÂN CÔ của cánh cửa. Cánh cửa, người dân thích lọai THƯỢNG SONG HẠ BẢN. Đó là cánh cửa phía trên có song gỗ thẳng, hoặc con tiện, phía dưới là ván, vừa kín đáo, vừa mát. Kỹ thuật lắp ráp nhà bằng mộng mẹo có nguồn gốc từ lối gác cành lên chạc cây làm nhà chòi, dung ngoàm tự nhiên không có giá trị về nghệ thuật . Từ từ tiến đến mộng hở, rồi mộng mang thắt là mộng hoàn thiện nhất. Lỗ mộng có 2 phần: Phía trên là mộng trơn, phía dưới là lỗ mộng có mang thắt, khi lắp ráp thì tra đầu buông có mang thắt vào lỗ mộng trơn, rồi sập xuống lỗ mộng có mang thắt, sau đó lắp vào phần lỗ mộng trơn 1 thanh xuyên hoặc lắp kín bằng 1 con nêm. Kiểu mộng có mang thắt khi lắp ráp xong thì hoàn toàn ổn định, không một sức mạnh nào kéo ra được. Khi cần tháo ra thì làm những động tác ngược lại, vừa tiện, vừa nhanh. Trong ngôi nhà dân gian, cứ 2 vì kèo liên kết nhau thành bộ khung hình hộp, không biến dạng, các cột như được treo trên khung nhà và toàn bộ ngôi nhà như được đặt ngồi trên mặt đất. Hệ thống liên kết các vì kèo gồm : - Xà thượng ( Xuyên thượng ) Nối đầu cột cái. - Xà hạ ( Xuyên hạ ) Nối đầu cột quân. - Xà hiên: Nối đầu cột hiên. - Xà ngưỡng ( còn gọi là địa thu hay ngạch cửa ). Ở nhiều đình cổ có hệ thống xà tử kép gồm xà tử thượng và xà tử hạ, song song nối đầu các cột quân, giữa 2 xà tử được lồng ván lá gió. Tường không tham gia chịu lực, chỉ để che chắn, do đó nếu bão sập tường, động đất hay lún móng nhà cũng không sập. Qua mặt cắt ngang, ta thấy các bộ phận giằng, ăn mộng vào cột, hoặc chồng đè lên nhau, chủ yếu liên kết 2 cột cái và 2 cột quân, phần đỡ mái hiên, giao cho đoạn đầu kẻ. 1. KÈO MÁI Kèo chính từ nóc xuống cột quân ( cột nhì ) và có 4 cái. Hai kèo tiền và 2 kèo hậu nhỏ đầu trên, to dần đến họng cột nhì, cong xuống rồi thẳng ra. Đầu trên kèo tiền có buông va lỗ con sẽ ( hay lỗ con tron ). Đầu trên kèo hậu có mõ, tức rãnh xẻ cho buông lồng vào, cũng có lỗ con sẽ. Chỗ 2 đầu kèo ráp, có con sẽ đóng lại, gọi là giao nguyên, đòn dông đặt trên giao nguyên. Chi tiết của Kèo mái - Từ giao duyên xuống họng cột nhất có bong túm. - Từ họng cột nhất đến họng cột nhì thì làm ống trấy. - Ở họng cột nhì, phần cong xuống rồi ngay ra là cổ kèo. - Từ cổ trở đi là đuôi kèo, mặt trên gọi là trôn, mặt dưới chạm tam sơn và lá lót 2 bên, phần trên phẳng gọi là lá mạn, phần dưới phình ra gọi là Má kèo thỉnh thoảng có chạm ốc rìa. - Suốt lưng kèo có 6 lỗ chốt đòn tay, nếu kiểu nhà kép người ta chồng Bạo hộc. 2. KÈO BA , KÈO TƯ Kèo Ba bắt nối từ cột nhì xuống cột ba có 4 cái. Đầu trên kèo ba cũng có buông để tra vào họng cột chồng lên trên miệng kèo mái. Đuôi kèo ba nếu không làm Cù Quày thì chạm tam sơn và lá lót, cũng có lá mạn, má kèo. Kèo Tư chỉ gặp ở những nhà lớn, nối cột ba với cột tư, chạm hình con cá kiểu nhà 1 gian 2 chái ít có kèo này. 3. KÈO ĐẤM, KÈO QUYẾT Kèo Đấm gọi tắt là Đấm, có 4 cái và làm ống trấy, 2 cái cho chái Đông, 2 cho chái Tây, chia ra đấm tiền và đấm hậu. Hai đấm tiền chạy suốt từ cột nhất xuống cột đấm ở hông chái, mà không cần kèo ba, nghĩa là không có cột đỡ ở giữa. Hai đấm hậu được tiếp theo bởi 2 đấm ba, tất nhiên có cột và cột này thường làm khung cửa. Đầu các đấm phải làm Mộng Vược, thứ mộng vừa để lọt 1/3 họng cột. Kèo Quyết Gọi tắt là Quyết, là những kèo bắt chéo từ cột nhất ra cột quyết ở góc chái co 4 cái. Kèo này thẳng và làm ống trấy, đầu có mộng vược đuôi có buông như các kèo đấm. Mỹ thuật dân gian nẩy sinh trong xã hội nông nghiệp, chỉ dựa vào kinh nghiệm và cảm tính, tính khoa học chưa được quan tâm. Do đó, không thể nhìn bằng chuẩn thẩm mỹ thế giới, mà nên dựa vào cách nhìn theo dân gian là "Thuận tay hay mắt" và "Sống (sống động) hơn giống". Vì thế, cùng một "hiệp thợ" (một nhóm thợ xây), ta luôn có những công trình đẹp khác nhau, và đó là tính cách động trong mỹ thuật kiến trúc dân gian ở miền Trung nói chung, đặc biệt Huế nói riêng. 1. Góc mái thẳng, cảm giác uốn cong là do bờ mái và trang trí đắp. 2. Vì Giả thủ là kiểu vì vừa chịu lực, vừa trang trí. Những bộ vì sử dụng trong nhà ở, nhà thờ, miếu đình, các dãy hành lang trong các lăng, là những biểu hiện đặc sắc của kỹ thuật xây cất bằng gỗ, vừa chắc, nhẹ, tiết kiệm, vừa đẹp vừa cân đối rất tự nhiên. 3. Kỹ thuật chạm trổ, sơn son thiếp vàng, khảm xà cừ, ghép sứ trên các ván nong trong các ngôi nhà cổ ở ngoại ô Huế rất đẹp, tuy phần lớn đề tài trang trí xuất xứ tại Trung Quốc, nhưng đã được Việt Nam hoá và thể hiện rất Huế. Màu sắc trong ngôi nhà chủ yếu là màu tự nhiên của vật liệu, sự phối hợp giữa màu nâu bạc của gỗ, màu đỏ của gạch ngói, màu trắng của vôi, thấp thoáng dưới những tán lá xanh, thật vô cùng hài hòa. Ngoài ra kỹ thuật khảm sứ qua trang trí bờ chảy, các chạm trổ tinh vi khéo léo trên các vì, kèo, xuyên. Dưới ánh nắng, những mảng sứ lấp lánh tia chiếu, làm cho công trình như dát bạc. Share this post Link to post Share on other sites